Bản án số 146/2025/DS-PT ngày 28/03/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 146/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 146/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 146/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 146/2025/DS-PT ngày 28/03/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Hà Nội |
Số hiệu: | 146/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông Trương Văn T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Lê Thị H trả lại phần diện tích đã lấn chiếm cho gia đình ông theo kết quả thẩm định là 110,1m2 tại thôn C, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 3 BX 531046, số vào sổ cấp GCN |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 146/2025/DS-PT
Ngày 28 - 3 - 2025
V/v “Tranh chấp quyền sử dụng đất,
hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Ngô Quang Dũng
Các Thẩm phán: Ông Trần Xuân Thảo
Bà Nguyễn Ngọc Hoa
- Thư ký phiên tòa: Ông Đỗ Ngọc Chuyền- Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa:
Bà Lã Thị Tú Anh- Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 28 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, mở
phiên tòa xét xử phúc thẩm, công khai vụ án dân sự thụ lý số 06/2025/TLPT-
DS ngày 07 tháng 01 năm 2025 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất, hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, do Bản án số 18/2024/DS-ST ngày
29/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2867/2025/QĐ-PT
ngày 14 tháng 3 năm 2025 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, giữa các
đương sự:
1- Nguyên đơn: Ông Trương Văn T, sinh năm 1970 và bà Bùi Thị T1, sinh
năm 1977; Địa chỉ: Tổ dân phố B, thị trấn T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang (Có
mặt).
2- Bị đơn: Bà Lê Thị H, sinh năm 1948; Địa chỉ: Thôn C, xã T, huyện H, tỉnh
Tuyên Quang (Vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Nguyễn Văn T2, sinh năm
1977; Địa chỉ: Thôn C, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang (Vắng mặt).
3- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
3.1- Uỷ ban nhân dân huyện H, tỉnh Tuyên Quang
- Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nông Trần B; Chức vụ: Trưởng phòng
Tài nguyên và Môi trường huyện H (Vắng mặt).
3.2- Uỷ ban nhân dân xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang
- Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Công L; Chức vụ: Phó Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân xã (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo nội dung đơn khởi kiện, biên bản lấy lời khai, bản tự khai và tại phiên
tòa, nguyên đơn ông Trương Văn T và bà Bùi Thị T1 trình bày:
Vợ chồng ông có 01 thửa đất tại thửa số 01, tờ bản đồ số 00, diện tích
1.496m2 thuộc thôn C, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang. Thửa đất này đã được
Ủy ban nhân dân huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 531046,
số vào sổ cấp GCN: CH02461, ngày cấp 24/10/2016 mang tên Bùi Thị T1 và
Trương Văn T. Nguồn gốc diện tích đất là của bố mẹ vợ ông (ông Bùi Xuân H và
bà Nguyễn Thị M) để lại cho hai vợ chồng ông khoảng những năm 2000. Khi đó
các anh chị em trong gia đình bà T1 cùng nhau trồng chè, trồng vải trên đất và lúc
đó bố vợ ông có bảo làm giấy tờ còn thực tế ông không rõ ông Bùi Xuân H có làm
giấy tờ tặng cho hay không.
Đầu tháng 01/2021, gia đình ông san ủi một phần đất trên lấy mặt bằng để
canh tác giáp ranh với thửa đất của bà Lê Thị H. Sau khi san ủi xong, gia đình ông
đã rào lại xung quanh bằng cọc tre theo đúng mốc ranh giới mà vợ chồng ông và
gia đình bà H đã cắm cọc bê tông. Ngày 24/01/2021, chị Nguyễn Thị H1 và chị Lê
Thị H2 (con gái và con dâu bà H) đến nhổ, phá hàng rào và các cọc mốc bê tông vì
cho rằng gia đình ông lấn chiếm đất của bà H. Sau đó anh Lưu Văn T3 là con rể bà
H đã tự ý cắm lại mốc ranh giới, lấn chiếm vào đất của gia đình ông với diện tích
khoảng 135,5m2. Gia đình ông đã gửi đơn đề nghị Ủy ban nhân dân xã T tổ chức
hoà giải tranh chấp đất đai. Ngày 08/10/2022, Uỷ ban nhân dân xã T cùng các bên
xác định hiện trạng và vẽ sơ đồ vị trí thửa đất đang tranh chấp làm cơ sở để giải
quyết. Ngày 26/10/2022 và ngày 11/11/2022, Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai
xã T đã lập Biên bản hòa giải và kết luận: Buổi hòa giải không thành với lý do hai
bên gia đình đã không thống nhất được với nhau về việc giải quyết tranh chấp đất
đai.
Ông Trương Văn T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Lê Thị H trả lại phần
diện tích đã lấn chiếm cho gia đình ông theo kết quả thẩm định là 110,1m2 tại thôn
C, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
3
BX 531046, số vào sổ cấp GCN: CH02461, ngày cấp 24/10/2016 mang tên bà Bùi
Thị T1 và ông Trương Văn T. Ông T không đồng ý với yêu cầu của bị đơn hủy
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 531046, số vào sổ cấp GCN:
CH02461, ngày cấp 24/10/2016 mang tên hộ bà Bùi Thị T1 và ông Trương Văn T.
* Bị đơn bà Lê Thị H trình trình bày tại biên bản làm việc ngày 19/9/2023:
Bà đã ủy quyền cho các con tham gia giải quyết tranh chấp đất đai với gia
đình ông Trương Văn T, bà Bùi Thị T1 tại xã T cũng như tại Tòa án. Bà không có
ý kiến gì về kết quả đo đạc thẩm định, định giá. Tuy nhiên, sau khi đo đạc toàn bộ
diện tích đất tranh chấp thì diện tích đất của nhà ông Trương Văn T và bà Bùi Thị
T1 đã được cấp trùng vào diện tích đất của nhà bà, khi ông T, bà T1 làm thủ tục
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà và gia đình bà không được biết và
không được ký giáp ranh theo quy định của pháp luật. Khi cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thì các hộ giáp ranh phải được ký và xác định mốc giới. Vì vậy,
bà H đề nghị Toà án xem xét hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ gia
đình ông Trương Văn T và bà Bùi Thị T1 (địa chỉ thửa đất tại thôn C, xã T, huyện
H đối với giấy chứng nhận số BX 531046 được Uỷ ban nhân dân huyện H cấp
ngày 24/10/2016.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn Lê Thị H là ông Nguyễn Văn T2
trình bày:
Bố mẹ ông là ông Nguyễn Huy Đ (đã chết) và bà Lê Thị H đã khai phá, sử
dụng diện tích đất này (diện tích đất giáp ranh với diện tích đất của gia đình anh T,
chị T1) từ khoảng năm 1987, bản thân ông cùng tham gia khai phá và sử dụng để
trồng cây hàng năm như cây Ngô, cây Đỗ,... Đến năm 2012, gia đình ông trồng
thêm cây ăn quả. Khoảng năm 2019 thì cho em gái và em rể ông là chị Nguyễn Thị
H1 và anh Lưu Văn T3 mượn để trồng cỏ voi, lấy cỏ để chăn nuôi. Sau đó xảy ra
sự việc tranh chấp với anh T, chị T1, tại thời điểm xảy ra tranh chấp ông không có
mặt ở nhà, đến ngày 30/3/2022 ông về địa phương và mới biết được sự việc tranh
chấp. Đối với yêu cầu khởi kiện của anh T, chị T1, ông không nhất trí vì khi san ủi
mặt bằng anh T, chị T1 đã lấn chiếm đất của gia đình ông, khi san ủi mặt bằng
không thông báo cho gia đình ông để xác định ranh giới cụ thể. Hiện nay, ranh giới
tự nhiên giữa đất gia đình ông và đất gia đình anh T, chị T1 là cây Găng và bụi Tre
vẫn còn. Anh T, chị T1 trình bày về phần diện tích đất giáp ranh và đang xảy ra
tranh chấp với gia đình ông đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nhưng gia đình ông chưa được ký giáp ranh trong hồ sơ cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của anh T, chị T1. Ông nhận thấy Giấy chứng nhận quyền sử
4
dụng đất của anh T, chị T1 là chưa hợp pháp. Thực tế gia đình anh T, chị T1 đã lấn
chiếm đất của gia đình đình ông theo kết quả đo đạc là 110,1m2 vì vậy ông không
nhất trí việc khởi kiện đòi lại đất của ông T, bà T1 đối với mẹ ông và đề nghị Tòa
án tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông T1, bà T1.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Uỷ ban nhân dân huyện H, tỉnh Tuyên Quang (Người đại diện theo ủy
quyền: Ông Nông Trần B; chức vụ: Trưởng phòng Tài nguyên và môi trường
huyện H) trình bày: Về trình tự cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã thực
hiện theo Chỉ thị số 01-CT/TU, ngày 14/3/2013 và hướng dẫn số 206/HD-TNMT,
ngày 28/3/2013 của Sở Tài nguyên và môi trường hướng dẫn kê khai đăng ký cấp
giấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu cho các hộ dân gồm đủ các bước.
Diện tích đất này đã được Ủy ban nhân dân huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số BX 531046, số vào sổ cấp GCN: CH02461, ngày cấp 24/10/2016
mang tên hộ bà Bùi Thị T1 và ông Trương Văn T, thể hiện loại đất được cấp là đất
trồng cây lâu năm, cấp theo đúng quy định.
Về phần diện tích đất tranh chấp và giấy chứng nhận: Tại mảnh trích đo Tòa
án tiến hành theo sự chỉ dẫn của nguyên đơn và bị đơn thì diện tích cả hai hộ gia
đình bà Lê Thị H và ông Trương Văn T, bà Bùi Thị T1 chỉ có tổng 709,8m2.
Trong khi đó diện tích của hộ bà T1, ông T đã được cấp trên giấy là 1.496m2,
chênh lệch rất lớn giữa diện tích đất trong giấy chứng nhận so với ngoài thực tế.
Qua đó thể hiện quy trình thực hiện cấp giấy chứng nhận thì việc tính toán kê khai
của hộ gia đình khi thực hiện việc kê khai để cấp giấy chưa đảm bảo. Đề nghị Tòa
án xem xét việc giải quyết tranh chấp đất đai và yêu cầu hủy giấy của đương sự
theo quy định của pháp luật.
- Uỷ ban nhân dân xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang (Người đại diện theo ủy
quyền: Ông Nguyễn Công L; chức vụ: Phó Chủ tịch UBND xã) trình bày: Năm
2022, bà Lê Thị H và bà Bùi Thị T1, ông Trương Văn T xảy ra tranh chấp đối với
diện tích đất tại thửa đất số 01, tờ bản đồ số 00 tại thôn C, xã T, huyện H, tỉnh
Tuyên Quang, diện tích này đã được Uỷ ban nhân dân huyện H cấp giấy chứng
nhận mang tên hộ bà Bùi Thị T1 và ông Trương Văn T. Sau khi nhận được đơn đề
nghị, Uỷ ban nhân dân xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang đã tiến hành hòa giải
tranh chấp theo đúng Điều 203 Luật đất đai nhưng các đương sự không nhất trí nên
đã khởi kiện ra Tòa án. Về trình tự cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ
bà Bùi Thị T1 và ông Trương Văn T của Uỷ ban nhân dân huyện H ông không có

5
ý kiến gì. Đề nghị Tòa án xem xét các tài liệu chứng cứ để giải quyết vụ án theo
quy định.
Tại Bản án số 18/2024/DS-ST ngày 29/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh
Tuyên Quang đã quyết định:
Áp dụng các Điều 26, 147, 157, 165, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Điều 34, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự;
khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính; các Điều 4, 5, 6, 100, 101, 106, 203
Luật đất đai năm 2013; Điều 152 Luật đất đai năm 2024; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trương Văn T và
bà Bùi Thị T1 về tranh chấp quyền sử dụng đất tại thôn C, xã T, huyện H, tỉnh
Tuyên Quang với bị đơn bà Lê Thị H.
Bị đơn bà Lê Thị H (do ông Nguyễn Văn T2 đại diện) và những người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu giải quyết về quyền sử dụng 211,5m2
đất (trong đó có 110,1m2 đất tranh chấp và chưa được cấp giấy chứng nhận) và tài
sản gắn liền với đất tại thôn C, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang nên sẽ được giải
quyết bằng một vụ án khác nếu có yêu cầu.
2. Tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 531046, số vào sổ
cấp GCN: CH02461do Uỷ ban nhân dân huyện H, tỉnh Tuyên Quang cấp ngày
24/10/2016 mang tên bà Bùi Thị T1 và ông Trương Văn T.
Uỷ ban nhân dân huyện H, tỉnh Tuyên Quang và các cơ quan liên quan có
trách nhiệm thực hiện thủ tục thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy
định của Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí và tuyên
các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Ngày 14/10/2024, Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang nhận được đơn kháng
cáo của ông Trương Văn T và bà Bùi Thị T1 là nguyên đơn kháng cáo một phần
bản án sơ thẩm, đề nghị sửa bản án sơ thẩm: Bác bỏ phần quyết định không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông ông Trương Văn T và bà Bùi Thị T1
về tranh chấp quyền sử dụng đất tại thôn C, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang với
bị đơn Lê Thị H; Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trương Văn T và
bà Bùi Thị T1.
6
Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, không rút
kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ
án.
Sau khi trình bày nội dung kháng cáo, căn cứ kháng cáo, ý kiến tranh luận,
nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, sửa
bản án sơ thẩm theo nội dung kháng cáo; không hủy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất do Uỷ ban nhân dân huyện H, tỉnh Tuyên Quang cấp ngày 24/10/2016
mang tên bà Bùi Thị T1 và ông Trương Văn T.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa
phát biểu quan điểm: Đơn kháng cáo của đương sự làm trong thời hạn luật định
nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Hội đồng xét xử, Thư ký và các
đương sự đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Sau khi
phân tích nội dung vụ án, nội dung kháng cáo, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
cấp cao tại Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ
luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên
bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thẩm tra
công khai tại phiên tòa; ý kiến trình bày của các đương sự; quan điểm giải quyết
vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội, Hội đồng xét xử
phúc thẩm nhận định về vụ án như sau:
[1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn làm trong hạn luật định là kháng cáo
hợp pháp được chấp nhận để giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, vắng mặt một số người tham gia tố tụng nhưng đã
được triệu tập hợp lệ lần hai nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án đúng
quy định tại Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền giải quyết vụ án, thời
hiệu khởi kiện:
Trên cơ sở yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn, Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên
Quang xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp về quyền sử
dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” là có căn cứ và thụ lý giải
quyết là đúng thẩm quyền, trong thời hiệu khởi kiện, quy định tại Khoản 5 Điều
26, Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 4 Điều 32 của Luật Tố tụng hành
chính.
[3] Xét kháng cáo của nguyên đơn:

7
[3.1] Về nguồn gốc diện tích đất các đương sự đang sử dụng và nguồn gốc
đất đang có tranh chấp.
Nguồn gốc diện tích thửa đất gia đình ông Trương Văn T và bà Bùi Thị T1
sử dụng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng là của bố, mẹ bà T1 (ông
Bùi Xuân H và bà Nguyễn Thị M) cho hai vợ chồng vào khoảng những năm
2000. Năm 2013 làm thủ tục kê khai đăng ký quyền sử dụng, năm 2016 được
cấp giấy chứng nhận.
Nguồn gốc diện tích đất bà H đang sử dụng chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất do chồng bà H là ông Nguyễn Huy Đ (đã chết) và bà Lê
Thị H khai phá, sử dụng từ khoảng năm 1987, ông T2 cùng tham gia khai phá
và sử dụng để trồng cây hàng năm như cây Ngô, cây Đỗ... Đến năm 2012, trồng
thêm cây ăn quả, khoảng năm 2019 thì cho chị Nguyễn Thị H1 và anh Lưu Văn
T3 (vợ chồng con gái bà H) mượn trồng cỏ voi, lấy cỏ để chăn nuôi gia súc. Sau
đó đến năm 2021, 2022 thì phát sinh tranh chấp do gia đình ông T, bà T1 san ủi
mặt bằng lấn chiếm sang diện tích đất bà H đang sử dụng.
- Kết quả xác minh tại thôn C và UBND xã T thể hiện tại biên bản xác
minh ngày 20/7/2024:
Diện tích đất hộ gia đình ông Trương Văn T và bà Bùi Thị T1 hiện nay
đang sử dụng và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 531046
do Uỷ ban nhân dân huyện H cấp 24/10/2016 mang tên hộ bà T1 và ông T có
nguồn gốc là do bố mẹ đẻ bà T1 là ông Bùi Xuân H và bà Nguyễn Thị M tặng
cho, trước đây diện tích này là diện tích đồi (đất vườn), đến khoảng năm 2018,
2019 ông T, bà T1 san ủi thành mặt bằng như hiện nay.
Đối với diện tích đất của gia đình bà Lê Thị H có nguồn gốc do vợ chồng
bà H tự khai phá khoảng năm 1985, diện tích đất này giáp đường Quốc lộ 2 và
có một phần diện tích đất thuộc hành lang an toàn giao thông đường bộ. Diện
tích đất trên của gia đình bà H chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.
Trong quá trình sử dụng, giữa hộ bà T1, ông T và bà H có xảy ra tranh
chấp ranh giới, đã được thôn C và Ủy ban nhân dân xã T tiến hành hòa giải đã
xác minh đo đạc. Theo biên bản kiểm tra xác minh ngày 06/10/2022 của Ủy ban
nhân dân xã T và thôn C xác định hộ ông Trương Văn T và bà Bùi Thị T1 có
lấn chiếm vào diện tích đất của bà Lê Thị H là 11,6m2, diện tích đất tranh chấp
theo đo đạc tại xã là 135,5m2.

8
[3.2] Về hiện trạng sử dụng đất, tài sản tranh chấp và giá trị tài sản tranh
chấp:
Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ xác định diện tích đất tranh chấp là
110,1m2 (đất trồng cây lâu năm thuộc khu vực 3, vị trí 2) thuộc phạm vi hành
lang bảo vệ an toàn công trình giao thông tại thôn C, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên
Quang (được giới hạn bởi các điểm 11, 12, 2, 3, 6, 13, 14, 11 trên mảnh trích đo
ngày 11/8/2023). Diện tích đất tranh chấp hiện nay do bà Lê Thị H đang trực
tiếp sử dụng trồng cây cối.
Tài sản trên đất bao gồm: 01 cây xoan trị giá 29.900đ; 01 cây nhãn trị giá
26.200đ; 05 cây bưởi trị giá 5.500.000đ là tài sản thuộc quyền sở hữu của bà Lê
Thị H; 02 bụi tre gai (51 cây) trị giá 816.000đ thuộc quyền sở hữu của ông bà T,
T1.
Diện tích đất đang có tranh chấp giữa nguyên đơn Trương Văn T, Bùi Thị
T1 và bị đơn Lê Thị H theo địa phương xác định thì chưa được thể hiện trên bản
đồ giải thửa 299 xã T và cũng không nằm trong diện tích đất của hộ gia đình
ông Bùi Xuân H, không nằm trong diện tích đất hộ gia đình ông Nguyễn Huy Đ
đã thể hiện trên bản đồ giải thửa 299 và trên sổ mục kê lưu trữ tại Ủy ban nhân
dân xã T.
Tại biên bản làm việc ngày 27/8/2024 với Trung tâm kỹ thuật tài nguyên
và môi trường tỉnh Tuyên Quang (Bút lục số 281) thể hiện: Sau khi đo vẽ và
lồng ghép với bản đồ giải thửa 299 xã T đã xác định toàn bộ diện tích đất đang
có tranh chấp giữa ông T, bà T1 với bà H không nằm trong khu vực đã được đo
vẽ bản đồ giải thửa 299 xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang.
Ông Bùi Xuân H cũng chỉ nhớ cho ông bà T, T1 7m ngang bám mặt
đường, không biết chính xác chiều sâu; bản thân ông T, bà T1 khi được cấp giấy
chứng nhận cũng không xác định được chính xác việc đo đạc cụ thể như thế
nào, giáp ranh với thửa đất nào...
[3.3] Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã phân tích và xác định diện tích đất
110,1m2 đang có tranh chấp không nằm trong tổng diện tích đất mà hộ ông
Trương Văn T và bà Bùi Thị T1 sử dụng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và cũng không nằm trong diện tích đất của hộ bà H có trong bản đồ
giải thửa, sổ mục kê lưu trữ tại Uỷ ban nhân dân xã mà thuộc hành lang an toàn
giao thông nên đã không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên là có căn cứ,
đúng pháp luật.

9
Diện tích đất bà Lê Thị H đang sử dụng theo kết quả đo đạc thực tế là
211,5m2, trong đó có 110,1m2 đất đang tranh chấp thuộc phạm vi hành lang
bảo vệ an toàn công trình giao thông, do không có yêu cầu nên Tòa án cấp sơ
thẩm không xem xét là có căn cứ.
[3.4] Về xem xét yêu cầu yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng của
bị đơn đối với nguyên đơn:
Hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai khu vực Y - H cung cấp không có giấy tờ hợp pháp về
thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông H và các con; sơ đồ thửa đất
không có ký giáp ranh của hộ liền kề, không có biên bản công khai tại thôn,
xã…
Kết quả thẩm định đã xác định diện tích đất bị đơn Lê Thị H chỉ dẫn ngoài
thực địa là 211,5m2 (bao gồm cả diện tích đất đang có tranh chấp là 110,1m2
thuộc hành lang an toàn giao thông); diện tích đất nguyên đơn Trương Văn T,
Bùi Thị T1 đang sử dụng theo chỉ dẫn mốc giới ngoài thực địa là 689,3m2.
Tổng diện tích đất cả 02 hộ đang sử dụng theo chỉ dẫn ngoài thực địa là
790,8m2, trong khi diện tích đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp
cho hộ ông T, bà T1 (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 531046, do Uỷ
ban nhân dân huyện H cấp ngày 24/10/2016) là 1.496m2. Như vậy, diện tích đất
các đương sự đang thực tế sử dụng không đúng với diện tích đất được cấp trong
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thửa đất chưa được đo đạc địa chính và có
267m2 đất thuộc hành lang bảo vệ an toàn giao thông công cộng.
Đại diện Uỷ ban nhân dân huyện H (cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất) cũng xác định giấy chứng nhận đã cấp không đúng diện tích, hồ sơ
cấp giấy còn thiếu một số giấy tờ nên thuộc trường hợp phải thu hồi giấy chứng
nhận đã cấp và đề nghị Tòa án xem xét việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất theo quy định của pháp luật.
Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số BX 531046, cấp ngày 24/10/2016 mang tên bà Bùi Thị T1 và ông Trương
Văn T mà Uỷ ban nhân dân huyện H đã cấp không đúng quy định của pháp luật
và tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 531046, số vào sổ cấp
GCN: CH02461, cấp ngày 24/10/2016 cho bà Bùi Thị T1 và ông Trương Văn T
là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Từ các phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy: Tòa án cấp sơ
thẩm đã thụ lý giải quyết vụ án dân sự theo đơn khởi kiện của ông Trương Văn

10
T và bà Bùi Thị T1 là đúng thẩm quyền, đã tiến hành thu thập chứng cứ đúng
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, không vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng, đã xem xét, đánh giá toàn diện các yêu cầu của đương sự và giải quyết vụ
án đúng pháp luật. Tại cấp phúc thẩm, nguyên đơn kháng cáo không có chứng
cứ mới làm thay đổi bản chất vụ án nên không chấp nhận kháng cáo của nguyên
đơn và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện
kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp các quy định của pháp luật.
[5] Về án phí phúc thẩm: Do không được chấp nhận kháng cáo nên nguyên
đơn ông Trương Văn T và bà Bùi Thị T1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo
quy định của pháp luật.
[6] Các quyết định khác của bản án dân sự sơ thẩm không có kháng cáo,
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
Hội;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên là ông Trương Văn T và bà Bùi
Thị T1, giữ nguyên quyết định của Bản án số 18/2024/DS-ST ngày 29/9/2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang.
2. Về án phí phúc thẩm: Ông Trương Văn T và bà Bùi Thị T1 phải chịu
300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp
là 300.000 đồng, theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0003504
ngày 22/10/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tuyên Quang.
3. Các quyết định khác của Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2024/DS-ST ngày
29/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang không có kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- TAND tỉnh Tuyên Quang;
- Cục THADS tỉnh Tuyên Quang;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu: HS, HCTP.
T/M. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Ngô Quang Dũng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm