Bản án số 173/2024/DS-PT ngày 19/09/2024 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 173/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 173/2024/DS-PT ngày 19/09/2024 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Đà Nẵng
Số hiệu: 173/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của ông Ngô Văn S; Chấp nhận kháng cáo của bà Lê Thị L;
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
——————————
Bản án số: 173/2024/DS-PT
Ngày: 19/9/2024
V/v “Đòi tài sản, tranh chấp
hợp đồng vay tài sản”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CH NGHĨA VIỆT NAM
Đc lập - T do - Hạnh pc
——————————————————
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Hoài Sơn
Các Thẩm phán: Ông Vũ Việt Dũng
Trần Thị Bé
- Thư phiên tòa: Ông Lê Văn Vỹ - ThưTòa án nhân dân thành phố
Đà Nẵng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
thành phố Đà Nẵng tham gia phiên
tòa: Ông Lê Anh Pha - Kiểm sát viên.
Trong ngày 16 ngày 19 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân
thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai
vụ án thụ số 127/2023/TLPT-
DS ngày 17/10/2023, về việc “Đòi tài sản, tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Do Bản án dân sự thẩm s33/2023/DS-ST ngày 13/7/2023 của Tòa án
nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 256/2023/QĐPT-DS
ngày 06/12/2023; Quyết định tạm đình chỉ số 09/2024/QĐ-PT ngày 01/3/2024;
Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự số 08/2024/QĐPT-DS ngày
09/8/2024; Thông báo về việc thời gian mở lại phiên tòa phúc thẩm số
347/2024/TB-TA ngày 12/8/2024; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số
260/2024/QĐ-PT ngày 28/8//2024 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Ông Ngô Văn S, sinh năm: 1971; Địa chỉ: Số 97 đường
N, phường Hải Châu 2, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
+ Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Nguyễn
Thị Thu H - Luật Văn phòng Luật S thuộc Đoàn Luật thành phố Đà
Nẵng; Địa chỉ: Số 64 đường L, phường Hòa Cường Bắc, quận Hải Châu, thành
phố Đà Nẵng. Có mặt.
2
* Bđơn: Thị L, sinh năm 1970; địa chỉ: Số 101 đường P 15,
phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
+ Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Đào Mạnh H - Sinh năm
1981; Địa chỉ: Số 143 đường V, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà, thành phố
Đà Nẵng, (theo Giấy ủy quyền ngày 11/7/2023). Có mặt.
* Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Ngô Văn S và bị đơn bà Lê Thị L.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Bản án dân sự sơ thẩm nội dung vụ án như sau:
* Nguyên đơn ông Ngô Văn S trình bày:
Ông và bà Lê Thị L có quan hệ quen biết đã nhiều năm. Ông 01 mặt dây
chuyền tượng rồng vàng mua với giá 79.500.000đồng. Ngày 27/11/2021, L
ngỏ ý muốn mượn mặt dây chuyền này nên hai người gặp nhau tại quán cà phê.
Sau đó ông và bà L cùng đến tiệm vàng Kim Khánh Việt Hùng tại số 24 đường
Âu Cơ, phường Hòa Khánh Bắc, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Đến nơi
thì cả hai vào xem vàng của tiệm L mua dây chuyền, vàng, rồi trả lại
dây chuyền cũ đã mượn trước đây cho ông. Trên đường ông chở bà L đi về, khi
đi đến tiệm vàng Kim Khánh Việt Hùng tại số 354 đường Hùng Vương, quận
Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng thì bà L i ông cùng vào tiệm để xem giúp mặt
dây chuyền tượng rồng vàng L đã lựa 02 ngày trước đó nhưng chưa mua. Tại
đây, bà L nói ông lấy mặt dây chuyền tượng rồng vàng của ông ra cân lại để so
sánh với tượng tại tiệm xem chênh lệch nhiều không. Khi nhân viên của tiệm
cân xong, để lên bàn thì ông Sơn cầm tượng lên L đưa sợi dây chuyền của
L vào rồi tự tròng dây chuyền lúc này đã tượng vàng của ông vào cổ
nói mượn. Khi mượn mặt dây chuyền tượng rồng vàng thì L hẹn đến ngày
rằm sẽ trả lại cho ông. Ngày 10/12/2021, ông ra chợ để gặp L đòi lại mặt dây
chuyền tượng rồng vàng thì bà L nói mình không mượn và hai bên xảy ra xô
xát. Mặt dây chuyền tượng rồng vàng này là do ông cho bà L mượn, hoàn toàn
không việc mua bán. Việc cân tượng tại tiệm vàng là để tránh thiệt hại sau
này. Khi cho mượn mặt dây chuyền tượng vàng hai bên không viết giấy tờ
gì.
Ngoài ra từ năm 2019 đến năm 2021, L còn vay của ông một số tiền
mặt nói để xây dựng nhà, ông đã đưa làm nhiều lần cho L, cụ thể: 04 lần
mỗi lần đưa 100.000.000 đồng vào năm 2019; vào các năm 2020 2021 đưa
02 lần đưa 300.000.000 đồng, 01 lần đưa 700.000.000 đồng, 01 lần đưa
500.000.000 đồng; tổng cộng là 2.200.000.000 đồng. Số tiền vay này các bên
thỏa thuận lãi suất 3%/tháng, việc vay mượn thỏa thuận bằng miệng không
viết giấy tờ, sau này vào năm 2020 ông có ghi âm lại việc trao đổi giữa ông
L liên quan đến số tiền này. L đã trả cho ông tiền lãi đến tháng 10/2021
với số tiền là 110.000.000đồng và tiền gốc là 120.000.000đồng.
Ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc L trả lại cho ông 01
mặt dây chuyền tượng rồng vàng giá trị tương đương thời điểm hiện tại; số
3
tiền là đã vay là 2.464.000.000đồng, trong đó tiền gốc là 2.200.000.000đồng và
tiền lãi là 264.000.000đồng, đề nghị tiếp tục tính lãi phát sinh từ tháng 02/2022
cho đến khi xét xử vụ án theo mức lãi suất 15%/năm.
Tại phiên tòa, ông rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền nợ gốc
120.000.000đồng. Yêu cầu buộc L trả cho ông 01 mặt dây chuyền tượng
rồng vàng giá trị tại ngày xét xử 103.000.000đồng; số tiền
2.786.000.000đồng, trong đó, tiền gốc đã vay 2.080.000.000đồng tiền lãi
706.000.000đồng.
* Bị đơn bà Lê Thị L trình bày:
Ngày 27/11/2021, sau khi bà và ông Ngô Văn S gặp nhau tại quán cà p
thì cả hai cùng đi đến tiệm vàng Kim Khánh Việt Hùng tại s 24 đường Âu Cơ,
phường Hòa Khánh Bắc, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Tại đây,
mua một số vàng trong đó có một sợi dây chuyền. Sau khi thấy sợi dây chuyền
L mua, ông S đặt vấn đề bán mặt dây chuyền tượng rồng vàng cho bà.
Sau đó, ông S nhờ tiệm vàng cân mặt dây chuyền tượng rồng vàng, ông S
yêu cầu giá bán là 83.500.000đồng thì không đồng ý mua nên cả hai cùng
chở nhau đi về. Khi đến trước tiệm vàng Kim Khánh Việt Hùng tại số 354 đường
Hùng Vường, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng thì ông Sơn đồng ý bán mặt
dây chuyền với giá 81.500.000đồng nên bà đồng ý mua và cả hai vào tiệm vàng
cân lại. Trên đường về, L đã đưa tiền mặt 31.500.000đồng cho ông S, số
tiền 50.000.000 đồng còn lại đã thanh toán cho ông S tại chợ Cồn vào sáng
hôm sau. Về sau không thích mặt dây chuyền tượng rồng vàng này nên đã
đem đổi lấy 02 bộ vòng tay tại tiệm vàng Kim Khánh Việt Hùng tại số 24 đường
Âu Cơ, phường Hòa Khánh Bắc, quân Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Tượng
mặt dây chuyền rồng vàng mua của ông S đã thanh toán tiền đầy đủ,
không phải mượn, do vậy không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn.
Đối với việc ông S yêu cầu trả lại số tiền vay lãi thì ý kiến:
không vay số tiền 2.200.000.000đồng để làm nhà như ông S đã trình bày. Trong
thời gian 28 năm quen biết, không chỉ có ông S cho bà vay tiền mà bà cũng cho
ông S vay. Khi ông S cho vay đều lấy lãi trước, các khoản vay đều trả góp
hàng tháng cả gốc và lãi. Liên quan đến tiền vay mượn, ông S giữ 01 quyển sổ,
bà giữ 01 quyển sổ quyển sổ nay đã thất lạc, yêu cầu ông S cung cấp quyển
sổ ông S đang giữ. Đến tháng 7/2021 thì còn nợ ông S số tiền tổng cộng
600.000.000đồng và bà đã thanh toán đủ cho ông S trong vòng 01 tháng sau đó,
đến nay không còn nợ ông S khoản tiền nào nên không đồng ý với yêu cầu
trả gốc và lãi của ông S.
* Người bảo vệ quyền và lơi ích hợp pháp cho nguyên đơn là bà Nguyễn
Thị Thu H trình bày ý kiến:
Khẳng định toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn hoàn toàn căn
cứ, do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, buộc bà
4
Thị L trả cho ông Ngô Văn S: 01 mặt dây chuyền tượng rồng vàng giá trị tại
ngày xét xử 103.000.000đồng; số tiền n2.786.000.000đồng, trong đó tiền
gốc đã vay 2.080.000.000đồng tiền lãi tính đến ngày xét xử
706.000.000đồng.
* Với nội dung nêu trên tại Bản án dân sự số 33/2023/DS-ST ngày
13/7/2023 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã xử
quyết định:
Căn cứ vào: các Điều 26, 35, 39, 147, 235, 244, 264, 266 của Bộ luật Tố
tụng dân sự; các Điều 430, 440, 466, 468, 469 của Bộ luật dân sự; Điều 468 của
Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định vmức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản của
ông Ngô Văn S đối với số tiền 120.000.000đồng.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Văn S về việc đòi
Lê Thị L trả tài sản là một mặt dây chuyền tượng rồng vàng.
2. Chấp nhận nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc
tranh chấp hợp đồng vay tài sản;
2.1. Buộc Thị L trả cho ông Ngô Văn S số tiền 727.500.000đồng;
trong đó tiền gốc 600.000.000đồng, tiền lãi là 127.500.000đồng.
Đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ thi hành án, người được thi hành án
đơn yêu cầu thi hành án thì người phải thi hành án phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền chưa thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù
hợp với quy định của pháp luật; nếu không thỏa thuận vmức lãi suất thì
quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự
năm 2015.
2.2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Văn S đối với số
tiền 2.058.500.000đồng, trong đó gốc 1.480.000.000đồng tiền lãi
578.500.000đồng.
3. Án phí dân sự sơ thẩm:
3.1. Buộc bà Lê Thị L phải chịu 33.100.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
3.2. Buộc ông Ngô Văn S phải chịu 73.470.000đồng án phí dân sự
thẩm, trừ đi số tiền tạm ứng án phí 39.987.500đồng đã nộp theo Biên lai thu số
0000259 ngày 17/02/2022 (số tiền 1.987.500đồng) Biên lai thu số 0005376
ngày 27/7/2022 (số tiền 38.000.000đồng) của Chi cục Thi hành án dân sự quận
Liên Chiểu. Ông Ngô Văn S phải nộp tiếp số tiền 33.482.500đồng.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án.
5
* Sau khi xét x thẩm, các đương sự kháng cáo Bn án dân s thm
như sau:
- Ngày 26/7/2023, ông Ngô Văn S kháng cáo mt phn bản án thm
đối vi ni dung Tòa án cấp thẩm không chp nhn yêu cu khi kin ca
ông Sơn v việc đối Th L tr tài sn 01 mt dây chuyền tượng rng
vàng s tin 2.058.500đồng. Do đó, ông S đề ngh Tòa án cp phúc thm xem
xét chp nhn yêu cu khi kin nêu trên ca ông.
- Ngày 31/7/2023, bà Lê Th L mt phn bản án thẩm đối vi ni dung
buộc nghĩa v tr s tiền 600.000.000đồng cho ông Ngô Văn S. đề
ngh Tòa án cp phúc thm xem xét li bản án thẩm, không chp nhn toàn
b yêu cu khi kin của ông Ngô Văn S.
* Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát thành phố Đà Nẵng
phát biểu về quan điểm giải quyết vụ án như sau:
+ Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng
xét xử, Thư ký phiên tòa của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết
vụ án giai đoạn phúc thẩm là đảm bảo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự.
+ Về quan điểm giải quyết: Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Ttụng dân
sự. Không chấp nhận kháng cáo của ông Ngô Văn S; chấp nhận kháng cáo của
bà Lê Thị L.
Sửa Bản án dân sự số 33/2023/DS-ST ngày 13/7/2023 của Tòa án nhân
dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện về việc “Đòi tài sản, tranh chấp hợp đồng vay tài sản” của ông Ngô
Văn S đối với bà Lê Thị L.
+ Về án phí, chi phí tố tụng: Các đương sự phải chịu theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; sau khi đại diện
Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Ngô Văn S và bà Thị L giữ nguyên nội
dung kháng cáo. Hội đồng xét xử xét kháng cáo của các bên đương sự thì thấy:
[1] Đối với yêu cầu khởi kiện ông Ngô Văn S buộc bà Thị L phải trả
khoản tiền vay 2.080.000.000đồngkhoản tiền lãi là 706.000.000đồng:
Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa bà L trình bày vay
tiền của ông S nhiều lần, diễn ra trong nhiều năm; không chỉ ông S cho L vay
và ngược lại bà cũng có cho ông S vay, khi cho vay ông S đều lấy tiền lãi trước,
các khoản vay đều trả góp hàng tháng cả gốc lại. Bà L thừa nhận đã vay mượn
tiền của ông S nhiều lần, nhiều năm đến tháng 7/2021 còn nợ ông S số tiền
600.000.000đồng đã trả hết cho ông S trong qtrình vay. Ông S không thừa
nhận xác định từ năm 2019 đến năm 2022, ông nhiều lần đưa tiền cho L
6
vay với số tiền tổng cộng 2.200.000.000đồng không ghi giấy nợ; L đã
trả cho ông một phần nợ gốc tương ứng số tiền 120.000.000đồng và yêu cầu bà
L trả số tiền còn lại là 2.080.000.000đồng khoản tiền lãi là 706.000.000đồng.
Căn cứ vào lời trình bày của các đương sự thể hiện việc bà L có vay tiền
của ông S diễn ra nhiều lần, trong một khoảng thời gian dài và khi vay hai bên
không viết giấy tờ, không có người làm chứng. Qtrình giải quyết vụ án giai
đoạn sơ thẩm, ông S cung cấp 01 tệp âm thanh đã được Tòa án cấp sơ thẩm
giám định diễn giải thành văn bản. Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 22/3/2024,
các đương sự đề nghị giám định đối với nội dung ghi âm tại Điện thoại di động
do ông Ngô n S cung cấp. Tại Kết luận giám định số 22/KL-KTHS ngày
24/6/2024 đã kết luận về đối tượng giám định: Không tìm thấy dấu vết cắt ghép,
chỉnh sửa nội dung âm thanh trong tệp âm thanh mẫu cần giám định; Không đủ
sở đưa ra kết luận có tiếng nói của Lê Thị L Ngô Văn S trong mẫu so sánh
trong mẫu cần giám định do mẫu giám định chất lượng m. Nội dung hội
thoại trong mẫu cần giám định đã được dịch thành văn bản.
Nội dung đoạn ghi âm qua hai lần giám định thể hiện là cuộc nói chuyện
giữa ông S L thể hiện việc vay tiền nhưng không thể hiện được việc
vay tiền cthể như thế nào như: Về số tiền vay, thời hạn vay, lãi suất, số tiền đã
trả, số tiền còn nợ ... không thể hiện được việc L xác nhận nợ. Nội dung
hội thoại trao đổi giữa ông S L tại tệp âm thanh thể hiện L ntiền
nguyên đơn và đang trả góp, tuy nhiên các bên không thống nhất chốt nợ mà đề
cập đến nhiều con số khác nhau (2.200.000.000đồng, 2.250.000.000đồng,
600.000.000đồng …).
Tại phiên tòa phúc thẩm, L xuất trình các tài liệu, chứng cứ gồm: 01
Đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận, 01 Chi tiết giao dịch tài khoản khách hàng
01 Giấy báo nợ đều cùng ngày 15/7/2021 của Ngân hàng HDBank Chi
nhánh Đà Nẵng - Phòng giao dịch Duẩn nội dung “Lê Thị Loan TT tiền
mua hàng theo Bảng ngày 14/07/2021 cho Ngô Văn Sơn -
13833/21MB/HĐTD/KUNN01” để chứng minh cho việc bà L đã trả cho ông S
số tiền 600.000.000đồng. Mặc dù các tài liệu, chứng cứ trên có nội dung thanh
toán tiền mua hàng nhưng cả ông S L đều xác nhận không việc mua
bán; ông S xác nhận số tiền 600.000.000đồng từ tài khoản của Ngân hàng
HDBank mà L đã vay được giải ngân vào tài khoản của ông S. Sau đó, ông
S đưa lại tiền mặt cho L nhưng không đưa ra được chứng cứ việc ông S đã
giao bà L nhận lại số tiền trên, trong khi tiền của L vay chuyển vào tài
khoản của ông S. Điều này phù hợp với Biên bản xác minh ngày 17/9/2024 được
Ngân hàng HDBank Chi nhánh Đà Nẵng - Phòng giao dịch Duẩn cung cấp
vào tháng 7/2021, Ngân hàng cho vợ chồng Thị L vay
600.000.000đồng, thời hạn vay 12 tháng, với mục đích vay bổ sung vốn lưu
động - thanh toán tiền mua hàng kinh doanh bao bì các loại và theo yêu cầu của
L, Ngân hàng HDBank đã giải ngân vào tài khoản số 026704070005547 đứng
tên ông Ngô Văn S; trong hồ vay có bảng kê mua hàng ngày 14/7/2021; sau khi
7
giải ngân ông S đã rút 600.000.000đồng tiền mặt ngay trong ngày và có ký các
chứng từ giao dịch theo quy định của Ngân hàng. Do đó, Hội đồng xét xử có cơ
sở để xác định L đã trả cho ông S số tiền 600.000.000đồng nên kháng cáo
của bà L là có căn cứ.
Còn số tiền nợ 2.080.000.000đồng ông S yêu cầu L trả nợ nhưng không
cung cấp được tài liệu, chứng cứ xác thực để chứng minh về việc bà L còn nợ.
Do đó, không sở để chấp nhận yêu cầu ông S về việc buộc L phải trả
số tiền cả gốc và lãi còn nợ là 2.786.000.000đồng.
[2] Đối với yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Văn S buộc bà Lê Thị L phải
trả 01 mặt dây chuyền tượng rồng vàng:
Theo ông S vào ngày 27/11/2021 sau khi cân đo tại tiệm vàng Kim Khánh
Việt Hùng tại địa chỉ số 354 đường Hùng Vương, thành phố Đà Nẵng thì ông
cho L mượn 01 mặt dây chuyền tượng rồng vàng. Còn bà L khẳng định đã
mua mặt dây chuyền này của ông S với giá tiền 81.500.000đồng. Việc cho
mượn/mua bán giữa các bên khônglập giấy tờ gì.
Quá trình giải quyết vụ án ông S không cung cấp được cáci liệu, chứng
cứ về việc đã cho bà L mượn đchứng minh cho yêu cầu đòi lại tài sản của
mình. Hơn nữa theo lời trình bày của các bên có sự việc ông S bà L cùng đến
tiệm vàng Kim Khánh Việt Hùng đcân đo sợi dây chuyền vàng, điều này chứng
tỏ phù hợp với việc xác định trị giá khi tiến hành giao dịch mua bán; mặt khác
tại thời điểm này L đang vi phạm nghĩa vụ trả các khoản nợ vay của ông Sơn,
do vậy việc ông S cho rằng đã cho L mượn mặt dây chuyền không phù hợp
với hoàn cảnh, thói quen giao dịch và mục đích cho mượn là để sử dụng (đeo),
không phải cho mượn khối lượng vàng của mặt dây chuyền. Do đó, Loan
khai nhận về việc các bên mua bán mặt dây chuyển hoàn toàn phù hợp nên cần
được chấp nhận.
[3] Từ nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo
của ông Ngô Văn S, chấp nhận kháng cáo của Thị L. Căn cứ khoản 2 Điều
308 Bộ luật Tố tụng dân sự, sửa Bản án dân sự số 33/2023/DS-ST ngày
13/7/2023 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng theo
hướng: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Văn S đối với
bà Lê Thị L theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm.
[4] Các phần còn lại của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật nên không đề cập đến.
[5] Án phí dân sự thẩm: Do không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiên
nên ông Ngô Văn S phải chịu án phí như sau:
- Đối với yêu cầu khởi kiện đòi tài sản là 01 mặt dây chuyền tượng rồng
vàng thì ông S phải chịu án phí là 300.000đồng.
- Đối với yêu cầu khởi kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản đối vớisố tiền
2.786.000.000 đồng thì ông S phải chịu án phí như sau: 72.000.000đồng +
(2.786.000.000đồng - 2.000.000.000đồng) x 2% = 85.020.000đồng
8
Như vậy, tổng số tiền ông S phải chịu án phí là 88.020.000 đồng, nhưng
được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 39.987.500đồng tại Biên lai thu số
0000259 ngày 17/02/2022 có số tiền 1.987.500đồng và Biên lai thu số 0005376
ngày 27/7/2022 số tiền 38.000.000 đồng của Chi cục Thi hành án dân squận
Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Ông S còn phải nộp tiếp số tiền án p
48.032.500đồng.
[5] Về chi phí giám định tệp âm thanh tại cấp phúc thẩm: Lê Kim Loan
tự nguyên chịu (đã nộp vá đã chi).
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào: khoản 2 Điều 308, các Điều 147, 148 Bộ luật Tố tụng dân
sự; các Điều 430, 440, 466, 468, 469 Bộ luật dân sự; Điều 468 của Bộ luật dân
sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Không chấp nhận kháng cáo của ông Ngô Văn S; Chấp nhận kháng cáo
của bà Lê Thị L;
Sửa Bản án dân sự số 33/2023/DS-ST ngày 13/7/2023 của Tòa án nhân
dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Văn S đối
với bà Lê Thị L về:
- Kiện đòi trả Lê Thị L phải tài sản là 01 (một) mặt dây chuyền tượng
rồng vàng;
- Tranh chấp hợp đồng vay tài sản buộc bà Thị L phải trả số tiền
2.786.000.000 đồng (hai tỷ, bảy trăm tám mươi sáu triệu đồng), trong đó tiền
,gốc là 2.080.000.000đồng và tiền lãi 706.000.000đồng.
2. Các phần còn lại của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật nên không đề cập đến.
3. Án phí dân sự thẩm: 88.020.000 đồng (tám mươi tám triệu, không
trăm hai mươi nghìn đồng), ông Ngô Văn S phải chịu, nhưng được khấu trừ đi
số tiền tạm ứng án phí 39.987.500đồng (ba mươi chín triệu, chín trăm tám mươi
bảy nghìn, năm trăm đồng) đã nộp tại Biên lai thu số 0000259 ngày 17/02/20 22
số tiền 1.987.500đồng và Biên lai thu số 0005376 ngày 27/7/2022 số tiền
38.000.000 đồng của Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, thành phố
Đà Nẵng. Ông S còn phải nộp tiếp số tiền án phí là 48.032.500đồng (bốn mươi
tám triệu, không trăm ba mươi hai nghìn, năm trăm đồng).
4. Án phí dân sphúc thẩm: 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng), ông Ngô
Văn S phải chịu án phí nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự
phúc thẩm đã nộp 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) tại Biên lai thu số 0001058
9
ngày 03/8/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, thành phố Đà
Nẵng.
- Lê Thị L được hoàn trả số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã
nộp 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) tại Biên lai thu số 0001074 ngày
16/8/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
5. Về chi phí giám định: Bà Lê Kim L tự nguyên chịu (đã nộp và đã chi).
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND TP Đà Nẵng;
- TAND quận Liên Chiểu;
- Chi cục THADS quận Liên Chiểu;
- Cục THADS TP Đà Nẵng;
- Lưu hồ sơ vụ án;
- Tổ nghiệp vụ;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Hoài Sơn
10
Tải về
Bản án số 173/2024/DS-PT Bản án số 173/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 173/2024/DS-PT Bản án số 173/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất