Bản án số 16/2024/DS-PT ngày 22/08/2024 của TAND tỉnh Hà Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 16/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 16/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 16/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 16/2024/DS-PT ngày 22/08/2024 của TAND tỉnh Hà Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Hà Giang |
Số hiệu: | 16/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 22/08/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của các bị đơn, giữa nguyên bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HÀ GIANG
Bản án số: 16/2024/DS-PT
Ngày 22-8-2024
V/v Tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Vũ Mỹ Lệ;
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Mạnh Cường, bà Vương Thị Thu Hà;
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Đức Trung - Thư ký viên Tòa án nhân
dân tỉnh Hà Giang.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Đức Dân - Kiểm sát viên.
Ngày 22/8/2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử phúc
thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số 11/2024/TLPT-DS ngày
07/6/2024 về việc "Tranh chấp quyền sử dụng đất". Do Bản án dân sự sơ thẩm
số 01/2024/DS-ST ngày 26/4/2024 của Toà án nhân dân huyện V1, tỉnh Hà
Giang bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số
17/2024/QĐPT-DS ngày 05/8/2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1966; nơi cư trú: Tổ 9, thị
trấn V, huyện V1, tỉnh Hà Giang, có mặt.
- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông B: Anh Vũ Văn K,
sinh năm 1979; địa chỉ: Tổ 15, thị trấn V, huyện V1, tỉnh Hà Giang, có mặt.
- Bị đơn:
+ Ông Đặng Quang T, sinh năm 1956; nơi cư trú: Tổ 12, thị trấn V, huyện
V1, tỉnh Hà Giang, có mặt.
+ Ông Lê Xuân T1, sinh năm 1972; nơi cư trú: Tổ 12, thị trấn V, huyện V1,
tỉnh Hà Giang, có mặt.
+ Ông Bùi Văn H, sinh năm 1989; nơi cư trú: Tổ 12, thị trấn V, huyện V1,
tỉnh Hà Giang, có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Uỷ ban nhân dân thị trấn V, huyện V1, tỉnh Hà Giang; Người đại diện
theo ủy quyền: Ông Phạm Văn N – Cán bộ địa chính thị trấn V, huyện V1, tỉnh
Hà Giang, vắng mặt.
2
+ Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1970; nơi cư trú: Tổ 9, thị trấn V, huyện V1,
tỉnh Hà Giang, vắng mặt; Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan bà N: Ông Vũ Văn K, sinh năm 1979; địa chỉ: Tổ 15, thị trấn
V, huyện V1, tỉnh Hà Giang, có mặt.
+ Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1956; nơi cư trú: Tổ 12, thị trấn V, huyện
V1, tỉnh Hà Giang, vắng mặt;
+ Bà Nguyễn Thị N1, sinh năm 1975; nơi cư trú: Tổ 12, thị trấn V, huyện
V1, tỉnh Hà Giang, có mặt;
+ Chị Hà Thị H, sinh năm 1991; nơi cư trú: Tổ 12, thị trấn V, huyện V1,
tỉnh Hà Giang, có mặt;
- Người kháng cáo: Bị đơn ông Đặng Quang T, ông Lê Xuân T1, ông Bùi
Văn H.
NỘI DUNG V N:
Theo đơn khởi kiện ngày 24/12/2022, đơn bổ sung đơn khởi kiện ngày
08/02/2023 và quá trình tố tụng tại Tòa án ông Nguyễn Văn B, bà Nguyễn Thị N
(người đại diện theo ủy quyền của ông B, bà N là ông Vũ Văn K) trình bày:
Nguồn gốc đất của ông Nguyễn Văn B và bà Nguyễn Thị N nhận chuyển
nhượng của ông Vũ Văn K và bà Đào Kim L theo hợp đồng chuyển nhượng số
427/SCC ngày 20/9/2014 tại Văn phòng công chứng Vị Xuyên, huyện V1, tỉnh
Hà Giang chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) tại giấy chứng nhận
(GCN) quyền sử dụng đất số AH 967409 thửa đất số 40, tờ bản đồ số 40, diện
tích đất 663,9 m
2
địa chỉ thửa đất tại tổ 12, thị trấn V, huyện V1, tỉnh Hà Giang,
vào sổ cấp giấy chứng nhận QSDĐ số H 02202 QSDĐ-126/QĐ-UB của Ủy ban
nhân dân (UBND) huyện V1, tỉnh Hà Giang cấp ngày 16/8/2007. Khi mua đất,
trên đất ông K có một ngôi nhà gỗ, lợp ngói Proximang, ông K là người trực tiếp
chỉ ranh giới thửa đất cho ông B không có người chứng kiến. Việc mua bán
QSDĐ theo hợp đồng xong ông B đã thực hiện biến động chủ sử dụng đất từ
ông Vũ Văn K và bà Đào Kim L sang ông Nguyễn Văn B và bà Nguyễn Thị N
và sử dụng ổn định từ đó. Năm 2019 ông B phá dỡ ngôi nhà cũ của ông K để
xây kè móng nhà. Khi xây ông B cũng xây theo đúng phần tường nhà gỗ của
ông K và có để chừa lại 0,5m đất dưới phần mái ngói theo mái ngói lợp cũ trước
đây của ông K (Phần đất chừa lại có chiều dài tính theo chiều dài giáp đường
dân sinh).
Ngày 18/9/2021 ông B phát hiện ông Đặng Quang T, Lê Xuân T1 và ông
Bùi Văn H đã tự ý san gạt vào phần đất gia đình ông B để chừa lại, đổ xi măng
làm lối đi chung mà không được gia đình ông B đồng ý, không được Ủy ban
nhân dân (UBND) thị trấn V cấp phép cho thi công, gia đình ông B đã đến ngăn
cản không cho san đất, tiếp tục làm đường nữa và báo UBND thị trấn V đến lập
biên bản dừng thi công và đề nghị giải quyết việc ông T, ông T1, ông H tự ý lấn
chiếm đất của ông B làm lối đi chung. Sau khi UBND thị trấn lập biên bản yêu
3
cầu dừng thi công đường dân sinh các hộ ông T, ông T1, ông H không chấp
hành mà tiếp tục lén lút thi công Hn thiện toàn bộ con đường.
Nay ông B khởi kiện yêu cầu các bị đơn ông Đặng Quang T, Lê Xuân T1
và ông Bùi Văn H phải trả lại diện tích đất đã lấn chiếm để làm đường đi chung,
phần diện tích đất nằm trong giấy chứng nhận QSDĐ số H 02202 QSDĐ-
126/QĐ-UB do Ủy ban nhân dân (UBND) huyện V1, tỉnh Hà Giang cấp ngày
16/8/2007 thuộc quyền quản lý, sử dụng của ông Nguyễn Văn B, bà Nguyễn Thị
N.
Tại bản trình bày ngày 13/4/2023 và các đơn trình bày ý kiến khác của các
bị đơn ông T, ông T1 và ông H đã nộp cho Tòa án trình bày: Nguồn gốc con
đường đang có tranh chấp có từ năm 1980-1983 trước đây rộng 05m, mặt đường
thấp hơn mặt bằng đất của ông B bình quân 50cm, năm 2016 gia đình ông B đã
có kè móng đá làm ranh giới QSDĐ giữa đất nhà ông B và đường dân sinh từ
khi ông B mua đất đến nay. Năm 2021, khi ông T, ông T1 và ông H làm đường
theo chủ trương của UBND thị trấn V hỗ trợ vật liệu là xi măng đổ bê tông
đường mới phát sinh tranh chấp với ông B nên các bị đơn không đồng ý việc
ông B khởi kiện và đề nghị Tòa án tiến hành thu thập, kiểm tra hồ sơ cấp đất cho
ông K, Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông K và ông B, tiến hành đo xác
định lại ranh giới thửa đất của ông B và đề nghị Tòa án tiến hành xét xử vắng
mặt ông T, ông T1, ông H theo quy định.
Theo Biên bản lấy lời khai ngày 11/5/2023 bị đơn ông Đặng Quang T khai
và xác nhận: Con đường đang có tranh chấp có từ những năm 1970 đến năm
1995 là con đường đất người dân sử dụng đi làm nương, các hộ gia đình ông T,
ông T1, ông H và những hộ dân có sử dụng lối đi này không có giấy chứng nhận
QSDĐ về con đường, không biết diện tích chi tiết dài, rộng như thế nào, không
được cơ quan tổ chức nào giao quản lý, vì đây là đường dân sinh, là lối đi chung
do UBND thị trấn V quản lý có độ dài khoảng 100m, chiều rộng 05m nhưng
hiện nay chỉ còn thực tế bình quân hơn 3m. Khi các hộ làm đường có xin phép
UBND thị trấn V và được UBND thị trấn V cho xi măng để đổ đường bê tông
rộng từ 3m trở lên, ông T yêu cầu Tòa án thu thập hồ sơ cấp đất cho ông K trước
khi bán cho ông B.
UBND thị trấn V cung cấp thông tin và xác nhận: UBND thị trấn V quản lý
con đường đang có tranh chấp theo quy định chung tại khoản 2, Điều 8 Luật Đất
đai năm 2013, không có quyết định giao quản lý riêng, chi tiết về chiều dài,
chiều rộng đối với đường dân sinh. Việc quyết định cấp vật liệu xi măng làm
đường có chiều rộng 3m là chủ trương chung khi làm đường dân sinh từ 3m trở
lên. Ông T, ông T1, ông H nhận vật liệu xi măng và tự tổ chức thi công theo
hiện trạng sử dụng, UBND thị trấn V không cấp phép, không tham gia định vị
đường hay xác định vị trí để các hộ thi công đường. UBND thị trấn V đã đình
chỉ thi công đổ đường dân sinh khi các hộ có tranh chấp, tuy nhiên các hộ ông T,
ông T1 và ông H tự ý thi công tiếp UBND thị trấn V không biết. Hiện biên bản
tạm dừng thi công đã thất lạc do quá trình bàn giao luân chuyển cán bộ, UBND
thị trấn V không còn lưu để cung cấp cho Tòa án. Việc nghiệm thu con đường
đang có tranh chấp do Phòng Kinh tế Hạ tầng huyện V1 thực hiện, UBND thị
4
trấn V chỉ phối hợp nghiệm thu về số lượng, khối lượng để đối chiếu với số
lượng vật liệu xi măng đã cấp.
Ngày 15/8/2023 Tòa án nhân dân huyện V1 mở phiên họp tiếp cận công
khai chứng cứ và hòa giải về phía các bị đơn có mặt ông T, vắng mặt ông T1 và
ông H, các đương sự không nhất trí được với nhau về giải quyết toàn bộ nội
dung vụ án.
Tại Bản án số 01/2024/DS-ST ngày 26/4/2024 của Tòa án nhân dân huyện
V1, tỉnh Hà Giang quyết định:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, 147,
157, 158, 227, 228, 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2
Điều 5, Điều 26, 166 và Điều 203 của Luật đất đai năm 2013; Điều 158, 166 và
Điều 579 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà
án. Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn
B.
2. Buộc các bị đơn ông Đặng Quang T, sinh năm 1956; ông Lê Xuân T1,
sinh năm 1972 và ông Bùi Văn H, sinh năm 1989; cùng nơi cư trú: Tổ 12, thị
trấn V, huyện V1, tỉnh Hà Giang trả lại cho ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1966
và Nguyễn Thị N, sinh năm 1970 cùng nơi cư trú: Tổ 9, thị trấn V, huyện V1,
tỉnh Hà Giang, diện tích đất đã lấn chiếm là 23,5m
2
tại giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số AH 967409, thửa đất số 40 tờ bản đồ số 40, số vào sổ cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất H 02202/QSDĐ-126/QĐ-UB của UBND huyện
V1 cấp lần đầu ngày 16/8/2007, địa chỉ thửa đất tại tổ 12, thị trấn V, huyện V1,
tỉnh Hà Giang.
(Diện tích 23,5m
2
được tính từ vị trí cách tim đường Quốc lộ 2 vào 15m từ
điểm T2, T3, T4, T5, T6, T7, T8, P2 khép về P1 kèm theo mảnh trích đo địa
chính số 31-2023 do Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh huyện V1, tỉnh Hà
Giang lập ngày 19 tháng 07 năm 2023).
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, quyền kháng cáo và
quyền yêu cầu thi hành án của các bên đương sự.
Ngày 21/5/2024, các bị đơn ông Đặng Quang T, ông Lê Xuân T1, ông Bùi
Văn H cùng có đơn kháng cáo với nội dung: Không nhất trí toàn bộ bản án sơ
thẩm. Đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xem xét giữ nguyên hiện trạng con đường
đang tranh chấp hiện nay; làm rõ hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho hộ ông
Vũ Văn K của UBND huyện V1, làm rõ ranh giới và hồ sơ chuyển nhượng
QSDĐ từ hộ ông K sang hộ ông B, điều chỉnh giấy chứng nhận QSDĐ của ông
B theo quy định tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật Dân sự; đề nghị xác định tư cách
tham gia tố tụng của các bị đơn trong vụ án vì ông T, ông T1, ông H chỉ là các
cá nhân sử dụng đường của nhà nước không lấn chiếm đất của ông B; đề nghị
xem xét thẩm định lại thửa đất số 40.
5
Tại phiên toà phúc thẩm, các bị đơn ông Đặng Quang T, ông Lê Xuân T1,
ông Bùi Văn H giữ nguyên yêu cầu kháng cáo như trong đơn kháng cáo;
Nguyên đơn ông Nguyễn Văn B không nhất trí với yêu cầu kháng cáo của
các bị đơn, ông cho rằng sau khi tiến hành đo đạc thì thấy rằng diện tích đất theo
đúng hiện trạng của con đường nằm ở bên kia con đường dân sinh, các bị đơn cố
tình lấn sang diện tích đất của gia đình ông để đổ xi măng làm đường dân sinh
nên ông giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Tại phiên toà phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang
tham gia phiên toà phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán,
được phân công thụ lý giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà đã
thực hiện đúng quy định về thụ lý vụ án, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm,
quyết định đưa vụ án ra xét xử và giao hồ sơ để Viện kiểm sát nghiên cứu đúng
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án ở giai
đoạn phúc thẩm được thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về
quan điểm giải quyết vụ án: Cấp sơ thẩm đã giải quyết vụ án theo đúng các quy
định của pháp luật. Kháng cáo của các bị đơn là không có căn cứ để chấp nhận,
đề nghị HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, giữ nguyên
Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2024/DS-ST ngày 26/4/2024 của Tòa án nhân dân
huyện V1, tỉnh Hà Giang; Các bị đơn phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.
NHN ĐNH CỦA TOÀ ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại
phiên toà, căn cứ vào tài liệu, chứng cứ Tòa án cấp phúc thẩm đã thu thập, kết
quả tranh tụng tại phiên toà, các quy định của pháp luật, ý kiến của đại diện
Viện kiểm sát tham gia phiên toà. Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:
[1] Về tố tụng: Các bị đơn ông Đặng Quang T, ông Lê Xuân T1, ông Bùi
Văn H thực hiện quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn luật định và theo
đúng trình tự thủ tục được quy định tại các Điều 271, 272, 273 và Điều 276 Bộ
luật Tố tụng dân sự nên được chấp nhận xem xét giải quyết theo thủ tục phúc
thẩm.
[2] Tại phiên toà vắng mặt những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
là: Bà Nguyễn Thị N (vợ ông B), bà N đã uỷ quyền tham gia tố tụng cho anh Vũ
Văn K; Uỷ ban nhân dân thị trấn V, đại diện theo uỷ quyền ông Phạm Văn N -
Cán bộ địa chính thị trấn (không có lý do); bà Nguyễn Thị T (vợ ông T) không
có lý do. Xét thấy, việc vắng mặt của những người này không làm ảnh hưởng tới
việc xét xử phúc thẩm nên HĐXX quyết định tiếp tục tiến hành xét xử vụ án
theo thủ tục chung.
[3] Về việc xác định tư cách tham gia tố tụng của đương sự: Nguyên đơn
ông Nguyễn Văn B khởi kiện đối với các bị đơn ông Đặng Quang T, ông Lê
Xuân T1, ông Bùi Văn H vì đã lấn chiếm đất của gia đình ông làm đường đi
chung. Quá trình giải quyết vụ án xác định gia đình ông T, ông T1, ông H là
người trực tiếp sử dụng lối đi, cùng nhau đóng góp công sức, chi phí và cùng đề
nghị UBND thị trấn V hỗ trợ xi măng để đổ con đường này, do đó cấp sơ thẩm
xác định tư cách tham gia tố tụng đối với ông T, ông T1, ông H là đồng bị đơn,
6
đồng thời xác định những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là
đúng quy định tại Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[4] Về nội dung kháng cáo yêu cầu giữ nguyên hiện trạng con đường đang
tranh chấp hiện nay, xét thấy: Căn cứ quá trình xác minh, thu thập chứng cứ tại
cấp sơ thẩm và Biên bản xác minh ngày 23/7/2024 của Toà án nhân dân tỉnh Hà
Giang đối với UBND thị trấn V, huyện V1 (BL 566), xác nhận: Nguồn gốc con
đường đang có tranh chấp đã có từ trước, được thể hiện trên bản đồ địa chính số
40 thị trấn V, quá trình sử dụng đất Nhà nước đo đạc cấp giấy chứng nhận
QSDĐ cho các hộ gia đình, trên bản đồ địa chính có thể hiện con đường giáp với
thửa đất nhà ông B mua của ông K. Hệ thống cơ sở dữ liệu bản đồ giải thửa hiện
đang lưu trữ tại UBND thị trấn V không có tờ bản đồ giải thửa tại vị trí này, con
đường không có quy hoạch đường dân sinh; Diện tích đang tranh chấp 23,5m
2
giáp với đất của hộ ông B và nằm trong giấy chứng nhận QSDĐ của hộ ông B.
Các hộ dân sử dụng con đường này làm lối đi và đổ bê tông có sự hỗ trợ xi
măng của Nhà nước, tuy nhiên Ủy ban nhân dân thị trấn V quản lý con đường
đang có tranh chấp theo quy định của pháp luật, không quyết định giao quản lý
riêng, không cấp phép, không đo đạc định vị để các hộ dân làm đường mà do
các hộ dân tự đóng góp để làm. Ông T, ông T1, ông H nhận vật liệu xi măng và
tự tổ chức thi công theo hiện trạng sử dụng. Khi các bị đơn làm đường thì giữa
các bị đơn và ông B phát sinh tranh chấp, ông B đã đề nghị UBND thị trấn V
giải quyết, UBND thị trấn đã đình chỉ thi công, nhưng sau đó các hộ ông T, ông
T1 và ông H tự ý thi công tiếp UBND thị trấn V không biết.
[5] Tại Biên bản xác minh ngày 29/8/2023 (BL 344-345) với tổ trưởng tổ
12, thị trấn V, huyện V1 giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2012 xác định: Nguồn
gốc con đường dân sinh đang có tranh chấp đã có từ lâu đời khi Nông trường
Chè còn hoạt động có sử dụng để đi lại, sau đó Nông trường Chè giải thể các hộ
công nhân tiếp tục sử dụng đi lại, ban đầu đường dân sinh này chỉ là con đường
mòn rộng từ 01m đến 02m chiều dài từ đường Quốc lộ II đến bờ sông, khi đó có
hộ ông Đặng Quang T và hộ ông Lê Cảnh Toàn sử dụng, sau đó hộ ông Toàn
chuyển nhượng một phần QSDĐ cho hộ ông Bùi Quốc Việt (có con là Bùi Văn
H hiện là một trong ba người đang có tranh chấp với ông B). Từ năm 2000 đến
năm 2012, ông T có phát sinh tranh chấp với ông K, ông K nhất trí lùi vào một ít
khi xây móng nhà và làm nhà. Việc ông T, ông K có tranh chấp và ông K nhất
trí lùi vị trí làm nhà vào hơn so với giấy chứng nhận QSDĐ nhưng không lập
thành biên bản.
[6] Tại Biên bản xác minh ngày 14/9/2023 (BL 361-365)
ông Vũ Văn K
cung cấp thông tin và xác nhận: Nguồn gốc đất của ông trước đây là đất cũ của
Trạm Thú y thị trấn V không sử dụng nữa, năm 1993 vợ chồng ông đã làm thủ
tục đăng ký xin cấp giấy chứng nhận QSDĐ đất, đến ngày 16/8/2007 vợ chồng
ông được Nhà nước cấp giấy chứng nhận QSDĐ đứng tên ông Vũ Văn K và bà
Đào Kim L tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 967409 thửa đất số
40, tờ bản đồ số 40, diện tích đất 663,9 m
2
địa chỉ thửa đất tại tổ 12, thị trấn V,
huyện V1, tỉnh Hà Giang. Từ khi được cấp giấy chứng nhận QSDĐ, ông và gia
đình sử dụng ổn định cho đến khi chuyển nhượng lại QSDĐ cho ông B, bà N.
7
Con đường dân sinh bên cạnh nhà ông trước đây có chiều rộng khoảng 2m đến
2,5m. Ông K khẳng định theo giấy chứng nhận QSDĐ của gia đình ông trước
đây khi làm móng nhà ông có để lại một phần đất giáp đường dân sinh bên ngoài
phần kè móng nhà của ông có chiều rộng đất còn lại khoảng 0,5m đến 0,8m
được gia đình ông trồng cây cỏ Tóc Tiên.
[7] Như vậy đối với yêu cầu kháng cáo của các bị đơn về việc yêu cầu giữ
nguyên hiện trạng con đường đang tranh chấp hiện nay để các bị đơn được sử
dụng, nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào hợp pháp nên không
không có cơ sở để chấp nhận.
[8] Đối với yêu cầu kháng cáo về việc đề nghị làm rõ hồ sơ cấp giấy
chứng nhận QSDĐ cho hộ ông Vũ Văn K của UBND huyện V1, tỉnh Hà Giang,
làm rõ ranh giới và hồ sơ chuyển nhượng QSDĐ từ hộ ông K sang hộ ông B,
điều chỉnh giấy chứng nhận QSDĐ của ông B theo quy định tại khoản 1 Điều
175 Bộ luật Dân sự, xét thấy:
[9] Về nguồn gốc đất và quá trình sử dụng đất của hộ ông B: Vợ chồng
ông B nhận chuyển nhượng từ vợ chồng ông Vũ Văn K và bà Đào Kim L. Trước
khi chuyển nhượng cho ông B, ông K và bà L đã được UBND huyện V1, tỉnh
Hà Giang cấp giấy chứng nhận QSDĐ số AH 967409 ngày 16/8/2007 đối với
thửa đất số 40, tờ bản đồ số 40, diện tích 663,9m
2
, có địa chỉ tại tổ 12, thị trấn V,
huyện V1, tỉnh Hà Giang. Ngày 20/9/2014 ông K, bà L chuyển nhượng QSDĐ
đối với thửa đất trên cho ông B theo Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ số
427/SCC tại Văn phòng công chứng Vị Xuyên, huyện V1 (đã đăng ký biến động
sang tên ông Nguyễn Văn B, bà Nguyễn Thị N ngày 15/6/2016), thời điểm đó
trên đất vẫn còn nhà, bếp (phần giọt ranh của bếp giáp với đường dân sinh). Hồ
sơ cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho hộ ông K và hồ sơ chuyển nhượng QSDĐ
cho hộ ông B đã được Toà án cấp sơ thẩm thu thập đầy đủ. Trình tự, thủ tục cấp
giấy chứng nhận QSDĐ và chuyển nhượng QSDĐ không phát sinh khiếu nại
trong thời hạn luật định.
[10] Qua đối chiếu giữa giấy chứng nhận QSDĐ của hộ ông Nguyễn Văn
B và bản đồ địa chính số 40 tại thị trấn V, huyện V1, tỉnh Hà Giang cũng như
kết quả đo đạc, lồng ghép toạ độ bản đồ địa chính, ý kiến của UBND thị trấn V
trong Biên bản hoà giải ngày 21/10/2021 xác định hiện trạng đường dân sinh có
một phần diện tích nằm trong giấy chứng nhận QSDĐ của hộ ông Nguyễn Văn
B. Thực tế hiện trạng sử dụng đất của ông B không vượt quá diện tích được cấp
theo giấy chứng nhận QSDĐ.
[11] Từ những nhận định nêu trên có đủ căn cứ để khẳng định một phần
đường dân sinh có diện tích diện tích 23,5m
2
, giáp với phần đất ông B thuộc
quyền quản lý, sử dụng của ông B. Việc làm đường do cá nhân các hộ ông T,
ông T1, ông H thực hiện, không được sự cho phép của chính quyền địa phương,
không có sự tham gia của các hộ dân xung quanh, không được sự nhất trí của gia
đình ông B. Toà án cấp sơ thẩm buộc các bị đơn phải trả lại cho ông B, bà N
diện tích đất tranh chấp 23,5m
2
là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Do đó
không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của các bị đơn về việc xem xét, làm rõ
8
ranh giới sử dụng đất hay điều chỉnh giấy chứng nhận QSDĐ của hộ ông
Nguyễn Văn B.
[12] Đối với kháng cáo của các bị đơn cho rằng Toà án cấp sơ thẩm xác
định về nguồn gốc, hiện trạng liên quan đến con đường dân sinh đang tranh chấp
là chỉ xác minh từ một phía, không đảm bảo khách quan; đề nghị xem xét, thẩm
định lại đối với thửa đất số 40 của hộ ông B, xét thấy:
[13] Căn cứ các văn bản trình bày ý kiến của hộ ông T, ông T1, ông H,
các hộ gia đình đi qua lại con đường dân sinh đang có tranh chấp (BL 302-309),
tại phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải ngày 15/8/2024 với sự có
mặt của ông Đặng Quang T, ngoài ra Toà án cấp sơ thẩm cũng đã tiến hành
kiểm tra, xác minh nguồn gốc diện tích đất tranh chấp từ phía nguyên đơn, các
bị đơn, UBND thị trấn V, huyện V1 và các hộ dân xung quanh có sử dụng đi qua
lại con đường dân sinh liền kề với đất tranh chấp của ông B để làm rõ nguồn gốc
sử dụng đất, diện tích đất theo Giấy chứng nhận QSDĐ của hộ ông B. Mặt khác
quá trình giải quyết vụ án Toà án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng yêu cầu
các bị đơn có mặt để tiến hành tố tụng, tuy nhiên các bị đơn đều từ chối nhận
văn bản tố tụng và vắng mặt không có lý do tại các buổi làm việc cũng như tại
phiên toà sơ thẩm, không cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của
mình. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu
thập được để tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các bị đơn là hoàn toàn khách
quan, đúng quy định của pháp luật.
[14] Đối với đề nghị của các bị đơn về việc xem xét thẩm định lại với thửa
đất số 40 nằm trong giấy chứng nhận QSDĐ của hộ ông B. HĐXX xét thấy: Tại
biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 25/8/2022 (BL 275), có mặt ông Lê
Xuân T1 (đại diện cho các bị đơn). Sau buổi làm việc ông T1 không có ý kiến gì
bổ sung mà nhất trí với nội dung buổi làm việc. Toà án cũng đã thông báo kết quả
xem xét thẩm định tại chỗ cho các bị đơn nhưng ông T, ông H cũng không có ý
kiến phản hồi; Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 30/6/2023 (BL 126) có
mặt ông T, vắng mặt ông T1, ông H không có lý do mặc dù đã được Toà án tống
đạt hợp lệ. Sau buổi làm việc Toà án đã thông báo kết quả xem xét thẩm định tại
chỗ cho các đương sự nhưng các bị đơn không ai có ý kiến, khiếu nại gì. Như vậy
kháng cáo của các bị đơn về việc yêu cầu xem thẩm định lại thửa đất số 40 nằm
trong giấy chứng nhận QSDĐ mang tên ông Nguyễn Văn B là không có căn cứ
chấp nhận.
[15] Từ những nhận định nêu trên, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn B về việc yêu cầu các bị
đơn là ông Đặng Quang T, ông Lê Xuân T1, ông Bùi Văn H trả lại diện tích đất
23,5m
2
đã lấn chiếm để làm đường dân sinh là có căn cứ, đúng quy định của
pháp luật, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ
án.
[16] Tại phiên toà phúc thẩm, các bị đơn ông Đặng Quang T, ông Lê
Xuân T1, ông Bùi Văn H không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác để
chứng minh cho các yêu cầu kháng cáo của mình là có căn cứ. Do đó cần áp
dụng khoản 1 Điều 308 Bộ Luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận toàn bộ kháng
9
cáo của các bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 01/2024/DS-ST ngày
26/4/2024 của Toà án nhân dân huyện V1, tỉnh Hà Giang.
[17] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang tại
phiên toà phúc thẩm phù hợp với quan điểm của HĐXX nên được chấp nhận.
[18] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận, nên người
kháng cáo phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[19] Các nội dung khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng nghị có hiệu lực pháp luật từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYT ĐNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận
kháng cáo của ông Đặng Quang T, ông Lê Xuân T1, ông Bùi Văn H, giữ nguyên
Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2024/DS-ST ngày 26/06/2024 của Tòa án nhân dân
huyện V1, tỉnh Hà Giang.
Căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, 147,
148, 157, 158, 227, 228, 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều
5, Điều 26, 166 và Điều 203 của Luật đất đai năm 2013; Điều 158, 166 và Điều
579 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn
B.
2. Buộc các bị đơn ông Đặng Quang T, sinh năm 1956; ông Lê Xuân T1,
sinh năm 1972 và ông Bùi Văn H, sinh năm 1989; cùng nơi cư trú: Tổ 12, thị
trấn V, huyện V1, tỉnh Hà Giang trả lại cho ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1966
và Nguyễn Thị N, sinh năm 1970 cùng nơi cư trú: Tổ 9, thị trấn V, huyện V1,
tỉnh Hà Giang, diện tích đất đã lấn chiếm là 23,5m
2
tại giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số AH 967409, thửa đất số 40 tờ bản đồ số 40, vào sổ cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất H 02202/QSDĐ-126/QĐ-UB của UBND huyện
V1 cấp lần đầu ngày 16/8/2007, địa chỉ thửa đất tại tổ 12, thị trấn V, huyện V1,
tỉnh Hà Giang.
(Diện tích 23,5m
2
được tính từ vị trí cách tim đường Quốc lộ 2 vào 15m từ
điểm T2, T3, T4, T5, T6, T7, T8, P2 khép về P1 kèm theo mảnh trích đo địa
chính số 31-2023 do Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh huyện V1, tỉnh Hà
Giang lập ngày 19 tháng 07 năm 2023).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a; 7b và Điều 9
Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
10
3. Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc các bị đơn ông Đặng Quang T, ông Lê Xuân
T1 và ông Bùi Văn H mỗi người phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm không có
giá ngạch 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Ông Nguyễn Văn B không phải chịu
tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Nguyễn Văn B được trả lại 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm
ứng án phí DSST đã nộp theo biên lai số 0002373 ngày 27/02/2023 của Chi cục
Thi hành án dân sự huyện V1, tỉnh Hà Giang.
- Về án phí dân sự phúc thẩm: Người kháng cáo ông Đặng Quang T, ông
Lê Xuân T1 và ông Bùi Văn H mỗi người phải chịu tiền án phí dân sự phúc
thẩm 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí
đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V1, tỉnh Hà Giang theo các biên lai
số 0001167, 0001165 và 0001166 ngày 28/5/2024 (Do ông Nguyễn Văn H nộp
thay).
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,
7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự: Thời hiệu thi hành án được thực hiện
theo quy định Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4. Các nội dung khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng nghị có hiệu lực pháp luật từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Hà Giang;
- TAND huyện V1;
- Cục THADS tỉnh Hà Giang;
- Chi cục THADS huyện V1;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu hồ sơ, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Mỹ Lệ
Tải về
Bản án số 16/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 16/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm