Bản án số 154/2023/HS-ST ngày 04/08/2023 của TAND Q. Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 154/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 154/2023/HS-ST ngày 04/08/2023 của TAND Q. Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Tội danh:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Q. Bắc Từ Liêm (TAND TP. Hà Nội)
Số hiệu: 154/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 04/08/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 154/2023/HS-ST NGÀY 04/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 04 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 147/2023/TLST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 184/2023/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 7 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Hồ Sỹ T, sinh năm 1983 tại tỉnh Nam Định; ĐKHKTT: Xóm 4, xã A, huyện B, tỉnh Nam Định; Nơi ở: Số 60 ngõ 2 C, phường D, quận E, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Sỹ F và bà Trịnh Thị G; có vợ là Phạm Thị R; có 01 con sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Bản án hình sự sơ thẩm số 61/2015/HSST ngày 25/12/2015, Toà án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định xử phạt Hồ Sỹ T 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Xác minh tại Toà án nhân dân huyện Hải Hậu, Nam Định thể hiện đã chuyển bản án cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hải Hậu. Xác minh tại Chị cục Thi hành án dân sự huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định thể hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hải Hậu chưa tiếp nhận và ra quyết định thi hành án đối với Hồ Sỹ T. Ngày 15/12/2017, T đã nộp án phí tại trại giam Thanh Lâm, đã được xoá án tích.

- Bản án hình sự sơ thẩm số 239/2016/HSST ngày 26/8/2016, Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội xử phạt Hồ Sỹ T 36 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Tổng hợp với hình phạt 12 tháng tù của bản án hình sự sơ thẩm số 61/2015/HSST ngày 25/12/2015 của Toà án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, buộc T phải chấp hành hình phạt chung là 48 tháng tù. T chấp hành xong hình phạt, ra trại ngày 03/3/2019 (đã nộp án phí); đã được xoá án tích.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp, bị tạm giữ từ ngày 16/3/2023; hiện đang giam tại Trại tạm giam số I Công an Thành phố Hà Nội; có mặt.

2. Văn Đình H, sinh năm 1985 tại tỉnh Hòa Bình; ĐKHKTT và ở: Số 64B ngõ 22 A1, tổ dân phố B1, phường C1, quận D1, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Văn Đình E1 và bà Quách Thị F1; có vợ là Nguyễn Thị G1 và có 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt khẩn cấp, bị tạm giữ ngày 16/3/2023 đến ngày 24/3/2023 được tại ngoại; hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.

* Bị hại:

1. Chị Phạm Thị Diệu I, sinh năm 1993; HKTT: Số 1 ngõ 545 đường A2, tổ dân phố B2, phường C2, quận D2, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

2. Chị Phạm Thu K, sinh năm 1975; HKTT: 12 Lô A khu đấu giá J, tổ dân phố B3, phường C2, quận D2, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

3. Chị Bùi Thị L, sinh năm 1992; HKTT: Khu A4, phường C3, thị xã D3, tỉnh Quảng Ninh; Nơi ở: P3207 Tòa A2 chung cư A5, phường C4, quận D2, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Phạm Thị R, sinh năm 1984; HKTT: Xóm 4, xã A, huyện B, tỉnh Nam Định; Nơi ở: Số 60 ngõ 2 C, phường D, quận E, TP Hà Nội; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 15 phút ngày 15/3/2023, chị Bùi Thị L đến Công an phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội trình báo việc sáng ngày 15/3/2023 chị bị 01 đối tượng nam giới trộm cắp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 màu tím, lắp số thuê bao 0903.468.112 tại cửa hàng Hải sản “M”, số 689 A6, phường C4, quận D2, Hà Nội.

Sau khi nhận được đơn trình báo, Công an phường Cổ Nhuế 1 tiến hành khám nghiệm hiện trường, rà soát các đối tượng tình nghi, phát hiện đối tượng tên Hồ Sỹ T nên đã mời T đến làm rõ.

Tại cơ quan điều tra T khai thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản, vật chứng đều bán cho Văn Đình H.

Ngày 15/3/2023, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm ra Lệnh khám xét khẩn cấp số 79, khám xét chỗ ở của Văn Đình H tại số 64B ngõ 22 A1, phường C1, quận D1, Hà Nội. Kết quả thu giữ: 02 điện thoại di động Oppo màu đen (01 chiếc kiểu dáng Oppo, 01 chiếc kiểu dáng Oppo Reno 7z 5G).

Vật chứng thu giữ:

* Thu giữ của Hồ Sỹ T - 01 điện thoại kiểu dáng Iphone XS Max màu vàng, lắp sim thuê bao 0969.362.559, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

- 21 bản photo ảnh chụp màn hình điện thoại;

- 01 xe máy nhãn hiệu Honda Dream màu nâu, biển kiểm soát: 29P9-1884; SK: 549218; SM: 0549259.

- 01 cuộn giấy bạc đã qua sử dụng (loại 30cm);

- 01 áo khoác màu đen vàng đã qua sử dụng, sau lưng có chữ BALMAIN PARIS.

- 01 quần bò màu xám đã qua sử dụng;

- 01 đôi giày màu đen có chữ LV đã qua sử dụng;

* Thu giữ của Văn Đình H:

- 01 điện thoại kiểu dáng Iphone 12 Pro màu trắng, lắp sim thuê bao 0977.267.726, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

- 09 bản photo ảnh chụp màn hình điện thoại;

- 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone 11 màu tím được bọc giấy bạc;

- 01 cuộn giấy bạc 30 cm.

Ngày 04/4/2023, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm có yêu cầu định giá tài sản số 90, định giá 01 điện thoại Iphone 11 màu tím và 01 điện thoại Oppo Reno 7 màu xanh.

Kết luận định giá tài sản số 162 ngày 17/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Bắc Từ Liêm kết luận:

- 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 11 màu tím đã qua sử dụng, dung lượng 64Gb trị giá 5.500.000 đồng (năm triệu năm trăm nghìn đồng).

- 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo Reno 7 màu xanh đã qua sử dụng, trị giá 3.500.000 đồng (ba triệu năm trăm nghìn đồng).

Ngày 25/4/2023, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm có yêu cầu định giá tài sản số 125, định giá 01 điện thoại Iphone XS Max màu đen và 01 điện thoại Oppo Reno 7Z màu đen, 01 điện thoại kiểu dáng Oppo màu đen.

Kết luận định giá tài sản số 288 ngày 15/5/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Bắc Từ Liêm kết luận:

- 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone XS Max màu đen đã qua sử dụng, dung lượng 64Gb trị giá 4.500.000 đồng (bốn triệu năm trăm nghìn đồng).

- 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo Reno 7Z 5G màu đen đã qua sử dụng, trị giá 3.000.000 đồng (ba triệu đồng).

- 01 điện thoại kiểu dáng Oppo màu đen trị giá 2.000.0000 đồng (hai triệu đồng).

Quá trình điều tra xác định:

Từ khoảng giữa năm 2022 đến nay, do không có việc làm ổn định và cần tiền để tiêu xài nên Hồ Sỹ T nảy sinh ý định đi đến các cửa hàng kinh doanh trên địa bàn Thành phố Hà Nội, đóng vai người mua hàng, lợi dụng lúc chủ cửa hàng hoặc khách đến mua hàng sơ hở sẽ trộm cắp tài sản rồi bán lấy tiền tiêu xài. Với thủ đoạn như trên, Hồ Sỹ T đã thực hiện khoảng 30 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn Thành phố Hà Nội, tuy nhiên do thời gian đã lâu, trộm cắp ở nhiều nơi nên T không nhớ hết thời gian cụ thể và địa điểm gây án. Cơ quan điều tra đã đấu tranh, làm rõ các vụ trộm cắp mà T gây ra như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 10 giờ ngày 03/10/2022, Hồ Sỹ T đi xe máy Honda Dream, biển kiểm soát: 29P9-1884 đến cửa hàng đá quý phong thủy “N” tại số 1 ngõ 545 đường A2, quận D2, Hà Nội giả vờ hỏi mua hàng, lúc này cửa hàng chỉ có chị Phạm Thị Diệu I (nhân viên cửa hàng), lợi dụng lúc chị I sơ hở, T đã trộm cắp 01 chiếc điện thoại Oppo Reno 7 màu xanh để trên mặt bàn của cửa hàng rồi đem bán cho Văn Đình H được 2.700.000 đồng. Số tiền trên T đã tiêu xài cá nhân hết.

Sau đó H đã bán cho khách vãng lai được 3.000.000 đồng. Hiện không thu hồi được tài sản.

Vụ thứ hai: Khoảng giữa tháng 12/2022, Hồ Sỹ T đi xe máy Honda Dream, biển kiểm soát 29P9-1884 đến cửa hàng bán bánh mỳ ở số 108 ngõ 355 đường A2, quận D2, T phát hiện chiếc xe máy Honda Vission màu xanh, biển kiểm soát:

29L2-15235 của chị Phạm Thu K dựng trước cửa quán, hốc phía trước xe có 01 điện thoại Iphone XS Max màu đen, lợi dụng sơ hở, T đã trộm cắp chiếc điện thoại trên của chị K, rồi đem bán cho Văn Đình H với giá 1.500.000 đồng. Số tiền trên T đã tiêu xài cá nhân hết. Do điện thoại có mật khẩu màn hình và Icloud, H không phá khoá được nên đã tháo linh kiện bán lại cho khách vãng lại được 2.300.000 đồng. Tài sản không thu hồi được.

Vụ thứ ba: Khoảng 10 giờ ngày 15/3/2023, Hồ Sỹ T điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Dream, biển kiểm soát 29P9 - 1884 đi từ phường D, quận E, Hà Nội đến cửa hàng Hải sản “M” tại số 689 A6, phường C4, quận D2 của chị Bùi Thị L rồi vào giả vờ hỏi mua các loại hải sản. Lúc này chị L đang bán hàng, T quan sát thấy điện thoại Iphone 11 màu tím của chị L đang để ở mặt tủ bên trong cửa hàng, lợi dụng lúc chị L không để ý, T đi vào lấy trộm chiếc điện thoại của chị L cất vào túi quần sau bên phải, rồi lên xe máy bỏ đi thì bị chị L phát hiện, hô hoán người dân xung quanh. T bỏ chạy đến khu vực đường A7 thì dừng xe, gọi điện thoại vào số 0977267726 của Văn Đình H để giao bán chiếc điện thoại vừa trộm cắp. H đồng ý, hướng dẫn T bọc giấy bạc bên ngoài chiếc điện thoại vừa trộm được để phá sóng, rồi mang đến cho H. H thỏa thuận mua chiếc điện thoại trên với giá 1.500.000 đồng. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày T tháo sim của chị L vứt đi rồi thuê shipper giao chiếc điện thoại trên cho H. Sau khi nhận được điện thoại, H và T chưa thanh toán tiền với nhau thì bị Công an bắt giữ.

Ngoài ra Hồ Sỹ T còn khai nhận ngày 08/3/2023 T trộm cắp 01 điện thoại Oppo màu trắng của 01 người phụ nữ tại cửa hàng bán trứng đối diện Ngân hàng O thuộc xã C5, huyện D4, Hà Nội và ngày 10/3/2023 T trộm cắp 01 điện thoại Samsung của một người phụ nữ tại cửa hàng bán cá gần đường dẫn tầng 1 A8 thuộc xã C5, huyện D4, Hà Nội. Sau đó T đã vứt chiếc điện thoại Oppo xuống sông P, chiếc điện thoại Samsung J8 T đã làm rơi mất. Tiến hành xác minh tại Công an xã Hải Bối, huyện Đông Anh, xác định không tiếp nhận đơn trình báo nào như trên. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm đã tiến hành đăng báo tìm bị hại nhưng chưa xác định được. Do không thu giữ được tài sản, ngoài lời khai của T cơ quan điều tra không có chứng cứ nào khác nên không có căn cứ xử lý.

Tại cơ quan điều tra, Văn Đình H khai: Ban đầu T nói làm I đồ nên có điện thoại thanh lý, H ham rẻ đã mua, lúc đầu là các điện thoại Oppo và Samsung có cài mật khẩu nhưng điện thoại giá rẻ và mật khẩu dễ phá nên không yêu cầu T thoát mật khẩu, nhưng đến tháng 11/2022 khi T bán điện thoại Iphone XS có mật khẩu, H yêu cầu T mở mật khẩu thì T không trả lời được nên H biết là tài sản do T phạm tội mà có nhưng vì ham rẻ nên H vẫn mua. Từ tháng 11 đến nay H đã mua 05 điện thoại của T, trong đó có chiếc điện thoại Oppo Reno 7 màu đen và điện thoại Oppo Reno màu đen thu giữ tại nhà của Văn Đình H. H khai mua của Hồ Sỹ T vào khoảng giữa tháng 01/2023 và đầu tháng 3/2023 với giá là 5.200.000 đồng, H đang để ở cửa hàng. T khai mua 02 chiếc điện thoại trên của một người không quen biết trên mạng, do không còn nhu cầu sử dụng nên bán lại cho H.

* Đối với xe máy nhãn hiệu Honda Dream, biển kiểm soát: 29P9-1884 thu giữ của Hồ Sỹ T. Ngày 06/4/2023 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm ra Quyết định trưng cầu giám định số 217, đề nghị Phòng kỹ thuật Hình sự Công an Thành phố Hà Nội giám định số khung, số máy của xe máy.

Kết luận giám định số 2573 ngày 27/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Dream đeo biển kiểm soát: 29P9-1884 có số khung nguyên thuỷ: RLHHA08053Y549218, số máy nguyên thuỷ: HA08E – 0549259.

Quá trình xác minh, xác định không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng, chủ đăng ký là chị Trần Kim Q, sinh năm 1962, HKTT: số 115 ngõ 211 phố A9, phường C6, quận D5, Hà Nội. Chị Q khai, năm 2017 chị đã bán xe máy trên cho 01 cửa hàng sửa chữa xe máy trên địa bàn quận D5, do thời gian đã lâu nên chị không nhớ địa chỉ cửa hàng. Năm 2020 chị Phạm Thị R (vợ Hồ Sỹ T) mua lại chiếc xe máy trên để sử dụng, không biết T dùng xe máy để đi trộm cắp tài sản.

Ngày 09/5/2023, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm ra Quyết định xử lý vật chứng số 54, trả chiếc điện thoại Iphone 11 màu tím cho chị Bùi Thị L. Chị L đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì.

Về dân sự: Chị Phạm Thị Diệu I bị mất 01 điện thoại Oppo Reno 7 không thu hồi được, chị yêu cầu bồi thường số tiền 3.500.000 đồng.

Chị Phạm Thu K bị mất 01 điện thoại Iphone Xs Max màu đen nhưng chị không yêu cầu gì.

Đối với 01 điện thoại kiểu dáng Iphone XS Max màu vàng, 01 xe máy nhãn hiệu Honda Dream màu nâu, biển kiểm soát: 29P9-1884; 02 cuộn giấy bạc, 01 áo khoác màu đen vàng đã qua sử dụng, sau lưng có chữ Balmain Paris, 01 quần bò màu xám, 01 đôi giày màu đen có chữ LV thu giữ của Hồ Sỹ T; 01 điện thoại kiểu dáng Iphone 12 Pro màu trắng, 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone 11 và 02 điện thoại kiểu dáng Oppo màu đen thu giữ của Văn Đình H là vật chứng liên quan đến vụ án nên cơ quan điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Bản cáo trạng số 141/CT-VKSBTL ngày 06/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Hồ Sỹ T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Truy tố bị cáo Văn Đình H về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Hồ Sỹ T và Văn Đình H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, đúng với nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm đã quy kết và đề nghị Hội đồng xét xử, xử cho các bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

Về dân sự: Bị cáo Hồ Sỹ T khai chưa bồi thường đồng nào cho Bị hại.

Bị cáo Văn Đình H khai: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường trả bị hại là chị Phạm Thị Diệu I 3.500.000 đồng, bị cáo tự nguyện không yêu cầu bị cáo T trả H số tiền này. Về các điện thoại di động mà cơ quan điều tra đã thu giữ: Bị cáo tự nguyện không nhận lại, đề nghị Hội đồng xét xử sung vào Ngân sách Nhà nước.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội tại phiên tòa sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa, lời khai của Bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Người làm chứng, nhân thân của các bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Hồ Sỹ T về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo Văn Đình H về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Hồ Sỹ T từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/3/2023.

Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 65 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Văn Đình H từ 12 đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Văn Đình H cho UBND phường C1, quận D1, Thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không xem xét.

Truy thu, buộc bị cáo Hồ Sỹ T phải nộp 4.200.000 đồng sung vào Ngân sách Nhà nước.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại kiểu dáng Iphone XS Max màu vàng, lắp sim thuê bao 0969.362.559, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong; 01 điện thoại kiểu dáng Iphone 12 Pro màu trắng, lắp sim thuê bao 0977.267.726 đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong; 01 điện thoại kiểu dáng Oppo Reno 7z 5G màu đen đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong; 01 điện thoại kiểu dáng Oppo màu đen đã qua sử dụng, không mở được mật khẩu, không kiểm tra chất lượng bên trong.

- Trả lại chị Phạm Thị R: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream màu nâu, biển kiểm soát: 29P9-1884; số khung: RLHHA08053Y549218; số máy: HA08E- 0549259 đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

- Tịch thu tiêu hủy: 02 cuộn giấy bạc đã qua sử dụng, loại 30 cm; 01 áo khoác màu đen vàng đã qua sử dụng, sau lưng có chữ BALMAIN PARIS; 01 quần bò màu xám đã qua sử dụng; 01 đôi giày màu đen có chữ LV đã qua sử dụng.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, Bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Hồ Sỹ T, Văn Đình H tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của Bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Người làm chứng, vật chứng thu giữ, bản kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 10 giờ ngày 03/10/2022, tại số cửa hàng Phong thuỷ “N” số 1 ngõ 545 đường A2, quận D2, Thành phố Hà Nội, Hồ Sỹ T trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo Reno 7 màu xanh của chị Phạm Thị Diệu I trị giá 3.500.000 đồng, sau đó T bán cho Văn Đình H được 2.700.000 đồng, H đã bán cho khách vãng lại được 3.000.000 đồng. Tài sản không thu hồi được.

Khoảng giữa tháng 12/2022, tại cửa hàng bán bánh mỳ số 108 ngõ 355 đường A2, quận D2, Hồ Sỹ T trộm cắp 01 điện thoại Iphone XS max màu đen của chị Phạm Thu K trị giá 4.500.000 đồng rồi mang bán cho Văn Đình H được 1.500.000 đồng. H đã tháo điện thoại bán linh kiện cho khách vãng lại được 2.300.000 đồng. Tài sản không thu hồi được.

Khoảng 10 giờ ngày 15/3/2023, tại của hàng hải sản “M” tại số 689 đường A6, phường C4, quận D2, Hồ Sỹ T trộm cắp 01 điện thoại Iphone 11 màu tím của chị Bùi Thị L trị giá 5.500.000 đồng, sau đó thuê xe ôm giao cho Văn Đình H. T và H chưa kịp thanh toán thì bị bắt giữ. Tài sản đã thu hồi trao trả lại cho chị L.

Tổng cộng, chứng minh được Hồ Sỹ T đã trộm cắp 03 chiếc điện thoại di động có tổng trị giá là 13.500.000 đồng, T bán cho Văn Đình H được tổng là 4.200.000 đồng, số tiền trên T đã ăn tiêu hết. H đã bán lại cho khách vãng lai được tổng là 5.300.000 đồng, H được hưởng lợi 1.100.000 đồng.

Hành vi của Hồ Sỹ T lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Văn Đình H biết tài sản do Hồ Sỹ T trộm cắp mà có nhưng H vẫn mua và bán lại cho người khác. Hành vi của Văn Đình H đã phạm vào tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội truy tố các bị cáo Hồ Sỹ T, Văn Đình H về tội danh và viện dẫn điều luật nêu trong Cáo trạng là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo Hồ Sỹ T là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự xã hội, gây bất bình trong nhân dân.

Hành vi phạm tội của bị cáo Văn Đình H đã xâm phạm đến trật tự quản lý Nhà nước đối với tài sản do phạm tội mà, gây trở ngại cho công tác điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự, tạo điều kiện khuyến khích người khác đi vào con đường phạm tội; gây mất trật an xã hội, gây bất bình trong nhân dân.

Do vậy việc đưa các bị cáo ra xét xử trước pháp luật là cần thiết.

[3] Cá thể hóa trách nhiệm hình sự của các bị cáo như sau [3.1] Bị cáo Hồ Sỹ T: Trong thời gian tháng 10, tháng 12 năm 2022 và tháng 3 năm 2023, T đã thực hiện ba vụ trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu sài cá nhân, mỗi vụ trộm cắp tài sản giá trị đều trên hai triệu đồng. Bị cáo có nhân thân xấu: Năm 2015 Toà án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Năm 2016 Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội xử phạt 36 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”, mới ra trại lại tiếp tục phạm tội, vì vậy phải xử bị cáo mức hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài để giáo dục bị cáo thành công dân tốt và phòng ngừa tội phạm chung.

- Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

+ Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã hai lần bị Tòa án xét xử về tội chiếm đoạt tài sản.

+ Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo ba lần trộm cắp tài sản, mỗi lần trộm cắp giá trị tài sản đều trên hai triệu đồng, vì vậy bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

+ Về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; bị cáo có bố, mẹ đẻ là người có công với cách mạng, là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3.2] Bị cáo Văn Đình H: H biết điện thoại Hồ Sỹ T bán cho mình là do T phạm tội mà có nhưng vì hám lợi nên H đã 03 lần mua 03 chiếc điện thoại của T (mỗi chiếc đều có giá trị hơn hai triệu đồng), vì vậy phải xử bị cáo mức hình phạt tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt có xem xét:

- Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

+ Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, từ trước đến trước khi phạm tội lần này bị cáo luôn chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.

+ Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo ba lần mua 03 chiếc điện thoại (mỗi lần đều có giá trị hơn hai triệu đồng), vì vậy bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

+ Về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo H thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội; bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho bị hại là chị Phạm Thị Diệu I giá trị chiếc điện thoại do Hồ Sỹ T trộm cắp rồi bán lại cho H; bị hại là chị I có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Trong số 03 chiếc điện thoại bị cáo H mua của Hồ Sỹ T, bị cáo H đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả giá trị điện thoại cho chị Phạm Thị Diệu I 3.500.000 đồng. Chiếc điện thoại của chị Bùi Thị L, chị L đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì. Chiếc điện thoại của chị Phạm Thu K không thu hồi được, chị K không yêu cầu bồi thường về dân sự.

Xét thấy bị cáo H phạm tội nhiều lần nhưng các lần phạm tội đều là tội ít nghiêm trọng. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ; bị cáo có nhân thân tốt, có địa chỉ, nơi cư trú rõ ràng, nên chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà xử bị cáo hình phạt tù, cho hưởng án treo, cải tạo tại địa phương cũng đủ để giáo dục bị cáo thành người tốt, thể hiện sự nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước, phù hợp với hướng dẫn tại điểm c khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Hồ Sỹ T, Văn Đình H không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Các biện pháp tư pháp:

[5.1] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là chị Phạm Thị Diệu I đã nhận tiền bồi thường cũng như chị Bùi Thị L đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường về dân sự nên không phải giải quyết. Điện thoại di động của chị Phạm Thu K không thu hồi được. Chị K không yêu cầu bồi thường về dân sự. Hội đồng xét xử sẽ ghi nhận sự tự nguyện của chị K là đúng theo hướng dẫn tại mục 3 Công văn số 233/TANDTC-PC ngày 01/10/2019 của Tòa án nhân dân tối cao.

Bị cáo Hồ Sỹ T trộm cắp tài sản, bán được hưởng lợi 4.200.000 đồng nên cần truy thu, buộc bị cáo phải nộp số tiền nay sung vào Ngân sách Nhà nước.

Bị cáo Văn Đình H mua điện thoại của Hồ Sỹ T rồi bán lại, được hưởng lợi 1.100.000 đồng. Xong bị cáo đã bỏ ra 3.500.000 đồng để bồi thường cho Bị hại. Đối trừ thì bị cáo H không được hưởng lợi đồng nào, vì vậy sẽ không truy thu H số tiền 1.100.000 đồng này.

[5.2] Về xử lý vật chứng - 01 điện thoại kiểu dáng Iphone XS Max màu vàng, xác định là của Hồ Sỹ T dùng để liên lạc với Văn Đình H trong việc mua bán điện thoại, sẽ tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

- 01 điện thoại kiểu dáng Iphone 12 Pro màu trắng, xác định là của Văn Đình H dùng để liên lạc với Hồ Sỹ T trong việc mua bán điện thoại, sẽ tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

- 02 điện thoại kiểu dáng Oppo màu đen do Văn Đình H mua của Hồ Sỹ T. Xác định 02 chiếc điện thoại này T mua của người trên mạng, do không sử dụng nên T đã bán lại cho H. Xác định đây là tài sản của Văn Đình H không liên quan đến hành vi phạm tội. Tại phiên tòa, H tự nguyện không nhận lại 02 chiếc điện thoại này, đề nghị Hội đồng xét xử sung vào quỹ Nhà nước, vì vậy sẽ tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 02 chiếc điện thoại này.

- 01 xe máy nhãn hiệu Honda Dream màu nâu, biển kiểm soát: 29P9-1884, xác định là tài sản của chị Phạm Thị R (vợ bị cáo Hồ Sỹ T). Chị H không biết T dùng xe máy vào việc phạm tội nên trả lại cho chị H.

- 02 cuộn giấy bạc, 01 áo khoác màu đen vàng đã qua sử dụng, sau lưng có chữ BALMAIN PARIS; 01 quần bò màu xám; 01 đôi giày màu đen có chữ LV liên quan đến hành vi phạm tội không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, Bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hồ Sỹ T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo Văn Đình H phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt 2.1 Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt : Bị cáo Hồ Sỹ T 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 16/3/2023.

2.2 Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 65 Bộ luật Hình sự Xử phạt : Bị cáo Văn Đình H 13 (mười ba) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 26 (hai mươi sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 04/8/2023.

Giao bị cáo Văn Đình H cho UBND phường C1, quận D1, Thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án Hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án Hình sự.

3. Các biện pháp tư pháp 3.1 Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

3.2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự - Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại kiểu dáng Iphone XS Max màu vàng, lắp sim thuê bao 0969.362.559, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong; 01 điện thoại kiểu dáng Iphone 12 Pro màu trắng, lắp sim thuê bao 0977.267.726 đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong; 01 điện thoại kiểu dáng Oppo Reno 7z 5G màu đen đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong và 01 điện thoại kiểu dáng Oppo màu đen đã qua sử dụng, không mở được mật khẩu, không kiểm tra chất lượng bên trong.

- Trả lại chị Phạm Thị R: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream màu nâu, biển kiểm soát: 29P9-1884; số khung: RLHHA08053Y549218; số máy: HA08E- 0549259 đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

- Tịch thu tiêu hủy: 02 cuộn giấy bạc đã qua sử dụng, loại 30 cm; 01 áo khoác màu đen vàng đã qua sử dụng, sau lưng có chữ BALMAIN PARIS; 01 quần bò màu xám đã qua sử dụng; 01 đôi giày màu đen có chữ LV đã qua sử dụng.

(Vật chứng hiện lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm theo Biên bản giao, nhận vật chứng số 197/23 ngày 14/7/2023 giữa Công an quận Bắc Từ Liêm với Chi cục Thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội).

- Truy thu, buộc bị cáo Hồ Sỹ T phải nộp 4.200.000 đồng (bốn triệu hai trăm nghìn đồng) sung vào Ngân sách Nhà nước.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Hồ Sỹ T, Văn Đình H, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự Các bị cáo Hồ Sỹ T, Văn Đình H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại là chị Phạm Thị Diệu I, chị Phạm Thu K, chị Bùi Thị L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Phạm Thị R có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Tải về
Bản án số 154/2023/HS-ST Bản án số 154/2023/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất