Bản án số 160/2021/HS-ST ngày 10/06/2021 của TAND TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 160/2021/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 160/2021/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 160/2021/HS-ST ngày 10/06/2021 của TAND TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu |
---|---|
Tội danh: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Vũng Tàu (TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) |
Số hiệu: | 160/2021/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 10/06/2021 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
BẢN ÁN 160/2021/HS-ST NGÀY 10/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 145/2021/HSST ngày 21 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 158/2021/QĐXXST- HS ngày 01 tháng 6 năm 2021, đối với bị cáo:
Lê Thị Kiều Kh, sinh năm 1996 tại Bà Rịa – Vũng Tàu; Hộ khẩu thường trú: Thôn M, xã HH, huyện HH, tỉnh Thanh Hóa; Chỗ ở hiện nay: số M đường PTh, Phường MH, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Nghề nghiệp: Làm cá; Trình độ văn hoá: 3/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Đình L (sinh năm 1970) và bà Trần Thị L (sinh năm 1966); Chồng là Nguyễn Văn Th, sinh năm 1989; có 04 con, con lớn nhất sinh năm 2014, con nhỏ nhất sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24-12-2020 đến ngày 02-01-2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện trú tại: số M đường PTh, Phường MH, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
(Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 24-12-2020 tại khu vực đường ven biển gần cầu CL, Phường MH, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, lực lượng phòng chống ma túy và tội phạm Đồn Biên phòng PT phối hợp với Đồn Biên phòng CL, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bắt quả tang Lê Thị Kiều Kh đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (Methamphetamine) đồng thời thu giữ vật chứng của vụ án.
Sau khi lập hồ sơ ban đầu, Đồn Biên phòng CL, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã chuyển đối tượng, hồ sơ vụ án cùng vật chứng và các tài sản đã thu giữ đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố V.
Quá trình điều tra, Kh khai nhận: Kh nghiện ma túy nên vào khoảng 17 giờ 45 phút ngày 24-12-2020, Kh gọi điện thoại cho một người đàn ông tên B ở xã PT, huyện LĐ để mua ma túy về sử dụng với giá 1.000.000 đồng. B hẹn Kh ở đường ven biển, gần cầu CL, Phường MH, thành phố V để giao ma túy, khi Kh đang cầm ma túy trên tay chuẩn bị về thì bị lực lượng chức năng bắt quả tang.
Lời khai của Kh về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy phù hợp với chứng cứ thu thập được và phù hợp với lời khai của anh Lê Quốc Trọng là người chứng kiến.
Tại Kết luận giám định số 48/GĐMT-PC09 (Đ2) ngày 09 tháng 12 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bà Rịa–Vũng Tàu, kết luận:
Mẫu chất kết tinh không màu – trong suốt chứa trong 01 (một) gói nylon hàn kín, được niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của Đồn Biên phòng CL, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cùng các chữ ký ghi họ tên của những người tham gia niêm phong, gửi đến giám định có tổng khối lượng 2,4135 gam ma túy, loại Methamphetamine.
Việc thu giữ, tạm giữ đồ vật:
- 01 gói nylon hàn kín, bên trong có chứa chất kết tinh không màu trong suốt. Qua giám định là Methamphetamine có khối lượng 2,4135 gam.
- 01 xe máy nhãn hiệu Honda Dream, biển số 72S-9561 có số máy 150FMG-01170920, số khung: LLCLXL300011709201.
- Số tiền 1.180.000đ (Một triệu một trăm tám mươi ngàn đồng).
Toàn bộ số vật chứng và tài sản nêu trên được cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố V chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V quản lý, chờ xử lý.
Đối với đối tượng tên Bi bán ma túy cho Kh không rõ nhân thân, lai lịch. Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố V tiếp tục xác minh, làm rõ để xử lý theo quy định của Pháp luật.
Tại Cáo trạng số 129/CT-VKSVT ngày 19-5-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố Lê Thị Kiều Kh về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tai các điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm c Khoản 1 Điêu 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 18 (Mười tám) tháng đến 24 (Hai mươi tư) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án nhưng được khấu trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 24-12-2020 đến ngày 02-01-2021.
+ Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
+ Về xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy: Chất ma túy có trong 01 (một) gói niêm phong đề số 48 ngày 20-12-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước: 01 (Một) xe máy honda Dream, biển số 72S-9561, số khung LLCLXL300011709201, số máy 150FMG-01170920.
Trả lại cho bị cáo số tiền 1.180.000đ (Một triệu một trăm tám mươi ngàn đồng).
- Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Lời nói sau cùng, bị cáo hối hận về hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ một phần hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong vụ án này đều hợp pháp.
[2] Về tội danh và điều luật áp dụng:
Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đủ căn cứ để kết luận:
Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 24-12-2020, tại khu vực đường ven biển gần cầu CL, Phường MH, thành phố V, cơ quan chức năng bắt quả tang bị cáo đang tàng trữ trái phép 2,4135 gam ma túy, loại Methamphetamine. Số ma túy này bị cáo tàng trữ nhằm sử dụng sử dụng thì bị bắt.
Hành vi của bị cáo đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự đúng như quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V.
[3] Tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội bị cáo gây ra:
Hành vi bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị, xã hội tại địa phương. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm Hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm Pháp luật mà vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo cân x ử lý nghiêm theo quy định của pháp luật, nhằm giáo dục cải tạo riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[4.1] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[4.2] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm cho bị cáo một phần hình phạt.
[5] Về xử lý vật chứng:
+ Chất ma túy có trong gói phong niêm phong đề số 48 ngày 29-12-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.
+ Đối với 01 (Một) xe máy honda Dream, biển số 72S-9561, số khung: LLCLXL300011709201, số máy 150FMG-01170920 liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, qua xác minh không xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước.
+ Đối với số tiền 1.180.000 đồng thu giữ của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.
[6] Đối tượng tên B bán ma túy cho bị cáo không rõ nhân thân, lai lịch. Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ để xử lý theo quy định của Pháp luật nên không xem xét.
[7] Về hình phạt bổ sung: Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát có căn cứ nên ghi nhận.
[8] Về án phí Hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điêu 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016,
1. Tuyên bố: bị cáo Lê Thị Kiều Kh phạm tội “Tàng Trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: Bị cáo Lê Thị Kiều Kh 24 (Hai mươi tư) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt đi chấp hành án. (Được khấu trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 24-12-2020 đến ngày 02-01-2021).
2. Xử lý vật chứng:
2.1. Tịch thu tiêu hủy: Chất ma túy có trong 01 (một) gói niêm phong đề số 48 ngày 20-12-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
2.2. Tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước: 01 (Một) xe máy honda Dream, biển số 72S-9561, số khung LLCLXL300011709201, số máy 150FMG-01170920. (Vật chứng đang được quản lý tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố V theo Biên bản giao nhận vật chứng số 200/BB.THA ngày 08 tháng 6 năm 2021).
2.3. Trả lại cho bị cáo số tiền 1.180.000đ (Một triệu một trăm tám mươi ngàn đồng) theo Biên lai thu tiền số ngày 0002211 ngày 08-6-2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
3. Án phí Hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đông).
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án (đối với người có mặt tại phiên tòa); tính từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết công khai (đối với người vắng mặt tại phiên tòa), để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!