Bản án số 324/2024/DS-PT ngày 28/10/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 324/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 324/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 324/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 324/2024/DS-PT ngày 28/10/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 324/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/10/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Trần Xuân H và giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2024/DS-ST ngày 07/5/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 324/2024/DS-PT
Ngày: 28/10/2024
V/v: “Tranh chấp QSDĐ, yêu cầu công nhận
Hợp đồng CNQSDĐ và hủy Giấy CNQSDĐ”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
ông Trần Đức Kiên
Các Thẩm phán:
ông Nguyễn Tấn Long
ông Phạm Ngọc Thái
- Thư ký phiên tòa: bà Đinh Thị Trang – Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên tòa:
bà Phạm Thị Nguyệt Minh – Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 10 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng kết nối với điểm cầu thành phần tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đăk
Lăk,mở phiên toà xét xử phúc thẩm công khai theo hình thức trực tuyến vụ án dân sự
thụ lý số 109/2024/TLPT-DS ngày 24 tháng 6 năm 2024 về việc“Tranh chấp quyền
sử dụng đất, yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và yêu
cầu hủy Giấy CNQSD đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2024/DS-ST ngày 07 tháng 5 năm 2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1978/2024/QĐ-PT ngày 14
tháng 10 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: ông Trần Xuân H, sinh năm 1959; địa chỉ cư trú: thôn A, xã C,
huyện E, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: ông Nguyễn Khánh
L – Luật sư Công ty L2 và Cộng sự, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đ; có mặt.
Địa chỉ: H G, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
- Bị đơn: ông Đỗ Bá H1, sinh năm 1961; địa chỉ cư trú: thôn D, xã Y, huyện E,
tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
1. Bà Phan Thị L1, sinh năm 1969; địa chỉ cư trú: thôn A, xã C, huyện E, tỉnh
Đắk Lắk; vắng mặt.
2. Anh Trần Văn H2, sinh năm 2004; địa chỉ cư trú: thôn A, xã C, huyện E, tỉnh
Đắk Lắk; vắng mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền của bà L1 và anh H2: ông Trần Xuân H; có mặt.
3. Ông Trần Văn C (Trần Ngọc C1), sinh năm 1962; địa chỉ cư trú: thôn D, xã
Y, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông C1: ông Phạm Công M – Trợ
giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đ; có mặt.
4. Ủy ban nhân dân huyện E; địa chỉ: C L, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo uỷ quyền:
+ Ông Nguyễn Văn P – Chức vụ: Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường
huyện E; vắng mặt.
+ Ông Đinh Tiến D – Chức vụ: Chuyên viên phòng Tài nguyên và Môi trường
huyện E; vắng mặt.
5. Bà Bùi Thị T, sinh năm 1970, địa chỉ cư trú: thôn D, xã Y, huyện E, tỉnh Đắk
Lắk; vắng mặt.
6. Anh Đỗ Xuân T1, sinh năm 1992, địa chỉ cư trú: thôn D, xã Y, huyện E, tỉnh
Đắk Lắk; vắng mặt.
7. Chị Đỗ Thị T2, sinh năm 1994; địa chỉ cư trú: thôn D, xã Y, huyện E, tỉnh
Đắk Lắk; vắng mặt.
8. Chị Đỗ Thị V, sinh năm 1996; địa chỉ cư trú: thôn A, xã Y, huyện E, tỉnh
Đắk Lắk; vắng mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền của bà T, anh T1, chị T2, chị V: ông Đỗ Bá H1
(theo giấy uỷ quyền ngày 21/12/2023); có mặt.
*Người kháng cáo: nguyên đơn ông Trần Xuân H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn đồng thời là người đại diện theo uỷ quyền của những người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị L1, anh Trần Văn H2 là ông Trần Xuân
H trình bày:
Năm 1988, bố mẹ ông Trần Xuân H và ông Trần Văn C là ông Trần Xuân K,
bà Nguyễn Thị N (hiện đều đã chết) đi kinh tế mới từ huyện V, tỉnh Thái Bình vào
huyện E, tỉnh Đắk Lắk và được cấp diện tích 1.500m
2
. Việc cấp đất không có văn bản,
giấy tờ gì. Sau đó, bố mẹ ông H không canh tác trên phần diện tích đất trên nữa, nên
đã giao lại cho ông H quản lý, sử dụng. Trong quá trình quản lý, sử dụng, ông H khai
phá thêm được tổng diện tích khoảng 4.900m
2
, ông H đã trồng cây điều và dựng nhà
ván. Năm 1994, ông Trần Xuân H được UBND huyện E cấp GCNQSD đất đối với
diện tích đất trên. Khoảng tháng 11/1995 do hoàn cảnh khó khăn nên ông H đã dỡ nhà
3
và bán cho ông Đ (họ tên đầy đủ ông H không nhớ rõ) trú tại thôn A, xã E, đồng thời
ông H cũng chuyển đi chỗ khác để sinh sống, tuy nhiên diện tích đất trên không sang
nhượng cho ai cũng như không cho ai mượn.
Đến năm 2004, ông Trần Xuân H được họ hàng báo tin là có ông Đỗ Bá H1 tự
ý đến phá vườn cây trên đất của ông H, múc đất nền nhà và đường đi của ông H để
làm ruộng lúa, khi đó ông H đã nhờ em trai là ông Trần Ngọc C1 đến nói với ông Đỗ
Bá H1 là diện tích đất trên ông H đã được cấp GCNQSD đất, ông H1 không được
canh tác trên đất nữa. Việc trao đổi giữa ông H với ông C1 không có văn bản giấy tờ
gì. Sau đó ông H có nghe ông C1 nói lại là ông H1 muốn nhận chuyển nhượng lại diện
tích đất trên với giá 20.000.000 đồng, tuy nhiên ông H không đồng ý.
Mặc dù biết ông Đỗ Bá H1 canh tác trên diện tích đất của mình từ năm 2004,
tuy nhiên do hoàn cảnh khó khăn, không có điều kiện nên đến năm 2021, ông Trần
Xuân H mới khởi kiện ông Đỗ Bá H1 đến Toà án nhân dân huyện Ea Súp, sau đó vụ
án được thụ lý và chuyển cho Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk giải quyết theo thẩm
quyền.
Nay ông Trần Xuân H yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk giải quyết các
vấn đề sau:
- Buộc ông Đỗ Bá H1 chấm dứt hành vi chiếm đất, trả lại cho ông Trần Xuân
H diện tích đất 4.598,2m
2
. Đây là phần diện tích đất sau khi đã trừ đi diện tích
1.082,7m
2
nằm ngoài ranh GCNQSD đất (thể hiện tại BL 64). Đối với phần diện tích
đất 124.8m
2
và 365,1m
2
mặc dù theo BL 64 thể hiện nằm ngoài ranh GCNQSD đất,
tuy nhiên hiện trạng ranh giới phần này từ khi ông Trần Xuân H khai phá đến nay
không có sự thay đổi. Do đó, ông Trần Xuân H vẫn yêu cầu ông Đỗ Bá H1 trả lại cho
ông phần diện tích này.
Đối với phần diện tích đất mặc dù nằm trong GCNQSD đất nhưng hiện nay
đang do người khác quản lý, sử dụng, ông Trần Xuân H không yêu cầu Toà án giải
quyết.
- Huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số P 133325 do UBND huyện E cấp
ngày 13/12/1999 cho ông Đỗ Bá H1 đối với thửa đất số 234, 238 tờ bản đồ số 7 tại xã
Y, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
Theo ông H, việc diện tích đất đang tranh chấp theo GCNQSD đất và theo kết
quả đo đạc thực tế có sự chênh lệch là do năm 1994 khi UBND huyện E làm thủ tục
cấp GCNQSD đất thì việc đo đạc được thực hiện thủ công nên có sự sai sót.
Đối với GCNQSD đất số D 0491253 do UBND huyện E cấp năm 1994 cho
ông Trần Xuân H, hiện nay ông Trần Xuân H không thế chấp cho tổ chức, cá nhân
nào.
Bị đơn đồng thời là người đại diện theo uỷ quyền của những người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan bà Bùi Thị T, anh Đỗ Xuân T1, chị Đỗ Thị T2, chị Đỗ Thị V
là ông Đỗ Bá H1 trình bày:
4
Thửa đất số 259, tờ bản đồ số 4, diện tích 4.900m
2
(theo đo đạc thực tế là
5.680,9m
2
) do UBND huyện E cấp GCNQSD đất năm 1994 cho ông Trần Xuân H có
nguồn gốc như sau:
Năm 1988 anh em của ông Trần Xuân H là ông Trần Văn C và ông Trần Văn
K1 (đã mất năm 2014) trong quá trình đi kinh tế mới tại huyện E đã được nhà nước
cấp (diện tích cụ thể bao nhiêu thì ông không rõ). Sau đó, trong quá trình quản lý, sử
dụng ông C và ông K1 đã khai hoang thêm được tổng diện tích là khoảng 5.000m
2
–
6.000m
2
. Đến năm 1996, ông Trần Văn K1 để lại diện tích đã khai hoang được cho
ông C, sau đó ông C đã sang nhượng toàn bộ diện tích đất nói trên cho ông Đỗ Bá H1.
Việc sang nhượng có lập giấy tờ viết tay, được UBND xã Y Mốt xác nhận. Năm 1999,
ông Đỗ Bá H1 được UBND huyện E cấp GCNQSD đất đối với diện tích đất nói trên.
Từ khi nhận chuyển nhượng đất từ ông C đến nay, ông H1 quản lý, sử dụng ổn
định không có tranh chấp với ai. Ông Trần Xuân H thường xuyên đi thăm anh em tại
khu vực đất của ông H1, tuy nhiên khi thấy ông H1 quản lý, sử dụng diện tích đất này
cũng không có ý kiến gì. Đến tháng 4 năm 2022, không biết vì lý do gì ông Trần Xuân
H đã làm đơn khởi kiện tại Toà án nhân dân huyện Ea Súp yêu cầu ông H1 phải trả lại
toàn bộ diện tích đất thuộc thửa số 259, tờ bản đồ số 4.
Nay, ông Trần Xuân H khởi kiện yêu cầu buộc ông Đỗ Bá H1 chấm dứt hành
vi chiếm đất, trả lại cho ông Trần Xuân H diện tích đất 4.900m
2
thuộc thửa đất số 259,
tờ bản đồ số 4 tại xã E (nay là xã Y) huyện E, tỉnh Đắk Lắk theo GCNQSD đất số D
0491253 do UBND huyện E cấp năm 1994 đồng thời yêu cầu hủy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số P 133325 do UBND huyện E cấp ngày 13/12/1999 cho ông Đỗ
Bá H1 đối với thửa đất số 234, 238 tờ bản đồ số 7 tại xã Y, huyện E, tỉnh Đắk Lắk thì
ông Đỗ Bá H1 không đồng ý.
Ông Đỗ Bá H1 đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk giải quyết các vấn đề
sau:
- Đề nghị công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Giấy
sang nhượng đất thổ cư lập ngày 05/01/1996 giữa ông Trần Văn C (Trần Ngọc C1)
với ông Đỗ Bá H1;
- Huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0491253 do UBND huyện E
cấp năm 1994 đối với thửa đất số 259, tờ bản đồ số 4 cho hộ ông Trần Xuân H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn C trình bày:
Ông là em ruột của ông Trần Xuân H, về nguồn gốc đất như ông H trình bày là
không đúng. Năm 1988, bố mẹ Ông đi theo diện kinh tế mới từ huyện V, Thái Bình
vào huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Tuy nhiên, do thời điểm đó ông K, bà N đã hết tuổi lao
động nên không được cấp đất mà cấp cho ông C cùng anh trai là ông Trần Xuân K2
(Trần Văn K1) mỗi người 1.500m
2
. Việc chia đất lúc đó không có giấy tờ gì. Sau đó
ông C cùng ông K1 khai phá được tổng diện tích đất khoảng 5.000m
2
– 6.000m
2
.
Năm 1991, ông Trần Xuân H (là em ruột ông K1, anh ruột của ông C) từ huyện
E về E sinh sống. Khi đó, ông K1 cùng ông C thoả thuận cho ông Trần Xuân H mượn
toàn bộ diện tích đất nói trên để canh tác lúa đậu và thoả thuận khi nào ông H chuyển
5
đi nơi khác thì phải trả lại đất cho ông K1 và ông C. Vì là anh em nên việc cho mượn
đất chỉ thoả thuận bằng miệng chứ không được lập thành văn bản, giấy tờ gì.
Trên diện tích đất ông C và ông K1 cho ông H mượn trước đó có 01 căn nhà
tạm lợp tranh hai gian, nhưng sau đó ông H đã dỡ bỏ căn nhà này đi và dựng lại căn
nhà khác. Đến năm 1995, giữa ông K1 và ông H đã xảy ra mâu thuẫn nên ông H đã
bỏ đi nơi khác để sinh sống và gọi ông Đ nhà ở đội A, xã E đến dỡ căn nhà mà ông H
đã dựng.
Đến năm 1996, ông K1 đã giao lại toàn bộ diện tích đất của ông K1 cho ông C
quản lý, sử dụng. Cũng trong năm đó ông C đã sang nhượng lại toàn bộ diện tích đất
nói trên cho ông Đỗ Bá H1 theo giấy sang nhượng đất lập ngày 05/01/1996 (ông K1
chết năm 2014).
Việc ông Trần Xuân H cho rằng năm 2004, ông H có nói với ông C về việc
không đồng ý cho ông H1 canh tác trên diện tích đất nói trên là không đúng. Ông
không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Trần Xuân H. Đề nghị Toà án xem xét
không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trần Xuân H; chấp nhận yêu cầu
phản tố của ông Đỗ Bá H1 về việc: công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất theo Giấy sang nhượng đất thổ cư lập ngày 05/01/1996 giữa ông Trần Văn
C (Trần Ngọc C1) với ông Đỗ Bá H1.
- Huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0491253 do UBND huyện E
cấp năm 1994 đối với thửa đất số 259, tờ bản đồ số 4 cho hộ ông Trần Xuân H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND huyện E trình bày:
- Đối với hộ ông Trần Xuân H:
Ngày 06/04/1994, ông Trần Xuân H và bà Phan Thị L1, trú tại: thôn G, xã E,
huyện E, tỉnh Đắk Lắk có đơn xin đăng ký và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đối với thửa đất số 259 tờ bản đồ số 4 xã E, diện tích 4.900m
2
(trong đó có 400m
2
đất
ở + 4.500m
2
đất trồng điều) và thửa đất số 221 tờ bản đồ số 4 xã E, diện tích 2.530m
2
đất một lúa. Nguồn gốc sử dụng đất ghi trong đơn là được UBND xã cấp.
Nội dung đăng ký và cấp GCNQSD đất nêu trên của hộ ông Trần Xuân H đã
được Hội đồng đăng ký, cấp GCNQSD đất của xã E xác nhận trong đơn xin cấp giấy
CNQSD đất với nội dung: đồng ý cấp Giấy chứng nhận.
Ngày 11/10/1994, UBND huyện E ban hành Quyết định số 110-QĐ/UB về việc
cấp GCNQSD đất cho 01 tổ chức và 759 cá nhân tại xã E, huyện E; trong đó, có ông
Trần Xuân H, trú tại: thôn G, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Ngày 15/11/1994, UBND
huyện E ký giấy CNQSD đất số D 0491253 cấp cho ông Trần Xuân H.
Từ kết quả kiểm tra hồ sơ nêu trên, việc UBND huyện E cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số D 0491253 cho ông Trần Xuân H là thực hiện theo trình tự thủ
tục quy định của pháp luật.
- Đối với hộ ông Đỗ Bá H1, địa chỉ thôn 4 xã Ya Tờ Mốt:
6
Xã Ya Tờ Mốt được thành lập năm 1995 theo Nghị định số 61/NĐ-CP ngày
07/10/1995 của Chính phủ trên cơ sở tách ra từ địa bàn xã E (sau thời điểm UBND
huyện cấp giấy CNQSD đất cho hộ ông Trần Xuân H).
Năm 1999, Sở Địa Chính tỉnh Đ (nay là Sở T6) giao cho Trung tâm kỹ thuật
địa chính tỉnh Đ trực thuộc Sở Địa chính thực hiện Dự án đo đạc giải thửa và cấp giấy
CNQSD đất cho các hộ gia đình, cá nhân tại địa bàn xã Y Mốt mới được thành lập.
Diện tích đo đạc giải thửa tại xã Y Mốt mới một phần đo trùng lên diện tích đã
được đo đạc giải thửa và cấp giấy CNQSD đất của xã Ea Bung năm 1993-1994 trong
đó có hộ ông H.
Ngày 11/10/1999, ông Đỗ Bá H1 làm đơn đăng ký cấp giấy CNQSD đất trong
đó có thửa đất số 234; 238 tờ bản đồ số 7 xã Y Mốt, ông H1 khai trong đơn về nguồn
gốc sử dụng đất là đất nhà nước cấp năm 1995. Do không được bàn giao hồ sơ địa
chính từ xã E sang xã Y Mốt (theo biên bản làm việc giữa Tòa án nhân dân huyện Ea
Súp với UBND xã Y Mốt ngày 28/3/2023) mà chỉ thẩm tra xác minh về hiện trạng sử
dụng nên UBND xã Y Mốt phê vào trong đơn “Đồng Ý cấp”.
Ngày 13/12/1999, UBND huyện E ban hành Quyết định cấp giấy CNQSD đất
số 1163/QĐ-UB cấp giấy CNQSD đất cho 586 hộ gia đình cá nhân tại xã Y Mốt trong
đó có thửa đất số 234; 238 tờ bản đồ số 7 xã Y Mốt cho ông Đỗ Bá H1.
Đề nghị Tòa án xem xét xét xử theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2024/DS-ST ngày 07 tháng 5 năm 2024,
Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk quyết định: căn cứ các Điều 26, Điều 34, Điều 37,
Điều 146, Điều 147, Điều 157, Điều 165, Điều 217, Điều 266, Điều 273 của Bộ luật
Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 164, Điều 166, Điều 175 Bộ luật Dân sự 2015; Điều
73, Điều 79 Luật Đất đai 1993; Điều 70 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014
của Chính phủ; Án lệ số 55/2022/AL của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao;
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trần Xuân H về việc:
+ Buộc ông Đỗ Bá H1 chấm dứt hành vi chiếm đất, trả lại cho ông Trần Xuân
H diện tích đất 4.598,2m
2
.
+ Huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số P 133325 do UBND huyện E
cấp ngày 20/01/2000 (theo Quyết định số 1163 của 13/12/1999 của UBND huyện E
về việc cấp GCNQSD đất) cho ông Đỗ Bá H1 đối với thửa đất số 234, 238 tờ bản đồ
số 7 tại xã Y, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
2. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện phản tố của bị đơn ông Đỗ Bá H1.
+ Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Giấy sang
nhượng đất thổ cư lập ngày 05/01/1996 giữa ông Trần Ngọc C1 (Trần Văn C) với ông
Đỗ Bá H1;
7
+ Hủy Giấy CNQSD đất số D 0491253 do UBND huyện E cấp năm 1994 đối
với diện tích 4.900m
2
, thửa đất số 259, tờ bản đồ số 4 tại xã Y, huyện E, tỉnh Đắk Lắk
cho hộ ông Trần Xuân H.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí dân sự sơ
thẩm và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 15/5/2024, nguyên đơn ông Trần Xuân H kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm theo
hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bác yêu cầu phản tố của
bị đơn.
Tại phiên toà, nguyên đơn ông Trần Xuân H giữ nguyên đơn khởi kiện và các
nội dung kháng cáo; các bên đương sự không hoà giải, không tự thoả thuận được với
nhau về việc giải quyết vụ án và đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử
căn cứ khoản 2 Điều 308; khoản 2 Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn ông Trần Xuân H, sửa Bản án dân sự sơ thẩm số
03/2024/DS-ST ngày 07 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk theo
hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Xuân H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; ý kiến trình bày,
tranh luận của đương sự và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng
xét xử nhận định:
[1]. Ngày 15/5/2024, nguyên đơn ông Trần Xuân H kháng cáo toàn bộ bản án
sơ thẩm. Đơn kháng cáo của nguyên đơn là trong thời hạn quy định tại Điều 273 của
Bộ luật tố tụng dân sự, do đó Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc
thẩm.
[2]. Nguyên đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm nên Hội đồng xét xử xem
xét toàn diện các vấn đề liên quan đến việc giải quyết vụ án như sau:
[2.1]. Về tố tụng:
Năm 1994, nguyên đơn ông Trần Xuân H được UBND huyện E cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0491253 đối với thửa đất số 259 (nay là thửa 234
và 238), tờ bản đồ số 4, diện tích 4.900m
2
, hiện ông Đỗ Bá H1 đang quản lý sử dụng.
Ngày 20/01/2000, ông Đỗ Bá H1 cũng được UBND huyện E cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số P 133325 đối với thửa đất số 234, 238 tờ bản đồ số 7 tại xã Y,
huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Các đương sự tranh chấp quyền sử dụng đối với các thửa đất
nêu trên, yêu cầu Tòa án hủy các giấy CNQSD đất và công nhận hợp đồng chuyển
nhượng QSD đất. Do đó, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắkxác định quan hệ tranh chấp
là tranh chấp về quyền sử dụng đất, yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thụ lý vụ án
là đúng quy định tại khoản 9 Điều 26, Điều 34, Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
khoản 4 Điều 32 của Luật Tố tụng hành chính.
[2.2]. Về nội dung:
8
[2.2.1]. Xét nguồn gốc, quá trình sử dụng thửa đất tranh chấp:
[2.2.1.1]. Trong quá trình giải quyết vụ án, các bên đương sự có lời khai khác
nhau về nguồn gốc thửa đất: phía nguyên đơn ông Trần Xuân H cho rằng thửa đất 259
ban đầu có diện tích 1.500m
2
do bố mẹ ông Trần Xuân H và ông Trần Văn C là ông
Trần Xuân K, bà Nguyễn Thị N (hiện đều đã mất) đi kinh tế mới từ huyện V, tỉnh Thái
Bình vào huyện E, tỉnh Đắk Lắk được cấp, việc cấp đất không có văn bản, giấy tờ gì.
Sau đó, bố mẹ ông H không canh tác trên phần diện tích đất trên nữa, nên đã giao lại
cho ông H quản lý, sử dụng. Trong quá trình quản lý, sử dụng, ông H khai phá thêm
được tổng diện tích khoảng 4.900m
2
. Phía người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Trần Văn C cho rằng thửa đất do Ông và anh trai là ông Trần Văn K1 (ông K1 là anh
ruột ông C, ông H) khi đi kinh tế mới mỗi người được cấp 1.500m
2
, sau đó ông C cùng
ông K1 khai phá được diện tích đất tổng khoảng 5.000m
2
– 6.000m
2
. Năm 1991, ông
K1 và ông C cho ông H mượn diện tích đất trên để canh tác. Nhưng đến năm 1995,
giữa ông K1 và ông H đã xảy ra mâu thuẫn nên ông H đã trả lại đất cho ông C, ông
K1 và bỏ đi nơi khác để sinh sống. Năm 1996, ông K1 đã giao lại toàn bộ diện tích đất
của ông K1 cho ông C quản lý, sử dụng và ông C đã đổi diện tích đất nói trên cho ông
Đỗ Bá H1 theo Giấy sang nhượng đất lập ngày 05/01/1996. Hội đồng xét xử thấy
rằng, các bên đương sự có lời khai thống nhất về thời điểm được cấp đất nhưng không
cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh về việc có được Ủy ban giao đất hay
không.
Tuy nhiên, theo nội dung Giấy sang nhượng thổ cư lập ngày 05/01/1996 giữa
ông Trần Văn C và ông Đỗ Bá H1 thể hiện “Từ năm 1988, vợ chồng tôi có khai phá
được số diện tích là 3000m
2
cạnh thổ cư của anh K1 diện tích cũng khoảng 3000m
2
.
Đến năm 1991, anh em tôi có cho vợ chồng anh Trần Văn H3 mượn để ở và canh tác.
Cho đến tháng 11/1995 vợ chồng anh H3 không làm nữa đã giao trả lại cho hai anh
em tôi. Vì điều kiện anh K1 không làm nữa đã nhượng lại cho vợ chồng tôi. Vì điều
kiện diện tích ruộng canh tác lúa quá ít nên tôi đã đổi đất ruộng cho vợ chồng anh Đỗ
Bá H1 số diện tích thổ cư trên...”. Giấy sang nhượng được Thôn phó là ông Nguyễn
Văn T3 xác nhận: “Lời trình bày của anh C theo như đơn trình bày là đúng sự thật”
và Phó Chủ tịch UBND xã Y M1 là ông Trần Văn T4 xác nhận: “Qua đơn xin trao
đổi về diện tích giữa hai gia đình có tên trên là thực tế. Thay mặt U theo đề nghị nói
trên của hai gia đình”. Như vậy, lời khai của ông C về nguồn gốc đất được đại diện
chính quyền xã xác nhận phù hợp với các tài liệu, chứng cứ về quá trình sử dụng đất
của ông C.
[2.2.1.2]. Về quá trình sử dụng đất:
Quá trình giải quyết vụ án, ông Trần Xuân H và ông Trần Văn C đều xác định
ông H có canh tác và làm nhà trên diện tích đang tranh chấp nhưng đến năm 1995, ông
H đã bỏ đi nơi khác để sinh sống và bán lại ngôi nhà ông H đã dựng trên phần đất tranh
chấp cho ông Đ nhà ở đội A, xã E. Năm 1996, ông C chuyển nhượng lại toàn bộ diện
tích đất cho bị đơn, sử dụng đến khi có tranh chấp năm 2022 (thời gian 26 năm).
Tại Bản tự khai ngày 14/6/2022 (bút lục 30), ông Trần Xuân H trình bày: “Năm
1996, tôi nghe họ hàng báo tin có ông Đỗ Bá H1 tự ý đến chặt phá vườn cây trên đất
của tôi, múc đất nền nhà của tôi để làm ruộng lúa. Tôi đã nhờ em trai tôi là Trần Văn
9
C để nói với ông Đỗ Bá H1 là đất đã có chủ rồi, tôi đã được nhà nước cấp GCNQSD
đất và tôi không đồng ý cho ông H1 canh tác trên đất của tôi”; tại Biên bản đối chất
ngày 01/11/2023 (bút lục 193), ông Trần Xuân H trình bày: “Đến năm 2004, ông được
họ hàng báo tin là có ông Đỗ Bá H1 tự ý đến phá vườn cây trên đất của ông H, múc
đất nền nhà và đường đi của ông H để làm ruộng lúa, khi đó ông H đã nhờ em trai là
ông Trần Ngọc C1 đến nói với ông Đỗ Bá H1 là diện tích đất trên ông H đã được cấp
GCNQSD đất, ông H1 không được canh tác trên đất nữa. Việc trao đổi giữa ông H
với ông C1 không có văn bản giấy tờ gì. Sau đó ông H có nghe ông C1 nói lại là ông
H1 muốn nhận chuyển nhượng lại diện tích đất trên với giá 20.000.000 đồng, tuy nhiên
ông không đồng ý”. Như vậy, thực tế ông H đã biết ông H1 quản lý, sử dụng thửa đất
số 259, tờ bản đồ số 4 tại xã Y nhưng không có ý kiến gì phản đối. Ông H cho rằng
có nhờ ông C1 thông báo với ông H1, nhưng nội dung này không được ông C1 thừa
nhận, ông H cũng không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh. Trong quá trình giải
quyết vụ án, mặc dù nguyên đơn yêu cầu buộc bị đơn phải trả lại diện tích 4.900m
2
đất theo giấy CNQSD đất số D 0491253 do UBND huyện E cấp ngày 15/11/1994 cho
ông Trần Xuân H nhưng ông H không xác định vị trí tứ cận, chiều dài các cạnh của
diện tích đất nói trên.
Hiện trạng đất do bị đơn quản lý theo Trích đo địa chính thửa đất ngày
31/8/2022 của Công ty TNHH D1 – chi nhánh Đ1 (bút lục 63) thì diện tích thực tế
hiện nay ông Đỗ Bá H1 đang quản lý, sử dụng là 5.680,9m
2
. Sau khi lồng ghép kết
quả hiện trạng lên giấy CNQSD đất số D 0491253 cấp cho ông H4 hiện: diện tích đất
mà ông Trần Xuân H được cấp giấy CNQSD đất với diện tích đất ông Đỗ Bá H1 đang
quản lý, sử dụng là không trùng khớp, cụ thể: phía Tây có 932,8m
2
nằm ngoài ranh
giấy CNQSD đất; phía Nam có 92,8m
2
hiện nay bà T5 đang quản lý, sử dụng; phía
Đông có 365,1m
2
nằm ngoài ranh giấy CNQSD đất và phía Bắc có 124,8m
2
nằm ngoài
ranh giấy CNQSD đất.
Do đó, việc ông Trần Xuân H chỉ căn cứ vào giấyCNQSD đất số D 0491253
do UBND huyện E cấp năm1994 để khởi kiện yêu cầu ông Đỗ Bá H1 trả lại đất, trong
khi ông H không quản lý, sử dụng đất kể từ sau khi được cấp giấy CNQSD đất và cũng
không xác định được ranh giới, tứ cận của thửa đất. Nên việc ông H cho rằng mình là
người có quyền sử dụng hợp pháp đối với thửa đất tranh chấpđể khởi kiện yêu cầu ông
Đỗ Bá H1 trả lại diện tích 4.598,2m
2
là không có cơ sở.
[2.2.2]. Xét Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đề ngày 05/01/1996
giữa ông Trần Ngọc C1 với ông Đỗ Bá H1:
Ngày 05/01/1996, ông C1 lập Giấy sang nhượng thổ cư, chuyển nhượng cho
ông Đỗ Bá H1 toàn bộ thửa đất, giấy chuyển nhượng lập ngày 05/01/1996 được chính
quyền xã Y Mốt xác nhận. Từ năm 1996 đến năm 2021, ông H1 quản lý, sử dụng ổn
định thửa đất nói trên mà không có ai tranh chấp. Ngày 20/01/2000, ông Đỗ Bá H1
được UBND huyện E cấp Giấy CNQSD đất số P 133325 đối với diện tích đất nhận
chuyển nhượng từ ông Trần Ngọc C1 gồm 02 thửa đất số 234 và số 238 tờ bản đồ số
7 tại xã Y, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; ngày 06/4/2016, ông Đỗ Bá H1 được gia hạn thời
hạn sử dụng đất đến ngày 31/12/2065. Mặc dù Giấy sang nhượng đất thổ cư đề ngày
05/01/1996 giữa ông Trần Ngọc C1 với ông Đỗ Bá H1 vi phạm về mặt hình thức
10
nhưng các bên không có tranh chấp về nghĩa vụ thanh toán, ông H1 đã quản lý, sử
dụng đất ổn định không có tranh chấp và được UBND huyện E cấp giấy CNQSD đất
nên theo Án lệ số 55/2022/AL của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, hợp
đồng chuyển nhượng lập giữa ông C1 và ông H1 được pháp luật công nhận hiệu lực.
[2.3]. Từ các nhận định tại mục [2] nêu trên của bản án, Hội đồng xét xử có đủ
căn cứ xác định: thửa đất các đương sự đang tranh chấp do ông C1 và ông K1 khai
hoang, sau khi cho ông H mượn canh tác, ông H đã tự ý kê khai, đăng ký để được cấp
Giấy CNQSDĐ. Do đó, bị đơn ông Đỗ Bá H1 có yêu cầu phản tố, đề nghị hủy Giấy
CNQSD đất số D 0491253 do UBND huyện E cấp năm 1994 cho hộ ông Trần Xuân
H đối với thửa đất số 259, tờ bản đồ số 4, là có căn cứ. Bản án dân sự sơ thẩm số
03/2024/DS-ST ngày 07/5/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Xuân H, chấp nhận yêu cầu phản tố của
bị đơn ông Đỗ Bá H1 là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử
không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Trần Xuân H; giữ nguyên quyết định
của bản án sơ thẩm.
[3]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên
nguyên đơn ông Trần Xuân H phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định. Ông H là
người cao tuổi nên được miễn nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Trần Xuân H và giữ nguyên
Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2024/DS-ST ngày 07/5/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk.
2. Căn cứ các Điều 26, Điều 34, Điều 37, Điều 146, Điều 147, Điều 157, Điều
165, Điều 217, Điều 266, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 164,
Điều 166, Điều 175 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 73, Điều 79 Luật Đất đai 1993; Điều
70 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ; Án lệ số 55/2022/AL
của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao;
Tuyên xử:
2.1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trần Xuân H về việc:
+ Buộc ông Đỗ Bá H1 chấm dứt hành vi chiếm đất, trả lại cho ông Trần Xuân
H diện tích đất 4.598,2m
2
.
+ Huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số P 133325 do UBND huyện E
cấp ngày 20/01/2000 (theo Quyết định số 1163 của 13/12/1999 của UBND huyện E
về việc cấp GCNQSD đất) cho ông Đỗ Bá H1 đối với thửa đất số 234, 238 tờ bản đồ
số 7 tại xã Y, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
2.2. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn ông Đỗ Bá H1.
11
+ Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Giấy sang
nhượng đất thổ cư lập ngày 05/01/1996 giữa ông Trần Ngọc C1 (Trần Văn C) với ông
Đỗ Bá H1;
+ Hủy Giấy CNQSD đất số D 0491253 do UBND huyện E cấp năm 1994 đối
với diện tích 4.900m
2
, thửa đất số 259, tờ bản đồ số 4 tại xã Y, huyện E, tỉnh Đắk Lắk
cho hộ ông Trần Xuân H.
3. Về chi phí tố tụng:
Nguyên đơn ông Trần Xuân H phải chịu 4.100.000 đồng tiền chi phí đo đạc và
2.000.000 đồng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản. Số tiền này ông
H đã nộp và đã chi phí xong.
4. Về án phí: Căn cứ khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1
Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và
lệ phí Tòa án.
- Ông Trần Xuân H là người cao tuổi nên được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ
thẩm và án phí dân sự phúc thẩm.
- Hoàn trả cho ông Đỗ Bá H1 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí
dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai số AA/2021/0010150 ngày 29/7/2022 của Chi cục
Thi hành án dân sự huyện Ea Súp tỉnh Đắk Lắk.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TANDTC; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSNDCC tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Đắk Lắk;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- Cục THA dân sự tỉnh Đắk Lắk; ĐÃ KÝ
- Các đương sự;
- Lưu: HSVA, lưu trữ.
Trần Đức Kiên
Tải về
Bản án số 324/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 324/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 04/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 29/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm