Bản án số 39/2024/HNGĐ-ST ngày 26/08/2024 của TAND tỉnh Lai Châu về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 39/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 39/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 39/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 39/2024/HNGĐ-ST ngày 26/08/2024 của TAND tỉnh Lai Châu về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Lai Châu |
Số hiệu: | 39/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/08/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | . |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TAND HUYỆN PHONG THỔ
TỈNH LAI CHÂU
Bản án số: 39/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 26/8/2024
Về tranh chấp ly hôn
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHONG THỔ, TỈNH LAI CHÂU
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đỗ Thị Huệ.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Lò Văn Chiên.
Ông Lý Quang Minh.
- Thư ký phiên tòa: Ông Lương Văn Đoàn – Thư ký Tòa án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ tham gia phiên toà:
Ông Đào Mạnh Hân - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh
Lai Châu tiến hành xét xử công khai vụ án hôn nhân và gia đình đã thụ lý số:
141/2024/TLST-HNGĐ, ngày 25 tháng 6 năm 2024 về việc “Tranh chấp ly hôn”
theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2024/QĐXXST-HNGĐ, ngày 30/7/2024,
giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Giàng Thị Xa, sinh năm 1991 (vắng mặt);
- Bị đơn: Anh Vàng A Tang, sinh năm 1987 (vắng mặt);
Đều cùng địa chỉ: Bản Ngài Chồ 1, xã Huổi Luông, huyện Phong Thổ, tỉnh
Lai Châu.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Đơn khởi kiện ngày 24/06/2024 cũng như trong quá trình giải quyết vụ
án nguyên đơn chị Giàng Thị Xa trình bày như sau:
Về tình cảm: Giữa chị và anh Vàng A Tang tự nguyện tiến đến hôn nhân và
đăng ký kết hôn vào năm 2016 tại Ủy ban nhân dân xã Huổi Luông, huyện Phong
Thổ, tỉnh Lai Châu. Thời gian đầu chị và anh Tang chung sống hạnh phúc nhưng sau
đó anh, chị phát sinh nhiều mâu thuẫn trong cuộc sống. Nguyên nhân mâu thuẫn là
do anh Tang không tu chí làm ăn, không chăm lo cuộc sống gia đình, không quan
tâm đến vợ con, thường xuyên rượu chè, về nhà mắng chửi, đánh đập chị, cuộc sống
vợ chồng ngày càng không hợp nhau và mâu thuẫn gia đình ngày càng trầm trọng,
anh Tang không còn tôn trọng chị và thường xuyên xúc phạm chị mỗi khi say rượu
hoặc bức tức việc gì đó. Chị xác định tình cảm vợ chồng không còn hạnh phúc, mục
đích hôn nhân không đạt được, nên hiện tại anh chị không còn sống chung với nhau
nữa. Do chị không còn tình cảm với anh Vàng A Tang, nên chị yêu cầu Tòa án giải
quyết cho chị được ly hôn với anh Vàng A Tang.
Về con chung: Trong thời gian chung sống chị và anh Vàng A Tang có với
nhau 02 con chung tên Vàng A Dũng, sinh ngày 26/12/2016 và Vàng Thị Chi, sinh
ngày 23/7/2018. Trước khi làm thủ tục ly hôn, anh Tang và gia đình anh Tang đã ý
kiến với chị và chính quyền thôn cũng như trưởng bản là anh Tang có nguyện vọng
muốn nuôi cả 02 con chung, và không muốn để chị nuôi. Vì vậy sau khi ly hôn, chị
cũng nhất trí giao 02 con chung cho anh Tang và gia đình anh Tang trực tiếp chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi các con chung trưởng thành. Về nghĩa vụ cấp
dưỡng nuôi con, chị không thực hiên nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Bị đơn anh Vàng A Tang: Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã
tiến hành tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và các giấy triệu tập nhưng anh Tang
vẫn vắng mặt không có lý do nên không thể tiến hành hòa giải được. Do đó, Tòa án
tiến hành đưa vụ án ra xét xử theo quy định pháp luật.
Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Giàng Thị Xa vẫn giữ nguyên yêu cầu
khởi kiện về việc được ly hôn với anh Vàng A Tang, đề nghị giao 2 con chung là
cháu Vàng A Dũng, sinh ngày 26/12/2016 và cháu Vàng Thị Chi, sinh ngày
23/7/2018 cho anh Vàng A Tang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và chị cũng không
thực hiện việc cấp dưỡng nuôi con.
Bị đơn anh Vàng A Tang vắng mặt tại phiên tòa nên không thể hiện ý kiến đối
với vụ án.
* Trong quá trình giải quyết vụ án, qua lời khai của con chung là cháu Vàng A
Dũng đã khai như sau: Bố mẹ cháu hay cãi chửi nhau thường xuyên và nguyện vọng
của cháu với em cháu là được ở với bố và ông bà nội, ông bà nội rất yêu thương
chúng cháu và bố cháu đi làm thường xuyên gọi điện thoại và gửi tiền cho ông bà
nuôi chúng cháu ăn học, còn mẹ chúng cháu từ khi bỏ về nhà ông bà ngoại ở huyện
Sìn Hồ, thì mẹ cháu không còn gọi điện, quan tâm, hỏi han hay chăm sóc cháu và
em cháu nữa. Nếu bố mẹ cháu ly hôn thì chúng cháu đều muốn ở cùng bố và ông bà
nội.
* Kết quả xác minh qua trưởng bản Ngải Chồ 1 và đại diện chính quyền địa
phương, nơi cư trú của chị Giàng Thị Xa và anh Vàng A Tang đều thể hiện: Chị Xa
và anh Tang trong quá trình chung sống có xảy ra mâu thuẫn cãi chửi nhau và hiện
nay vợ chồng anh chị đang sống ly thân. Tại thời điểm vợ chồng chị Xa và anh Tang
mâu thuẫn có mời chính quyền thôn bản và đại diện 02 bên gia đình đến hòa giải đoàn
tụ nhưng không thành và sau đó 2 anh chị đã thỏa thuận và thống nhất nội dung như
sau: Chị Xa và anh Tang nhất trí sẽ ly hôn, chị Xa đồng ý để 02 con chung là cháu
Dũng và Chi cho anh Tang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi trưởng thành, chị
Xa có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con 01 lần là 10.000.000 đồng, và chị Xa đã giao
đủ số tiền trên cho anh Tang rồi. Từ khi chị Xa và anh Tang ly thân thì chị Xa cũng
không còn để ý đến con chung và không đến thăm nom quan tâm các con chung nữa.
* Kết quả xác minh người thân trong gia đình anh Tang, thể hiện: Gia đình bố
mẹ và anh chị em nhà anh Tang đều biết mâu thuẫn giữa chị Xa và anh Tang không
thể hàn gắn được, cho nên gia đình hai bên đều nhất trí cho anh chị ly hôn. Các con
chung của anh chị là cháu Dũng và Chi từ lúc sinh ra đến nay đều ở chung cùng ông
bà nội và anh Tang, chị Xa. Các cháu được ông bà nội chăm sóc nuôi dưỡng đầy đủ
và gia đình rất thương yêu 02 cháu. Từ khi mâu thuẫn xảy ra, chị Xa bỏ về nhà bố
mẹ đẻ ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu, sau đó chị Xa cũng không còn quan tâm chăm
sóc các con chung nữa. Còn anh Tang thì đi làm vẫn thường xuyên điện thoại về nhờ
bố mẹ chăm sóc trông nom các con giúp và gửi tiền về cho các con ăn học đầy đủ.
Anh Tang không đến Tòa giải quyết ly hôn nhưng cũng nhất trí việc ly hôn với chị
Xa và anh Tang có nguyện vọng được là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02
con chung là cháu Dũng và Chi cho đến khi các con đến tuổi trưởng thành.
* Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai
Châu có ý kiến về thủ tục tố tụng như sau: Quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ
lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán đã chấp hành
đúng các quy định của pháp luật về nhiệm vụ quyền hạn của Thẩm phán được phân
công. Tiến hành thụ lý vụ án đúng trình tự, thủ tục và gửi thông báo thụ lý vụ án
đúng thời hạn quy định; xác định đúng tư cách tố tụng của đương sự; thu thập chứng
cứ khách quan, công khai; ra quyết định xét xử và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát
nghiên cứu đúng thời hạn luật định; việc cấp, tống đạt văn bản tố tụng đảm bảo. Hội
đồng xét xử đã xét xử vụ án đúng nguyên tắc, thành phần. Nguyên đơn trong quá
trình giải quyết vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Bị đơn anh Vàng A
Tang chưa tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều
28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản
4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân
& gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án:
Về quan hệ hôn nhân: Xử chị Giàng Thị Xa được ly hôn anh Vàng A Tang.
Về con chung: Giao 02 con chung là cháu Vàng A Dũng, sinh ngày 26/12/2016
và cháu Vàng Thị Chi, sinh ngày 23/7/2018 cho anh Vàng A Tang là người trực tiếp
trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi 02 con chung thành niên
(đủ 18 tuổi). Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ
thăm nom con mà không ai được cản trở.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Giàng Thị Xa không phải thực hiện việc
cấp dưỡng.
Về án phí: Chị Giàng Thị Xa được miễn án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa
và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án:
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Vàng A Tang. Giữa nguyên đơn chị
Giàng Thị Xa và anh Vàng A Tang chung sống với nhau có đăng ký kết hôn theo
quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên được xem là hôn nhân hợp pháp. Bị đơn
có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tại bản Ngài Chồ 1, xã Huổi Luông, huyện Phong
Thổ, tỉnh Lai Châu. Chị Xa và anh Vàng A Tang chung sống với nhau không hạnh
phúc, chị Giàng Thị Xa có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh
Vàng A Tang, nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp ly hôn,
tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Phong Thổ theo
quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật
tố tụng dân sự năm 2015.
2. Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành triệu tập bị đơn anh Vàng A Tang
tham gia phiên họp về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhiều
lần nhưng anh đều vắng mặt không có lý do nên Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét
xử.
Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ lần thứ hai về việc đưa vụ án ra xét xử
nhưng anh Vàng A Tang vẫn vắng mặt không có lý do, nên Tòa án tiến hành xét xử
vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015.
3. Nội dung vụ án:
- Về yêu cầu ly hôn của nguyên đơn: Quá trình giải quyết vụ án chị Xa trình
bày sau khi đăng ký kết hôn, chị và anh Vàng A Tang chung sống với nhau thì phát
sinh nhiều mâu thuẫn, chủ yếu do anh Vàng A Tang không chăm lo cho cuộc sống
gia đình, không tu chí làm ăn, hay rượu chè nhiều về nhà mắng chửi, xúc phạm chị,
dẫn đến vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, cuộc sống
hôn nhân ngày càng mâu thuẫn trầm trọng. Sau đó chị và anh Vàng A Tang đã ly
thân từ tháng 03 năm 2024 đến nay.
Hội đồng xét xử xét thấy: Theo quy định tại Điều 17; Điều 19; Điều 56 Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014 thì “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ
ngang nhau về mọi mặt trong gia đình; Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy,
tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công
việc trong gia đình” nhưng theo lời trình bày của chị Xa thì từ khi vợ chồng chị còn
sống chung với nhau và đến thời điểm chị và anh Tang không sống chung tới nay, anh
Vàng A Tang đã không quan tâm, chăm sóc chị, còn đánh đập và chửi bới, xúc phạm
chị, chính quyền thôn bản và gia đình hai bên đã cố gằng hòa giải mà không thành.
Tòa án cũng đã nhiều lần triệu tập hợp lệ đối với anh Vàng A Tang nhằm hòa giải, tạo
mọi điều kiện để anh chị hàn gắn tình cảm với nhau nhưng anh Vàng A Tang vẫn
vắng mặt không lý do, thể hiện anh Tang không thật sự muốn hàn gắn tình cảm với
chị Xa.
Xét trên thực tế chị Xa và anh Vàng A Tang đã sống ly thân, từ lâu không còn
sự quan tâm, thăm hỏi với nhau, cho thấy vợ chồng có sự bỏ mặc nhau, không còn
tôn trọng, thương yêu, chăm sóc nhau. Nhận thấy, tình trạng vợ chồng giữa chị Xa
và anh Vàng A Tang đã rạn nứt, quan hệ hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng,
đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Nếu tiếp
tục cũng không mang lại hạnh phúc cho chị Xa và anh Tang. Vì vậy, căn cứ Điều 56
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn
chị Giàng Thị Xa.
- Về con chung: Chị Xa trình bày giữa chị và anh Vàng A Tang chung sống với
nhau có 02 con chung là cháu Vàng A Dũng, sinh ngày 26/12/2016 và cháu Vàng
Thị Chi, sinh ngày 23/7/2018, ngoài ra không còn con chung nào khác. Sau khi vợ
chồng chị phát sinh mâu thuẩn, chị bỏ về ở cùng bố mẹ đẻ ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai
Châu, chị không đưa con chung nào đi cùng, vì các cháu đang sinh sống, học tập ổn
định tại nhà anh Tang và ông bà nội, anh Tang cũng như bố mẹ anh Tang không
đồng ý cho chị đưa các cháu đi theo. Hiện tại các con chị đang ở cùng ông bà nội và
anh Tang rất tốt, sinh sống và học tập ổn định, bản thân chị sau khi ly hôn sẽ đi làm
ăn ở xa không thể mang theo các con đi để chăm sóc các con được, trong khi đó anh
Tang và ông bà nội rất thương yêu các con, muốn 02 con ở cùng nhau, và anh Tang
cũng có nguyện vọng muốn được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung. Bản thân
Chị không muốn thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nữa vì trước đây hai bên
thỏa thuận mức cấp dưỡng chị phải đưa 01 lần cho a Tang là 10.000.000 đồng, và
chị cũng đã đưa cho anh Tang đủ 10.000.000 đồng trước sự chứng kiến của hai bên
gia đình và trưởng bản, do điều kiện kinh tế hiện tại chị rất khó khăn, chưa có việc
làm ổn định, thu nhập không có, hiện sống phụ thuộc vào bố mẹ đẻ, nếu sau này đi
làm mà có kinh tế thì chị sẽ có trách nhiệm với các con sau. Bị đơn anh Tang không
có mặt tại phiên tòa nên không biết ý kiến của anh về phần cấp dưỡng nuôi con có
giữ nguyên quan điểm như ạnh chị đã thỏa thuận trước đây hay không.
Hội đồng xét xử xét thấy: Qua lời trình bày của chị Xa thấy rằng các con chung
hiện đang sinh sống ổn định và rất tốt cùng anh Tang và bố mẹ anh Tang, việc sinh
hoạt và học tập của các cháu Vàng A Dũng và Vàng Thị Chi là do ông bà nội và anh
Tang thực hiện. Bên cạnh đó, anh Vàng A Tang không đến tham gia phiên tòa nên
không có ý kiến thừa nhận hay phản đối với lời trình bày của chị Xa, nên căn cứ vào
khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử ghi nhận lời trình bày
của chị Xa. Nhận thấy, việc giao con chung cho anh Tang trực tiếp nuôi dưỡng, bên
cạnh đó cùng với sự giúp đỡ của bố mẹ anh Tang, cũng là ông bà nội của các cháu
trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục các cháu, sẽ đảm bảo được cho các
cháu môi trường sống tốt hơn cho việc phát triển thể chất lẫn tinh thần, đảm bảo
không làm xáo trộn cuộc sống hiện tại của cháu. Chị Xa cũng đã trình bày chị sẽ đi
làm ở xa, không tiện mang theo con đi cùng và cũng không có thời gian trông nom,
chăm sóc con do phải đi làm, nên Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến giao con chung
cho anh Tang trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng. Song, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ
đối với con cái (con chung) là thiêng liêng nên người không trực tiếp nuôi con là chị
Giàng Thị Xa có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà
không ai được cản trở.
Do chị Xa không thực hiện yêu cầu cấp dưỡng nuôi con và anh Tang cũng
không có mặt tại phiên tòa để thể hiện ý kiến, nên không đặt ra xem xét giải quyết.
- Về tài sản chung và nợ chung: Do vụ án xét xử vắng mặt bị đơn nên chỉ ghi
nhận ý kiến của nguyên đơn về việc không có tài sản chung và không có nợ chung.
Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.
4. Về án phí: Chị Giàng Thị Xa có đơn xin miễn án phí vì chị cho rằng chị hiện
đang sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn. Vì vậy, áp
dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2017/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Nguyên đơn chị Giàng Thị Xa được
miễn án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
khoản 2 Điều 92, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227,
Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, Điều 56, Điều 57,
Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 116 Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2014; khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Giàng Thị Xa.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Giàng Thị Xa được ly hôn với anh Vàng A Tang.
2. Về con chung: Giao 2 con chung là cháu Vàng A Dũng, sinh ngày
26/12/2016 và Vàng Thị Chi, sinh ngày 23/7/2018 cho anh Vàng A Tang trực tiếp
nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi. Chị Giàng Thị Xa không phải thực hiện việc cấp dưỡng
và chị Xa có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Anh
Vàng A Tang cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không
trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Giàng Thị Xa cho rằng không có tài sản
chung, nếu sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ kiện khác.
4. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Giàng Thị Xa được miễn án phí ly hôn sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo kể
từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định) để yêu cầu Tòa
án nhân dân tỉnh Lai Châu xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Nơi nhận:
-Các đương sự;
- TAND tỉnh Lai Châu;
- VKSND tỉnh Lai Châu;
- VKSND huyện Phong Thổ;
- Chi cục THADS huyện Phong Thổ;
- UBND xã Huổi Luông, huyện Phong Thổ;
- Lưu HSVA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Đỗ Thị Huệ
Tải về
Bản án số 39/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 39/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 08/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 05/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 18/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm