Bản án số 207/2025/DS-PT ngày 13/05/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 207/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 207/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 207/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 207/2025/DS-PT ngày 13/05/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 207/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 13/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | ông P mua đất có GCN QSD hợp lệ do không sử dụng nên bà N tự ý xây nhà ở trên đất của ông P nay ông P kiện đòi đất ở |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 207/2025/DSPT
Ngày 13 - 5 - 2025
V/v Tranh chấp QSD đất
Yêu cầu tuyên bố HĐCN QSDĐ và HĐ tặng cho QSDĐ vô hiệu.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Đình Triết
Các thẩm phán: Ông Hoàng Kim Khánh, ông Bùi Quốc Hà
- Thư ký phiên toà: Bà Trần Thị Hà - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Bà
Trương Thị Thu Thủy - Kiểm sát viên.
Ngày 13 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 138/2025/TLPT- DS ngày
26/02/2025, về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu tuyên bố hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất vô
hiệu”,
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 16/2024/DSST ngày 25 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Buôn Đôn bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 190/2025/QĐPT-DS
ngày 28 tháng 3 năm 2025, Quyết định Hoãn phiên tòa số: 192/2025/QĐ-PT ngày
21/04/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Triệu Quang P, sinh năm 1966. Địa chỉ: C Đ, phường
T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt
Đại diện ủy quyền của nguyên đơn: Bà Lê Thị H, sinh năm 1966. Địa chỉ:
Số E, T, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; có mặt
2. Bị đơn: Bà Trịnh Thị N, sinh năm 1971. Địa chỉ: Thôn A, xã E, huyện
B, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt
Đại diện ủy quyền của bị đơn: Ông Lê Duy B, sinh năm 1977. Địa chỉ: Tổ
dân phố E, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; có mặt
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
3.1. Bà Lê Thị Thanh H1, sinh năm 1972. Địa chỉ: C Đ, phường T, thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện ủy quyền của bà H1: Bà Lê Thị H, sinh năm 1966. Địa chỉ:
Số E, T, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; có mặt
3.2. Bà Hoàng Thị Mai B1, sinh năm 1953. Địa chỉ: Số F, N, Thị trấn E,
huyên C, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt
3.3. Chị Triệu Thị Cẩm V, sinh năm 1996. Địa chỉ: C Đ, phường T, thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt
3.4. Anh Triệu Quang P1, sinh năm 2000. Địa chỉ: C Đ, phường T, thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt
3.5. Ông Nguyễn Đình M (tên gọi khác: Phạm Văn M1), sinh năm 1966.
Địa chỉ: Thôn L, xã H, huyện H (nay là phường H, thị xã H), tỉnh Bình Đình; vắng
mặt
3.6. Chị Nguyễn Thị Oanh G, sinh năm 1991 (con ông Nguyễn Tứ H2).
Địa chỉ: Thôn A, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt
3.7. Anh Nguyễn Tây Â, sinh năm 1992 (con ông Nguyễn Tứ H2). Địa
chỉ: Thôn A, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt
3.8. Bà Bùi Thị N1, sinh năm 1950 (mẹ ông Nguyễn Tứ H2). Địa chỉ:
Thôn C, xã L, huyện P, tỉnh Bình Phước; vắng mặt
3.9. Ủy ban nhân dân xã E, huyện B.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trịnh Quang T – Chức vụ: Chủ tịch
Ủy ban nhân dân xã E, huyện B; vắng mặt
3.10. Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Trung N2 – Chức vụ: Chủ tịch
Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Đắk Lắk;
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Văn N3 – Phó Chủ tịch UBND
huyện B; vắng mặt.
3.11. Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện B.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Tiến D – Chức vụ: Giám đốc
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện B; vắng mặt
3.12. Văn phòng C1 Địa chỉ: Số D L, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk
Lắk.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Vũ Thị V1 – Chức vụ: Trưởng Văn
phòng C2; có đơn xin xét xử vắng mặt.
4. Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị H3.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn bà Lê Thị H trình bày:
3
Ông Triệu Quang P là người sử dụng thửa đất số 131, tờ bản đồ số 16,
diện tích 600m
2
, tại thôn A, xã E, huyện B theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số X 791810 do Uỷ ban nhân dân (UBND) huyện B cấp ngày 07/04/2004.
Thời gian gần đây, khi đến kiểm tra đất ông Triệu Quang P phát hiện có
một hộ dân đã xây dựng nhà ở trên phần đất của gia đình mình.
Sau khi tìm hiểu, ông Triệu Quang P được biết căn nhà xây dựng trên đất
của gia đình ông Triệu Quang P là của bà Trịnh Thị N nhưng bà Trịnh Thị N lại
không có bất kỳ giấy tờ để chứng minh thửa đất trên thuộc quyền sử dụng của bà
Trịnh Thị N. Hai bên gia đình đã nhiều lần trao đổi nhưng không thể thương lượng
được nên ông P đã làm đơn gửi đến Ủy ban nhân dân xã E để đề nghị Ủy ban nhân
dân xã E hòa giải tranh chấp đất đai nhưng không thành.
Tại buổi hòa giải ngày 03/08/2023, bà Trịnh Thị N xác định bà đã ở trên
lô đất của gia ông Triệu Quang P từ năm 1999 nhưng không nhớ mua đất của ai.
Ông P xác định rằng, ý kiến của bà N là không đúng và không có cơ sở. Bởi lẽ,
năm 2000 gia đình ông Triệu Quang P nhận chuyển nhượng lô đất nêu trên của
bà Hoàng Thị Mai B1. Đến năm 2004 thì gia đình ông P được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Ông Triệu Quang P xác định lô đất của gia đình ông
Triệu Quang P đến năm 2012 vẫn để trống và khi ông Triệu Quang P đến kiểm
tra lô đất thì lô đất không có bất kỳ ai ở trên đất. Việc bà Trịnh Thị N cho rằng đã
ở trên lô đất của gia đình ông P từ năm 1999 là không đúng, chẳng qua bà Trịnh
Thị N thấy đất của ông Triệu Quang P để trống nên bà Trịnh Thị N cố tình lấn
chiếm đất của gia đình ông Triệu Quang P để sử dụng chứ không phải là đất của
bà Trịnh Thị N nhận chuyển nhượng bởi bà Trịnh Thị N nhận chuyển nhượng lô
đất mà lại xác định không nhớ đã nhận chuyển nhượng lô đất từ ai là rất vô lý và
không phù hợp theo quy định pháp luật.
Vì vậy, đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết
buộc bà Trịnh Thị N phải trả lại cho ông Triệu Quang P toàn bộ phần diện tích
đất thuộc thửa đất số 131, tờ bản đồ số 16, diện tích 600m
2
, tại xã E, huyện B để
ông P được toàn quyền quản lý, sử dụng theo quy định pháp luật.
* Theo đơn yêu cầu phản tố và tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của bị
đơn ông Lê Duy B trình bày:
Vào năm 1999 ông Nguyễn Tứ H2 (chồng bà Trịnh Thị N) có nhận chuyển
nhượng diện tích đất khoảng 560m
2
của người đồng bào dân tộc thiểu số tại xã E,
huyện B, tỉnh Đắk Lắk, đất có vị trí tứ cận như sau: Phía Đông giáp: Ông Bùi Đức
T1; Phía Tây giáp: Ông C; Phía Nam giáp: Ông H4; Phía Bắc giáp: Đường nhựa.
Địa chỉ tại: Thôn A, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk. Nay thuộc thửa đất số 519, tờ
bản đồ số 16.
Vợ chồng bà Trịnh Thị N sử dụng đất ổn định và canh tác (tôn tạo đất, san
lấp và đổ đất để trồng cây trên đất) trên đất từ năm 1999 cho đến năm 2015 thì vợ
chồng bà Trịnh Thị N làm nhà xây, khoan giếng, trồng cây ăn trái, làm chuồng
trại và xây bao tường rào,... sử dụng ổn định cho đến nay, không tranh chấp với
ai.
Đến năm 2017 ông Nguyễn Tứ H2 chết, trong quá trình làm ma chay cho
ông H2 người trong gia đình đã mang đồ đạc của ông H2 đi đốt thì đã đốt một số
4
giấy tờ trong đó có giấy tờ mua bán diện tích đất nói trên của vợ chồng bà Trịnh
Thị N.
Nay ông Triệu Quang P khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp
về quyền sử dụng đất thì bà Trịnh Thị N không đồng ý, vì các lẽ sau:
Thứ nhất, năm 1999 ông Nguyễn Tứ H2 (chồng bà Trịnh Thị N) có nhận
chuyển nhượng diện tích đất khoảng 560m
2
của người đồng bào dân tộc thiểu số
tại xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk. Vị trí thửa đất có vị trí tứ cận như trên.
Thứ hai, việc vợ chồng bà Trịnh Thị N năm 1999 đã san lấp đấp, đổ thêm
đất, tôn tạo đất (vì trí đất là vực thẳm), cũng như trồng cây lâu năm, khoan giếng,
làm nhà kiên cố trên đất nhưng ông P không có ý kiến gì.
Thứ ba, ông Triệu Quang P cho rằng diện tích đất gia đình bà Trịnh Thị N
đang sử dụng là của ông mua và được Nhà nước cấp theo giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số X 791810 do Ủy ban nhân dân huyện B cấp ngày 07/04/2004, thửa
đất 131, tờ bản đồ 16, diện tích 600m
2
, địa chỉ thửa đất tại xã E, huyện B, tỉnh
Đắk Lắk nhưng ông P cũng không biết đất của mình được cấp ở đâu? Phải đi hỏi
dò và nhờ định vị thửa đất mới xác định được vị trí thửa đất.
Vì vậy, bà Trịnh Thị N không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Triệu
Quang P và đề nghị Tòa án:
Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 08/8/2000 giữa
ông Triệu Quang P với bà Hoàng Thị Mai B1, địa chỉ: Phường T, thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk. Đối với diện tích đất 672m² và được Ủy ban nhân dân xã E xác
nhận tháng 8/2000 “Chưa đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Thửa
đất 131, tờ bản đồ số 16 là vô hiệu.
Tuyên hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất (phần quyền) người tặng cho là
ông Triệu Quang P1, bà Triệu Thị Cẩm V cho tặng ông Triệu Quang P và bà Lê
Thị Thanh H1 theo Giấy CNQSD đất số X 791810 do Ủy ban nhân dân huyện B
cấp ngày 07/04/2004, thửa đất 131, tờ bản đồ 16. Diện tích 600m²; Địa chỉ thửa
đất tại xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk. Được Văn phòng công chứng Nguyễn Thị
Kim L, địa chỉ: S L, phường E, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk công chứng số 001936,
ngày 19/8/2023, là vô hiệu;
Tuyên huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 791810 do UBND
huyện B, cấp ngày 07/04/2004, đối với thửa đất 131, tờ bản đồ 16. Diện tích
600m²; Địa chỉ thửa đất tại Xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk; Mang tên ông Triệu
Quang P và bà Lê Thị Thanh H1;
Công nhận thửa đất có diện tích khoảng 560m² và tài sản trên đất cho bà
Trịnh Thị N, thửa đất có vị trí tứ cận như sau: Phía Đông giáp ông Bùi Đức T1;
Phía Tây giáp ông C; Phía Nam giáp ông H4; Phía Bắc giáp: Đường nhựa. Địa
chỉ tại: Thôn A, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk.
* Quá trình giải quyết vụ án, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trình bày:
- Ông Nguyễn Đình M (Phạm Văn M1) trình bày: Về nguồn gốc thửa đất
hiện nay đang tranh chấp giữa ông Triệu Quang P và bà Trịnh Thị N tại buôn E
(nay là thôn A) xã E là do trước đây ông M1 khai hoang mà có. Đến khoảng năm
5
1994 – 1995 (tôi không nhớ rõ thời gian) do không có nhu cầu sử dụng và ông
M1 chuyển đến tỉnh Bình Định sinh sống nên ông M1 đã chuyển nhượng thửa đất
trên cho bà Hoàng Thị Mai B1. Khi chuyển nhượng hai bên có thỏa thuận làm
một hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (giấy sang nhượng đất ở) đối
với diện tích đất khoảng 750m
2
, chiều rộng theo mặt đường tỉnh lộ 01 là 15m và
chiều dài là 50m. Giá chuyển nhượng hai bên thỏa thuận 1.400.000 đồng (một
triệu bốn trăm nghìn đồng), quy ra vàng tại thời điểm chuyển nhượng là 2,5 cây
vàng (9999). Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất nói
trên được chính quyền địa phương ký xác nhận. Sau đó ông M1 đã nhận đủ tiền
và bàn giao thửa đất trên cho bà Hoàng Thị M2 Băng quản lý và sử dụng. Thửa
đất mà bà Trịnh Thị N hiện nay đang sử dụng là thửa đất trước đây ông M1 đã
chuyển nhượng cho bà Hoàng Thị Mai B1. Tại thời điểm ông M1 chuyển nhượng
cho bà Hoàng Thị Mai B1 thì thửa đất trên chưa được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất và ông M1 không biết ông Nguyễn Tứ H2, bà Trịnh Thị N. Đồng thời
thửa đất không tranh chấp với cá nhân và tổ chức nào. Vì đã lớn tuổi và nhà ở xa
nên ông M1 từ chối tham gia tố tụng và đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.
- Đại diện theo ủy quyền của bà Lê Thị Thanh H1 trình bày: Bà Lê Thị
Thanh H1 và ông Triệu Quang P là vợ chồng. Về nguồn gốc thửa đất số 131, tờ
bản đồ số 16, địa chỉ thửa đất tại thôn A, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk là do vào
năm 2000 ông Triệu Quang P nhận chuyển nhượng của bà Hoàng Thị Mai B1.
Đến năm 2004, được Ủy ban nhân dân huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số X 791810 vào ngày 07/04/2004 cho hộ ông Triệu Quang P. Hiện nay
bà Trịnh Thị N đang sử dụng bất hợp pháp đối với thửa đất nêu trên. Vì vậy đại
diện theo ủy quyền của bà Lê Thị Thanh H1 đề nghị Tòa án giải quyết buộc bà
Trịnh Thị N phải trả lại cho ông Trịnh Quang P2 toàn bộ phần diện tích đất thuộc
thửa đất số 131, tờ bản đồ số 16, địa chỉ thửa đất tại xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk.
- Bà Hoàng Thị Mai B1 trình bày: Về nguồn gốc về thửa đất số 131, tờ
bản đồ số 16, địa chỉ thửa đất thôn A, xã E, huyện B. Vào năm 1994 tôi nhận
chuyển nhượng thửa đất trên của ông Nguyễn Đình M với số tiền quy ra vàng là
2,5 cây vàng (9999). Do thời gian lâu nên tôi không nhớ có làm hợp đồng chuyển
nhượng hay không. Sau đó tôi đã giao đầy đủ vàng cho ông Nguyễn Đình M và
ông Nguyễn Đình M đã bàn giao thửa đất trên để tôi sử dụng. Tại thời điểm tôi
nhận chuyển nhượng có 01 ngôi nhà ván nhà và 01 cái giếng (hiện nay đã bị san
lấp).
Đến năm 2000 do không có nhu cầu sử dụng nên tôi đã chuyển nhượng cho
ông Triệu Quang P với số tiền quy ra vàng là 2,5 cây vàng (9999). Khi thỏa thuận
chuyển nhượng thì hai bên có làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
(giấy viết tay) và có xác nhận của Ban tự quản thôn và Ủy ban nhân dân xã E,
huyện B. Tại thời điểm tôi chuyển nhượng thửa đất số 131, tờ bản đồ số 16 cho
ông Triệu Quang P thì chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến
năm 2004 ông Triệu Quang P đi làm thủ tục kê khai mới được cơ quan có thẩm
quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tôi khẳng định thửa đất mà hiện
nay bà Trịnh Thị N đang sử dụng là thửa đất mà trước đây tôi chuyển nhượng cho
ông Triệu Quang P.
6
Hiện nay bà Trịnh Thị N yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất lập ngày 08/8/2000 giữa ông Triệu Quang P với bà Hoàng Thị
M2 Băng là vô hiệu, tôi không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị N.
Bởi vì thửa đất mà tôi chuyển nhượng cho ông Triệu Quang P có nguồn gốc rõ
ràng. Hiện nay bà Trịnh Thị N đang chiếm dụng thửa đất số 131, tờ bản đồ số 16,
địa chỉ thửa đất thôn A, xã E, huyện B và làm nhà trái phép thì tôi đề nghị Tòa án
giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật và đề nghị Tòa án không chấp nhận
yêu cầu phản tố của bà Trịnh Thị N.
- Chị Triệu Thị Cẩm V và anh Triệu Quang P1 thống nhất trình bày:
Vào ngày 19/8/2023, chúng tôi có làm hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho
bố mẹ là ông Triệu Quang P, bà Lê Thị Thanh H1. Hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất đối với thửa đất số 131, tờ bản đồ số 16, địa chỉ thửa đất thôn A, xã E,
huyện B và được Văn phòng công chứng Nguyễn Thị Kim L (nay là Văn phòng
C2) công chứng theo quy định của pháp luật.
Lý do chúng tôi làm hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất nói trên cho ông Triệu
Quang P, bà Lê Thị Thanh H1 bởi vì tại thời điểm Ủy ban nhân dân huyện B cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 791810 vào ngày 07/04/2004 cho hộ
ông Triệu Quang P. Hiện nay ông Triệu Quang P khởi kiện về tranh chấp quyền
sử dụng đất chúng tôi đề nghị giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
- Chị Nguyễn Thị Oanh G và anh Nguyễn Tây  thống nhất trình bày:
Ông Nguyễn Tứ H2 và bà Trịnh Thị N là bố mẹ chúng tôi. Vào năm 1999 ông
Nguyễn Tứ H2 nhận chuyển nhượng diện tích đất khoảng 560m
2
của người đồng
bào dân tộc thiểu số tại xã E, huyện B.
Sau đó ông Nguyễn Tứ H2 và bà Trịnh Thị N sử dụng đất ổn định và canh
tác từ năm 1999 cho đến năm 2015 ông Nguyễn Tứ H2 và bà Trịnh Thị N làm
nhà xây, khoan giếng, trồng cây ăn trái, làm chuồng trại và xây bao tường rào, sử
dụng ổn định cho đến nay, không tranh chấp với ai.
Đến năm 2017, ông Nguyễn Tứ H2 chết và trong quá trình làm ma chay
người trong gia đình đã mang đồ đạc của ông Nguyễn Tứ H2 đi đốt thì đã đốt một
số giấy tờ trong đó có giấy tờ mua bán diện tích đất nói trên. Hiện nay ông Triệu
Quang P khởi kiện về tranh chấp quyền dụng đất và đòi lại đất thì chúng tôi không
đồng ý và đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
- Bà Bùi Thị N1 trình bày: Ông Nguyễn Tứ H2 là con trai tôi, chồng tôi là
ông Nguyễn Thanh T2 (chết năm 2001). Vào năm 1999 ông Nguyễn Tứ H2
(chồng bà N) nhận chuyển nhượng diện tích đất khoảng 560m
2
của người đồng
bào dân tộc thiểu số tại xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk. Năm 2015 vợ chồng ông
H2, bà N làm nhà xây, khoan giếng, trồng cây ăn trái, làm chuồng trại và xây bao
tường rào, sử dụng ổn định và không tranh chấp với ai.
Đến năm 2017 ông H2 chết trong quá trình làm ma chay cho ông H2 người
trong gia đình đã mang đồ đạc của ông H2 đi đốt thì đã đốt một số giấy tờ trong
đó có giấy tờ mua bán diện tích đất nói trên của vợ chồng bà N. Ông Triệu Quang
P khởi kiện về việc tranh chấp quyền sử dụng đất đối với bà Trịnh Thị N, tôi đề
nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Vì đã lớn tuổi và điều kiện
nhà ở xa nên tôi từ chối tham gia tố tụng tại Tòa án và đề nghị Tòa án giải quyết
vắng mặt tôi. Tôi không có yêu cầu độp lập đối với vụ án.
7
- Người đại diện theo pháp luật của Ủy ban nhân dân huyện B trình
bày: Căn cứ để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 131,
tờ bản đồ số 16, diện tích 600m
2
. Địa chỉ thửa đất tại xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk
như sau: Ngày 18/3/2004, ông Triệu Quang P có đơn xin đăng ký quyền sử dụng
đất và có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã E, huyện B. Sau khi xem xét các điều
kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ngày 07/4/2004, Ủy ban
nhân dân huyện B đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 791810 đối
với thửa đất số 131, tờ bản đồ số 16, diện tích 600m
2
. Địa chỉ thửa đất tại xã E,
huyện B, tỉnh Đắk Lắk cho hộ ông Triệu Quang P đúng theo quy định. Đề nghị
Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Vì lý do công việc nên Ủy ban nhân dân huyện B từ chối tham gia tố tụng và
đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.
- Người đại diện theo pháp luật của Ủy ban nhân dân xã E, huyện B
trình bày: Ngày 18/3/2004, ông Triệu Quang P có đơn xin đăng ký quyền sử
dụng đất và có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã E, huyện B. Sau khi xem xét các
điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ngày 07/4/2004, Ủy
ban nhân dân huyện B đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 791810
đối với thửa đất số 131, tờ bản đồ số 16, diện tích 600m
2
. Địa chỉ thửa đất tại xã
E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk cho hộ ông Triệu Quang P thì đề nghị Tòa án giải quyết
vụ án theo quy định của pháp luật.
- Người đại diện theo pháp luật của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất
đai huyện B: Căn cứ để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất
số 131, tờ bản đồ số 16, diện tích 600m
2
. Địa chỉ thửa đất tại xã E, huyện B, tỉnh
Đắk Lắk như sau: Ngày 18/3/2004, ông Triệu Quang P có đơn xin đăng ký quyền
sử dụng đất và có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã E, huyện B thì thửa đất có
nguồn gốc là nhận chuyển nhượng của bà Hoàng Thị Mai B1 (hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã E, huyện B).
Sau khi xem xét các điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, ngày 07/4/2004, Ủy ban nhân dân huyện B đã cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số X 791810 đối với thửa đất số 131, tờ bản đồ số 16, diện tích 600m
2
.
Địa chỉ thửa đất tại xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk cho hộ ông Triệu Quang P. Hiện
nay, bà Trịnh Thị N yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 791810
do UBND huyện B, cấp ngày 07/04/2004 cho hộ ông Triệu Quang P thì đề nghị
Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Do bận công việc nên đề nghị Tòa án
giải quyết vụ án vắng mặt.
- Người đại diện theo pháp luật của Văn phòng Công chứng bà Vũ Thị
V1 trình bày: Qua kiểm tra bộ phận lưu trữ tại Văn phòng C3 xác định: Ngày
19/8/2023 ông Triệu Quang P1, sinh năm 2000, bà Triệu Thị Cẩm V, sinh năm
1996 và ông Triệu Quang P, sinh năm 1966, bà Lê Thị Thanh H1, sinh năm 1972
đến Văn phòng C4 (nay đổi tên thành Văn P3 công chứng Vũ Thị L1) để yêu cầu
công chứng hợp đồng tặng cho phần quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 131,
tờ bản đồ số 16, diện tích 600m
2
. Địa chỉ thửa đất tại xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk.
Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất do Ủy ban nhân dân huyện B cấp số X791810, số vào sổ giấy chứng
8
nhận: 401554 do Ủy ban nhân dân huyện B cấp ngày 07/4/2004 cho hộ ông Triệu
Quang P.
Căn cứ các tài liệu, giấy tờ liên quan do các bên cung cấp, kiểm tra thông
tin ngăn chặn trên mạng nội bộ, Văn phòng công chứng nhận thấy hồ sơ hoàn toàn
đầy đủ, phù hợp với quy định pháp luật đã soạn thảo hợp đồng theo điều khoản
thoả thuận giữa hai bên. Sau khi dự thảo hợp đồng, nhân viên đã in toàn bộ dự
thảo cho các bên đọc, công chứng viên đã giải thích toàn bộ quyền và nghĩa vụ
của các bên; các bên không có ý kiến gì, đồng ý toàn bộ nội dung của hợp đồng
và thống nhất ký tên, điểm chỉ vào hợp đồng trước sự có mặt Công chứng viên.
Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất (phần quyền) đã được Văn phòng
công chứng, chứng nhận số 001936 quyển sổ: 01/2023 do Công chứng viên
Nguyễn Thị Kim L ký chứng nhận ngày 19/8/2023.
Tại thời điểm công chứng, các bên giao kết hợp đồng có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ. Mục đích, nội dung thoả thuận của hợp đồng không vi phạm pháp
luật, không trái đạo đức xã hội. Như vậy, quy trình tiếp nhận, kiểm tra, xử lý hồ
sơ này văn phòng công chứng đã thực hiện đầy đủ, đúng quy định pháp luật, bên
giao dịch không có thắc mắc, khiếu nại gì.
Kể từ ngày công chứng hợp đồng tặng cho phần quyền sử dụng đất nói trên,
Văn phòng công chứng không nhận được bất cứ văn bản nào của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân về việc khiếu nại, hay ý kiến đối với công chứng hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất nói trên.
Hiện nay, bà Trịnh Thị N yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất (phần quyền) người tặng cho là ông Triệu Quang P1, bà Triệu Thị Cẩm
V cho tặng ông Triệu Quang P và bà Lê Thị Thanh H1 theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số X 791810 do UBND huyện B cấp ngày 07/04/2004, thửa
đất 131, tờ bản đồ 16. Diện tích 600m²; Địa chỉ thửa đất tại Xã E, huyện B, tỉnh
Đắk Lắk. Được Văn phòng công chứng Nguyễn Thị Kim L, công chứng số
001936, ngày 19/8/2023, là vô hiệu và yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số X 791810 do UBND huyện B, cấp ngày 07/04/2004 cho hộ ông Triệu
Quang P thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Vì lý do công việc
nên bà Vũ Thị V1 từ chối tham gia tố tụng và đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.
* Quá trình giải quyết vụ án, người làm chứng trình bày:
- Ông Mai Xuân T3 trình bày: Năm 1997 tôi và gia đình đến thôn A,
huyện B để sinh sống. Đến năm 1999 tôi thấy gia đình bà Trịnh Thị N đến làm ăn
và năm 2016 làm một căn nhà mái thái và không xảy ra tranh chấp với ai.
- Ông Nguyễn Đỗ H4 trình bày: Tôi là chủ sử dụng của thửa đất 109
và thửa đất 135, tờ bản đồ số 16, địa chỉ thửa đất tại thôn A, xã E, huyện B. Nguồn
gốc của các thửa đất trên là tôi nhận chuyển nhượng của người đồng bào từ năm
1998. Quá trình sinh sống tại địa phương đến năm 2016 tôi thấy gia đình bà Trịnh
Thị N có làm một căn nhà mái thái và sinh sống gần thửa đất của tôi. Các thửa đất
tôi sử dụng có ranh giới, tường rào xung quanh và không xảy ra tranh chấp với bà
Trịnh Thị N. Tôi không có yêu cầu độc lập đối với diện tích đất chồng lấn theo
bản đồ trích lục thửa đất.
- Bà H Bong Byă trình bày: Gia đình tôi hiện đang sinh sống trên thửa
9
đất (thửa đất số131C, tờ bản đồ số 16) liền kề với thửa đất bà Trịnh Thị N làm
nhà mái thái tại thôn A, xã E, huyện B. Nguồn gốc là do tôi nhận chuyển nhượng
từ năm 2021. Tại thời điểm tôi nhận chuyển nhượng đã có nhà ở và được cấp giấy
chứng nhận quyển sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Gia đình tôi sử dụng
ổn định, có bờ ranh, tường rào bao quanh và không xảy ra tranh chấp với ai.
Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 27/12/2023 và biên bản
định giá tài sản ngày 13/3/2024 xác định như sau:
Thửa đất đang tranh chấp giữa nguyên đơn ông Triệu Quang P và bị đơn bà
Trịnh Thị N có tổng diện tích 628,8m
2
và vị trí tứ cận như sau:
Phía Đông giáp thửa đất ông T3; Phía Tây giáp thửa đất của vợ chồng ông
C, bà H Bong B2; Phía Nam giáp thửa đất ông H4; Phía Bắc giáp đường tỉnh lộ
1.
Trên diện tích đất tranh chấp gồm có: 01 căn nhà mái thái (bao gồm nhà
chính, các công trình phụ, bếp, tường rào, cổng) được làm từ năm 2016.
Về cây trồng: 01 cây chôm chôm, 02 cây me, 04 cây mít, 01 cây ổi, 01 cây
na, 02 cây mai, 01 cây bơ, 02 cây đu đủ, 01 cây đinh lăng, 01 cây sầu riêng, 01
cây vối, 01 cây sapôche và 01 giếng khoan đường kính 14cm, sâu 50m.
Kết quả định giá tài sản đối với diện tích đất tranh chấp, tài sản trên đất
(công trình xây dựng + Nội thất gỗ + Cây trồng trên đất) có tổng giá trị:
923.791.000 đồng (Chín trăm hai mươi ba triệu, bảy trăm chín mươi mốt nghìn
đồng).
Về giá trị đất tranh chấp theo khung giá nhà nước là: 448.000.000 đồng
(bốn trăm bốn mươi tám triệu đồng và theo giá thị trường là 1.846.400.000 đồng
(một tỷ tám trăm bốn mươi sáu triệu bốn trăm nghìn đồng).
Các đương sự đều thống nhất diện tích tranh chấp đất nêu trên theo sơ đồ
đo đạc của Công ty trách nhiệm hữu hạn Đ trong quá trình xem xét thẩm định tại
chỗ đã cung cấp có trong hồ sơ vụ án.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 16/2024/DSST ngày 25 tháng 9 năm 2024
của TAND huyện Buôn Đôn đã quyết định:
Căn cứ khoản 3, khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a, c
khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 157, Điều 165, Điều 200, Điều 203,
Điều 227, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 116, khoản 2
Điều 119, Điều 500, khoản 2 Điều 501, Điều 502, Điều 688 của Bộ luật Dân sự
năm 2015.
Áp dụng Điều 97, Điều 98, Điều 100, Điều 101, Điều 166, Điều 167, Điều
168, khoản 1 Điều 188, Điều 203 Luật đất đai năm 2013. Điều 64, Điều 70 Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Đất đai.
Áp dụng khoản 5 Điều 26 và điểm b khoản 1 Điều 27 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà
án.
1. Tuyên xử:
10
1.1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Triệu Quang
P.
- Buộc bị đơn bà Trịnh Thị N phải trả lại ông Triệu Quang P thửa đất số 131,
tờ bản đồ số 16 (thửa mới là 119, tờ bản đồ số 138) diện tích 560,1m
2
, địa chỉ thửa
đất thuộc thôn A, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk. Vị trí đất thửa đất có tứ cận như
sau: Phía Đông giáp thửa đất ông T3 (nay là thửa đất số 124) có cạnh dài 49,04m;
Phía Tây giáp thửa đất vợ chồng ông C, bà H Bong B2 (nay là thửa đất 121) có
cạnh dài 48,87m; Phía Nam giáp thửa đất ông Nguyễn Đỗ H4 có cạnh dài 11,57m;
Phía Bắc giáp đường tỉnh lộ 01 có cạnh dài 11,54m (có sơ đồ trích đo hiện trạng
thửa đất ngày 29/01/2024 của Công ty TNHH Đ kèm theo). Nguyên đơn ông Triệu
Quang P được quyền quản lý, sử dụng các tài sản gắn liền đất đối với thửa đất số
131, tờ bản đồ số 16, bao gồm: 01 căn nhà mái thái (nhà chính, các công trình
phụ, bếp, tường rào, cổng) được làm từ năm 2016 và các cây trồng: 01 cây chôm
chôm, 02 cây me, 04 cây mít, 01 cây ổi, 01 cây na, 02 cây mai, 01 cây bơ, 02 cây
đu đủ, 01 cây đinh lăng, 01 cây sầu riêng, 01 cây vối, 01 cây sapôche và 01 giếng
khoan đường kính 14cm, sâu 50m (Các tài sản có đặc điểm theo biên bản xem xét
thẩm định tại chỗ ngày 27/12/2023, biên bản định giá tài sản ngày 13/3/2024 và
kết quả định giá tài sản ngày 04/5/2024 của Công ty cổ phần T4 Ban Mê).
- Buộc nguyên đơn ông Triệu Quang P có nghĩa vụ thanh toán cho bị đơn bà
Trịnh Thị N số tiền 461.895.000 đồng (Bốn trăm sáu mươi mốt triệu, tám trăm
chín mươi năm nghìn đồng) về ½ giá trị tài sản (bao gồm: Công trình xây dựng,
nội thất gỗ và các tài sản gắn liền với đất) đối với thửa đất số 131, tờ bản đồ số 16
(thửa mới là 119, tờ bản đồ số 138). Địa chỉ thửa đất thuộc thôn A, xã E, huyện
B, tỉnh Đắk Lắk.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án, theo mức lãi suất quy
định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
1.2. Bác yêu cầu phản tố của bị đơn bà Trịnh Thị N về việc:
- Yêu cầu tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày
08/8/2000 giữa ông Triệu Quang P với bà Hoàng Thị Mai B1. Địa chỉ: Phường T,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Đối với diện tích đất 672m² và được UBND xã E xác
nhận tháng 8/2000 “Chưa đăng ký cấp giấy CNQSD đất; Thửa đất 131, tờ bản đồ
số 16 là vô hiệu.
- Yêu cầu tuyên hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất (phần quyền) người
tặng cho là ông Triệu Quang P1, bà Triệu Thị Cẩm V cho tặng ông Triệu Quang
P và bà Lê Thị Thanh H1 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 791810
do UBND huyện B cấp ngày 07/04/2004 đối với thửa đất 131, tờ bản đồ 16. Địa
chỉ thửa đất tại xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk. Được Văn phòng C4, ngày 19/8/2023
là vô hiệu;
- Yêu cầu công nhận thửa đất số 131, tờ bản số 16, có diện tích 560m² và tài
sản trên đất cho bà Trịnh Thị N.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền
kháng cáo, quyền và nghĩa vụ thi hành án theo quy định của pháp luật.
11
Ngày 04/10/2024, ông Triệu Quang P kháng cáo một phần Bản án sơ thẩm
số 16/2024/DSST ngày 25 tháng 9 năm 2024 của TAND huyện Buôn Đôn đề nghị
cấp phúc thẩm tuyên buộc bị đơn phải giao trả hiện trạng ban đầu của thửa đất,
không đồng ý thanh toán số tiền 461.895.000 đồng cho bị đơn.
Ngày 04/10/2025, bà Trịnh Thị N kháng cáo đề nghị hủy toàn bộ Bản án
sơ thẩm số 16/2024/DSST ngày 25 tháng 9 năm 2024 của TAND huyện Buôn
Đôn.
Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn giữ nguyên
nội dung đơn khởi kiện, xin rút toàn bộ đơn kháng cáo (đã nộp đơn xin rút đơn
kháng cáo ngày 17/4/2025).
Đại diện theo ủy quyền của bị đơn thay đổi nội dung đơn kháng cáo, đề
nghị hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm hoặc sửa Bản án sơ thẩm theo hướng bác toàn
bộ dơn khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
Tại phiên tòa Đại diện VKSND tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Thẩm phán, các đương sự trong vụ án và Hội đồng xét xử
phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Qua phân tích đánh giá các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ
vụ án, lời trình bày của các bên đương sự, đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX
căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Không chấp nhận đơn kháng
cáo của bà Trịnh Thị N. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 16/2024/DSST
ngày 25 tháng 9 năm 2024 của TAND huyện Buôn Đôn.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu được thu thập có trong hồ sơ vụ án, kết
quả tranh luận tại phiên tòa, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát
viên, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn và bị đơn kháng cáo trong thời hạn luật định
và đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên vụ án được giải quyết theo trình tự
phúc thẩm.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt lần 2, HĐXX xét xử vắng
mặt họ là phù hợp quy định tại khoản 3 Điều 296 BLTTDS.
Ngày 17/4/2025 nguyên đơn ông Triệu Quang P có đơn xin rút toàn bộ đơn
kháng cáo, xét thấy việc rút đơn kháng cáo là hoàn toàn tự nguyện nên HĐXX
căn cứ khoản 5 Điều 308 BLTTDS đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu
kháng cáo của ông Triệu Quang P là phù hợp.
[2]. Về nội dung: Xét kháng cáo của bà Trịnh Thị N, HĐXX xét thấy:
Về nguồn gốc đất: Thửa đất số 131, tờ bản đồ số 16 là do ông Nguyễn
Đình M (Phạm Văn M1) khai hoang. Năm 1995, ông Nguyễn Đình M làm Giấy
sang nhượng đất ở cho bà Hoàng Thị Mai B1 và được Ủy ban nhân dân xã E ký
12
xác nhận. Năm 2000, bà Hoàng Thị Mai B1 làm hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất nêu trên cho ông Triệu Quang P và được Ủy ban nhân dân xã E ký
xác nhận.
Ngày 07/04/2004, Ủy ban nhân dân huyện B cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số X 791810 đối với thửa đất số 131, tờ bản đồ số 16, diện tích 600m
2
cho hộ ông Triệu Quang P. Địa chỉ thửa đất tại thôn A, xã E, huyện B, tỉnh Đắk
Lắk.
Ngày 19/8/2023, bà Triệu Thị Cẩm V và ông Triệu Quang P1 làm hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất (phần quyền) đối với thửa đất số 131, tờ bản đồ
số 16, diện tích 600m
2
cho ông Triệu Quang P, bà Lê Thị Thanh H1. Hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất được Văn phòng C4 (nay là Văn phòng C2) công
chứng theo quy định của pháp luật.
Thửa đất tranh chấp có diện tích qua đo đạc thực tế theo hiện trạng sử dụng
628,7m
2
thuộc thửa đất số 131, tờ bản đồ số 16 (nay là thửa đất số 119, tờ bản đồ
số 138 theo hệ thống bản đồ đo đạc mới đã được Sở T5 nghiệm thu).
Theo biên bản kiểm tra hiện trạng ngày 28/3/2024 và sơ đồ lồng ghép vị trí
thửa đất thì hiện nay gia đình bà Trịnh Thị N đang sử dụng và đã làm một ngôi
nhà mái thái và các công trình xây dựng trên thửa đất số 131.
Bà N cho rằng năm 1999 chồng bà là ông Nguyễn Tứ H2 có nhận chuyển
nhượng khoảng 560m
2
của người đồng bào và sinh sống trên đất từ đó đến nay,
nhưng bà N không cung cấp được chứng cứ chứng minh.
Như vậy việc bà N làm nhà và các công trình xây đựng khác trên đất đã
được cấp quyền sử dụng đất ở cho ông P là trái quy định pháp luật. Cấp sơ thẩm
buộc bà Trịnh Thị N phải có nghĩa vụ phải trả lại quyền sử dụng đất đối thửa đất
số 131 là có căn cứ.
Đối với tài sản trên diện tích đất tranh chấp: Hiện nay trên diện tích
tranh chấp bị đơn đã xây dựng một ngôi nhà mái thái và các tài sản gắn liền với
đất có giá trị tương đối lớn có tổng giá trị là 923.791.000 đồng. Trường hợp buộc
bị đơn phải tháo dỡ các công trình xây dựng trên phần diện tích đất tranh chấp sẽ
gây thiệt hại cho các bên đương sự và việc di dời nhà mái thái kiên cố có kết cấu
nền gạch, móng cột dầm bê tông cốt thép khó có thể thực hiện được.
Mặt khác, nguyên đơn cũng có một phần lỗi. Bởi vì sau khi nguyên đơn
được Ủy ban nhân dân huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
thửa đất số 131, tờ bản đồ số 16. Bị đơn đã làm nhà và sử dụng một thời gian dài
(từ năm 2016 đến năm 2022) nhưng nguyên đơn không biết có người làm nhà trên
thửa đất của mình. Lẽ ra, quá trình quản lý, sử dụng thửa đất 131, tờ bản đồ số 16
nguyên đơn phải kiểm tra, xem xét hiện trạng thửa đất để từ đó phát hiện cá nhân
hay tổ chức có hành vi lấn chiếm thì có biện pháp xử lý kịp thời. Do đó, cấp sơ
thẩm buộc nguyên đơn có nghĩa vụ phải thanh toán cho bị đơn ½ giá trị tài sản
gắn liền với thửa đất nêu trên do bị đơn đã xây dựng nhà và các công trình phụ
khác.. Đồng thời giao các tài sản gắn liền đất cho nguyên đơn quản lý, sử dụng là
phù hợp.
Về yêu cầu phản tố của bị đơn: Yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 08/8/2000 giữa ông Triệu Quang P với bà
13
Hoàng Thị Mai B1 là vô hiệu và hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất (phần
quyền) người tặng cho là ông Triệu Quang P1, bà Triệu Thị Cẩm V và người nhận
cho tặng ông Triệu Quang P và bà Lê Thị Thanh H1 theo Giấy CNQSD đất số X
791810 do UBND huyện B cấp ngày 07/04/2004, thửa đất 131, tờ bản đồ 16.
Được Văn phòng C4, ngày 19/8/2023 là vô hiệu. Hội đồng xét xử xét thấy:
Về hình thức: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Hoàng
Thị Mai B1 với ông Triệu Quang P được Ủy ban nhân dân xã E, huyện B chứng
thực vào ngày 09/8/2000 và Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất (phần quyền)
giữa người tặng cho là ông Triệu Quang P1, bà Triệu Thị Cẩm V và người nhận
cho tặng ông Triệu Quang P, bà Lê Thị Thanh H1 đối với thửa đất 131, tờ bản đồ
số 16. Được Văn phòng công chứng Nguyễn Thị Kim L công chứng vào ngày
19/8/2023 là ngay tình và hoàn toàn tự nguyện của các bên. Hình thức của hợp
đồng tuân thủ đúng theo quy định pháp luật. Như vậy, hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất (phần quyền) đối với
thửa đất số 131, tờ bản đồ số 16 đều được bên chuyển nhượng, bên nhận chuyển
nhượng; Bên tặng cho, bên nhận tặng cho tự nguyện thỏa thuận, ký kết và thừa
nhận. Do đó, theo quy định tại Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự đây là những tình
tiết, sự kiện được các bên thừa nhận và không phải chứng minh.
Về nội dung: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Hoàng
Thị Mai B1 và ông Triệu Quang P được lập ngày 08/8/2000 và được Ủy ban nhân
dân xã E ký xác nhận ngày 09/8/2000. Tại thời điểm chuyển nhượng đất không
có tranh chấp, không bị kê biên để đảm bảo thi hành án, không nằm trong quy
hoạch giải tỏa đền bù là phù hợp với quy định pháp luật.
Theo nội dung của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói trên
thì bên chuyển nhượng đã bàn giao đất và cung cấp giấy tờ có liên quan đến đất
cho ông Triệu Quang P thực hiện việc kê khai để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Ngày 18/3/2004, ông Triệu Quang P làm đơn đăng ký quyền sử dụng đất
đối với thửa đất số 131, tờ bản đồ số 16. Ngày 07/04/2004, Ủy ban nhân dân
huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 791810 đối với thửa đất số
131, tờ bản đồ số 16 cho hộ ông Triệu Quang P.
Quá trình sử dụng, ông Triệu Quang P1, bà Triệu Thị Cẩm V đã làm hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất (phần quyền) đối với thửa đất 131, tờ bản đồ 16;
cho ông Triệu Quang P1, bà Triệu Thị Cẩm V. Được Văn phòng công chứng
Nguyễn Thị Kim L công chứng ngày 19/8/2023.
Xét thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được giao kết giữa
bà Hoàng Thị Mai B1 và ông Triệu Quang P và hợp đồng tặng cho quyền sử dụng
đất (phần quyền) giữa người tặng cho là ông Triệu Quang P1, bà Triệu Thị Cẩm
V và người nhận cho tặng ông Triệu Quang P, bà Lê Thị Thanh H1 là hoàn toàn
tự nguyện, tuân thủ về mặt nội dung và hình thức. Ngày 30/8/2023, thay đổi cơ
sở pháp lý và sang tên cho ông Triệu Quang P và bà Lê Thị Thanh H1 theo đúng
quy định của pháp luật.
14
Vì vậy, không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc
tuyên vô hiệu đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất nêu trên.
Về yêu cầu phản tố của bị đơn bà Trịnh Thị N về việc công nhận thửa
đất 131, tờ bản đồ số 16, có diện tích khoảng 560m² và tài sản gắn liền với đất
cho bà Trịnh Thị N được quyền quản lý, sử dụng. Hội đồng xét xử xét thấy:
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn và đại diện theo ủy quyền của bị đơn cho
rằng về nguồn gốc đất đối với thửa đất số 131, tờ bản đồ số 16 (hiện tại bị đơn
đang sửu dụng) là gia đình bị đơn trước đây nhận chuyển nhượng của người đồng
bào. Tuy nhiên, bị đơn và đại diện theo ủy quyền của bị đơn không cung cấp được
hợp đồng chuyển nhượng và các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu
của mình. Vì vậy, không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu phản tố này của bị đơn.
Về yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 791810. Hội
đồng xét xử xét thấy không có cơ cở pháp lý để chấp nhận yêu cầu phản tố của
của bị đơn về việc tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà
Hoàng Thị Mai B1 với ông Triệu Quang P và hợp đồng tặng cho quyền sử dụng
đất giữa người tặng cho là ông Triệu Quang P1, bà Triệu Thị Cẩm V và người
nhận cho tặng ông Triệu Quang P, bà Lê Thị Thanh H1 là vô hiệu. Đồng thời
không có cơ sở pháp lý để công nhận thửa đất 131, tờ bản đồ 16, địa chỉ thửa đất
tại xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk thuộc quyền quản lý, sử dụng của bà Trịnh Thị N
nên không có cơ sở để xem xét giải quyết hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số X 791810.
Từ nhận định trên thấy rằng kháng cáo của bà Trịnh Thị N không có căn cứ
mà cần giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 16/2024/DSST ngày 25 tháng 9 năm
2024 của TAND huyện Buôn Đôn.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[3]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Do không được chấp nhận kháng cáo nên
bà Trịnh Thị N phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
[1]. Căn cứ vào khoản 3 Điều 296; khoản 1, khoản 5 Điều 308 Bộ luật Tố
tụng dân sự;
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của ông Triệu Quang
P;
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Trịnh Thị N - Giữ nguyên Bản
án dân sự sơ thẩm số: 16/2024/DSST ngày 25 tháng 9 năm 2024 của TAND huyện
Buôn Đôn.
[2]. Tuyên xử:
15
[2.1]. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Triệu
Quang P:
- Buộc bị đơn bà Trịnh Thị N phải trả lại ông Triệu Quang P thửa đất số 131,
tờ bản đồ số 16 (thửa mới là 119, tờ bản đồ số 138) diện tích 560,1m
2
, địa chỉ thửa
đất thuộc thôn A, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk. Vị trí đất thửa đất có tứ cận như
sau:
+ Phía Đông giáp thửa đất ông T3 (nay là thửa đất số 124) có cạnh dài
49,04m;
+ Phía Tây giáp thửa đất vợ chồng ông C, bà H Bong B2 (nay là thửa đất
121) có cạnh dài 48,87m;
+ Phía Nam giáp thửa đất ông Nguyễn Đỗ H4 có cạnh dài 11,57m;
+ Phía Bắc giáp đường tỉnh lộ 01 có cạnh dài 11,54m
(Có sơ đồ trích đo hiện trạng thửa đất ngày 29/01/2024 của Công ty TNHH
Đ kèm theo).
- Nguyên đơn ông Triệu Quang P được quyền quản lý, sử dụng các tài sản
gắn liền đất đối với thửa đất số 131, tờ bản đồ số 16, bao gồm: 01 căn nhà mái
thái (nhà chính, các công trình phụ, bếp, tường rào, cổng) được làm từ năm 2016
và các cây trồng: 01 cây chôm chôm, 02 cây me, 04 cây mít, 01 cây ổi, 01 cây na,
02 cây mai, 01 cây bơ, 02 cây đu đủ, 01 cây đinh lăng, 01 cây sầu riêng, 01 cây
vối, 01 cây sapôche và 01 giếng khoan đường kính 14cm, sâu 50m (Các tài sản
có đặc điểm theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 27/12/2023, biên bản
định giá tài sản ngày 13/3/2024 và kết quả định giá tài sản ngày 04/5/2024 của
Công ty cổ phần T4 Ban Mê).
- Buộc nguyên đơn ông Triệu Quang P có nghĩa vụ thanh toán cho bị đơn bà
Trịnh Thị N số tiền 461.895.000 đồng (Bốn trăm sáu mươi mốt triệu, tám trăm
chín mươi năm nghìn đồng) về ½ giá trị tài sản (bao gồm: Công trình xây dựng,
nội thất gỗ và các tài sản gắn liền với đất) đối với thửa đất số 131, tờ bản đồ số 16
(thửa mới là 119, tờ bản đồ số 138). Địa chỉ thửa đất thuộc thôn A, xã E, huyện
B, tỉnh Đắk Lắk.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án
còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án, theo mức lãi suất
quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
[2.2]. Bác yêu cầu phản tố của bị đơn bà Trịnh Thị N về việc:
- Yêu cầu tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày
08/8/2000 giữa ông Triệu Quang P với bà Hoàng Thị Mai B1. Địa chỉ: Phường T,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Đối với diện tích đất 672m² và được UBND xã E xác
nhận tháng 8/2000 “Chưa đăng ký cấp giấy CNQSD đất; Thửa đất 131, tờ bản đồ
số 16” là vô hiệu.
- Yêu cầu tuyên hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất (phần quyền) người
tặng cho là ông Triệu Quang P1, bà Triệu Thị Cẩm V cho tặng ông Triệu Quang
P và bà Lê Thị Thanh H1 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 791810
16
do UBND huyện B cấp ngày 07/04/2004 đối với thửa đất 131, tờ bản đồ 16. Địa
chỉ thửa đất tại xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk. Được Văn phòng C4, ngày 19/8/2023
là vô hiệu;
- Yêu cầu công nhận thửa đất số 131, tờ bản số 16, có diện tích 560m² và tài
sản trên đất cho bà Trịnh Thị N.
[3]. Về chi phí tố tụng: Buộc bị đơn bà Trịnh Thị N có nghĩa vụ phải trả cho
ông Triệu Quang P số tiền 13.906.000 đồng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, chi
phí đo đạc và định giá tài sản.
[4]. Về án phí:
[4.1] Án phí dân sự sơ thẩm
- Nguyên đơn ông Triệu Quang P phải chịu 22.475.000 đồng án phí dân sự
sơ thẩm có giá ngạch. Được khấu trừ số tiền 7.500.000 đồng mà ông Triệu Quang
P đã nộp theo biên lai thu số 0019478 ngày 05/10/2023 tại Chi cục thi hành án
dân sự huyện Buôn Đôn. Ông Triệu Quang P còn phải nộp số tiền 14.975.000
đồng án phí dân sự sơ thẩm.
- Bị đơn bà Trịnh Thị N phải chịu 22.475.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm
có giá ngạch và 300.000 đồng án phí không có giá ngạch về yêu cầu phản tố không
được chấp nhận.
[4.2]. Án phí dân sự phúc thẩm:
Bà Trịnh Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, được
khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp theo biên lai số 0004940 ngày
16/10/2024 của Chi cục THADS huyện B.
Ông Triệu Quang P phải chịu 150.000 đồng đồng án phí dân sự phúc thẩm,
được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp theo biên lai số 0004938 ngày
16/10/2024 của Chi cục THADS huyện B. Ông P được nhận lại 150.000 đồng.
[5]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9
Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Đắk Lắk (02); THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND huyện Buôn Đôn;
- Chi cục THADS huyện Buôn Đôn; Đã ký
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ.
Nguyễn Đình Triết
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm