Bản án số 14/2024/DS-PT ngày 31/07/2024 của TAND tỉnh Hà Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 14/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 14/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 14/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 14/2024/DS-PT ngày 31/07/2024 của TAND tỉnh Hà Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Hà Giang |
Số hiệu: | 14/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 31/07/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Hủy bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HÀ GIANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 14/2024/DS-PT
Ngày 31/7/2024
V/v "Tranh chấp quyền sử dụng đất"
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Vương Thị Thu Hà
Các Thẩm phán: Ông Lâm Anh Luyện, bà Vũ Mỹ Lệ.
- Thư ký phiên tòa: Bà Hà Thị Yến - Thư ký viên Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang tham gia phiên tòa: Bà
Vương Thị Chiêm - Kiểm sát viên.
Ngày 31/7/2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử phúc thẩm
công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số 13/2024/TLPT-DS ngày 25/6/2024
về việc "Tranh chấp quyền sử dụng đất".
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 22/5/2024 của Toà án
nhân dân huyện H, tỉnh Hà Giang bị kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 14/2024/QĐPT-DS ngày
15/7/2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Phàn Sành V, sinh năm 1976; người đại diện theo ủy
quyền: Ông Phàn Giào S1, sinh năm 1960; cùng địa chỉ: Thôn N, xã T, huyện H,
tỉnh Hà Giang; có mặt.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Hoàng
Ngọc Chung - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước
tỉnh Hà Giang; có mặt.
- Bị đơn: Ông Phàn Dùn Q, sinh năm 1963; địa chỉ: Thôn P, xã N, huyện
H, tỉnh Hà Giang; vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Lý Mùi S, sinh năm 1986;
người đại diện theo ủy quyền: Ông Phàn Giào S1; cùng địa chỉ: Thôn N, xã T,
huyện H, tỉnh Hà Giang; có mặt.
- Cơ quan kháng nghị: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang.
NỘI DUNG V N:
Theo đơn khởi kiện ngày 17/4/2023, bản tự khai, biên bản lấy lời khai và
trong quá trình giải quyết vụ án tại Toà án, nguyên đơn anh Phàn Sành V trình
bày: Ngày 15/11/1997, bố anh là ông Phàn Phụ D (chết năm 2012), được UBND
2
huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt là GCNQSDĐ) số
K309554, tại thửa số 226, diện tích 17.700m
2
đất vườn rừng và thửa 226a diện
tích 400m
2
đất ở, tờ bản đồ số 3, địa chỉ thửa đất tại đội 1, Thôn N, xã T, huyện
H, tỉnh Hà Giang. Nguồn gốc diện tích đất này là của Hợp tác xã N, trước khi
được cấp GCNQSDĐ bố anh đã canh tác trồng sắn, sau đó do không có sức khỏe
nên không đến canh tác được thì gia đình ông Phàn Dùn Q đã canh tác trên đất
này. Đến năm 2020, anh V mới biết bố anh được cấp GCNQSDĐ đối với 02 thửa
đất nêu trên, anh đã yêu cầu ông Q trả lại đất, tranh chấp đã được UBND xã N
hòa giải nhưng không thành nên anh V khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết buộc
ông Phàn Dùn Q trả lại toàn bộ diện tích đất tại thửa 226, 226a, tờ bản đồ số 3
Thôn N, xã T, huyện H, tỉnh Hà Giang cho gia đình anh quản lý, sử dụng.
Quá trình giải quyết vụ án, tại các biên bản lấy lời khai, bị đơn ông Phàn
Phụ Q trình bày: Diện tích đất tranh chấp trên có nguồn gốc là do ông, cha gia
đình ông khai hoang từ năm 1979 và để lại cho ông sử dụng trồng cấy, một phần
nữa là do ông tiếp tục khai hoang thêm vào năm 1990, gia đình ông trồng cây
trên đất từ lâu nhưng quá trình sử dụng thì không biết đi kê khai để được cấp
GCNQSDĐ. Trên đất tranh chấp gia đình ông đã trồng cây chè, quế chi, sắn, đến
nay còn những cây chè đã trồng từ những năm 1990. Nay anh V khởi kiện tranh
chấp đất, quan điểm của ông là diện tích đất này gia đình ông đã sử dụng, canh
tác từ lâu đời nên ông không nhất trí với yêu cầu khởi kiện của anh V.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 22/5/2024 của Tòa án
nhân dân huyện H, tỉnh Hà Giang căn cứ vào Điều 26, Điều 35, Điều 39 Bộ luật
tố tụng dân sự; Áp dụng Điều 73, Điều 79 Luật đất đai năm 1993; Điều 105, Điều
107 Luật đất đai năm 2003 và Điều 166, Điều 170 Luật đất đai năm 2013; Căn cứ
khoản 2 Điều 170, Điều 255, Điều 256, Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều
221 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 26, Điều 27 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Nghị quyết quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Phàn Sành V. Buộc
ông Phàn Dùn Q trả lại hộ gia đình anh Phàn Sành V diện tích đất 19.493,3m
2
là
các thửa 226 và 226a, tờ bản đồ số 03, xã N, huyện H trong đó thửa 226a có diện
tích 400m
2
loại đất ở nông thôn, có tứ cận Đông, Tây, Nam, Bắc giáp thửa 226
(nằm trong thửa 226); thửa 226 có diện tích 19.093,3m
2
loại đất vườn rừng, có tứ
cận phía Đông giáp với đất ông Phàn Giào Pú; phía Tây giáp với đường dân sinh;
phía Nam giáp với đất ông Phàn Giào Sênh; phía Bắc giáp với khe nước (theo
mảnh trích đo địa chính số 02-2023 ngày 13/9/2023). Đất đã được UBND huyện
H cấp cho hộ ông Phàn Phụ D theo GCNQSDĐ số K309554 ngày 15/11/1997.
2. Anh Phàn Sành V có nghĩa vụ liên hệ, đề nghị cơ quan chức năng điều
chỉnh lại diện tích được cấp đối với thửa 226 tờ bản đồ số 03, xã N, huyện H cấp
cho hộ ông Phàn Phụ D theo GCNQSDĐ số K309554 ngày 15/11/1997 cho phù
hợp với diện tích đất đã đo đạc tại thực địa (theo mảnh trích đo địa chính số 02-
2023 ngày 13/9/2023).
3
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí xem xét, thẩm
định tại chỗ, quyền kháng cáo và quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự
theo quy định pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 21/6/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Hà Giang kháng nghị đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2024/DS-ST
ngày 22/5/2024 của Tòa án nhân dân huyện H, theo Quyết định kháng nghị phúc
thẩm số 03/QĐKNPT-VKS-DS, nội dung kháng nghị bao gồm 03 vấn đề:
(1)
Tòa
án cấp sơ thẩm xác định chị Lý Mùi S (vợ anh Phàn Sành V) là người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan là không đúng quy định tại Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự.
(2)
Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh thu thập đầy đủ chứng cứ về nguồn gốc, quá
trình quản lý, sử dụng diện tích đất tranh chấp của các đương sự.
(3)
Tòa án cấp sơ
thẩm không tiến hành định giá đối với diện tích đất tranh chấp và tài sản trên đất,
không giải quyết tài sản trên đất. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản
3 Điều 308 và Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự, huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số
02/2024/DS-ST ngày 22/5/2024 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Giang.
Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân huyện H giải quyết lại theo thủ tục sơ
thẩm. Về án phí: Anh V không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
NHN ĐNH CỦA TOÀ ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại
phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, các quy định của pháp luật,
ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang trong
hạn luật định quy định tại Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự, được Toà án cấp phúc
thẩm chấp nhận để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Tại phiên toà vắng mặt bị đơn, ông Phàn Dùn Q. Xét thấy, các đương
sự không ai có kháng cáo, vụ án được đưa ra xét xử phúc thẩm theo Quyết định
kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang, do đó việc
vắng mặt của bị đơn không làm ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử
thảo luận và quyết định vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.
[3] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang về việc xác
định sai tư cách tham gia tố tụng của chị Lý Mùi S: Hội đồng xét xử xét thấy, Anh
Phàn Sành V cho rằng diện tích đất đang tranh chấp, bố anh là ông Phàn Phụ D
đã được UBND huyện H cấp GCNQSDĐ từ năm 1997, năm 2012 ông D chết. Tại
thời điểm được cấp đất, hộ gia đình ông D có 02 nhân khẩu là ông D và anh V.
Còn mẹ đẻ của anh V là bà Triệu Mùi Chiều, chung sống với ông D không đăng
ký kết hôn, bà Chiều đã chết nhưng anh V không biết thông tin nơi cư trú cuối
cùng của bà Chiều trước khi chết ở đâu. Vì vậy, những người thuộc hàng thừa kế
thứ nhất của ông D chỉ có duy nhất anh V là người có quyền khởi kiện, chị Lý
Mùi S từ khi kết hôn với anh V chưa được sử dụng đất ngày nào, diện tích đất trên
không liên quan đến chị Lý Mùi S. Do đó, quyền lợi và nghĩa vụ của chị S không
bị ảnh hưởng, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xác định chị Lý Mùi S là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là không đúng quy định tại Điều 68 Bộ luật tố
tụng dân sự.
4
[4] Xét nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang cho
rằng, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh thu thập đầy đủ chứng cứ về nguồn gốc,
quá trình quản lý, sử dụng diện tích đất tranh chấp của các đương sự: Hội đồng xét
xử xét thấy, tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm nguyên đơn trình bày, năm 1997,
ông Phàn Phụ D không có đất ở và đất canh tác nên đã đề nghị và được Hợp tác xã
N, UBND xã N xét, đề nghị UBND huyện H cấp GCNQSDĐ, trước thời điểm được
cấp đất bố anh đã từng trồng sắn trên diện tích đất này một thời gian ngắn, do thửa
đất cách nhà khoảng 2km, đường xá đi lại khó khăn nên không canh tác nữa. Đến
năm 2020 anh V mới biết ông Phàn Dùn Q sử dụng trên diện tích đất bố anh được
cấp nên xảy ra tranh chấp. Phía bị đơn cho rằng, nguồn gốc đất tranh chấp do cha
ông khai phá từ năm 1979 để lại, năm 1990 gia đình ông khai phá thêm và quản lý,
sử dụng ổn định từ đó đến nay (tức là đã quản lý, sử dụng từ trước khi ông D được
cấp GCNQSDĐ). Tòa án cấp sơ thẩm mới chỉ xác minh nguồn gốc đất tại UBND
xã N, căn cứ các giấy tờ do nguyên đơn cung cấp, chưa tiến hành xác minh, thu
thập tài liệu, chứng cứ như bản đồ địa chính khu đất tranh chấp qua các thời kỳ;
xác minh những người dân sống lâu năm; cá nhân, hộ gia đình có đất giáp ranh giới
với đất tranh chấp; những người có tên trong thành phần giao đất, việc đo đạc bàn
giao diện tích đất cho người được công nhận quyền sử dụng đất lần đầu; xác minh
thời điểm cấp GCNQSDĐ cho ông D diện tích đất tranh chấp do ai đang quản lý,
sử dụng. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm đã phán quyết theo hướng chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn là chưa đủ căn cứ.
[5] Đối với nội dung kháng nghị, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang cho
rằng, Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành định giá đối với diện tích đất tranh chấp
và tài sản trên đất, không giải quyết tài sản trên đất. Hội đồng xét xử xét thấy, tại
biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 29/8/2023 thể hiện trên thửa đất tranh
chấp có 11 cây xoan đường kính từ 20 đến 30cm; 15 cây xoan có đường kính từ 05
đến 15cm; có khoảng 200 đến 300 gốc chè cao từ 1 đến 1,5m, tán rộng từ 1,2 đến
1,5m; có khoảng 1.400 đến 1.500m
2
đất trồng ngô (từ 8.000 đến 10.000 khóm); có
khoảng 800 đến 900m
2
đất trồng lúa; từ khoảng 6.000 đến 7.000m
2
đất
trồng sắn (từ
24.000 đến 26.000 khóm); có khoảng 1.000 cây quế chi cao từ 1 đến 1,5m. Ngoài
ra, còn có cây tre, trúc, vầu và các cây tạp khác không kiểm đếm được. Nội dung
vụ án thể hiện nguyên đơn anh Phàn Sành V khai trước khi ông D được cấp
GCNQSDĐ, ông D đã từng trồng sắn trên diện tích này, sau đó do sức khỏe yếu,
đường xá đi lại khó khăn nên đã không tiếp tục canh tác, năm 2012 ông D chết
không nói cho anh V biết là ông D đã được cấp thửa đất số 226, đất vườn rừng và
thửa số 226a, tờ bản đồ số 3 xã N, đến năm 2020 anh V mới biết diện tích đất này
thuộc quyền quản lý, sử dụng của gia đình anh. Bị đơn ông Q khai gia đình ông có
trồng chè, quế, sắn trên đất, đến nay vẫn còn cây chè trồng từ năm 1990 nên ông
không đồng ý trả lại đất. Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn cho rằng cây ngô,
cây lúa là ông Q vừa canh tác, cây Chè cũng do ông Q trồng, nhưng chỉ mới trồng
từ khoảng chục năm gần đây, chứ không thể trồng từ năm 1990 như ông Q đã trình
bầy; các loại cây xoan và quế chi là cây mọc tự nhiên; còn các loại cây tre, trúc,
vầu là trước đây ông D trồng. Như vậy, trước hết Tòa án cấp sơ thẩm không xác
minh làm rõ nguồn gốc tài sản trên đất là do ai trồng; không đề nghị cơ quan chuyên
môn xác định độ tuổi của cây, nhất là độ tuổi cây Chè, cây Xoan, cây Quế Chi, Tòa

5
án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào ý kiến của nguyên đơn không đề nghị giải quyết về
tài sản trên đất nên không tiến hành định giá tài sản để giải quyết phần tài sản trên
đất, trong khi tài sản trên đất là cây lâu năm có giá trị kinh tế, làm ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích của bị đơn.
[6] Xét thấy, nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang
là có căn cứ. Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án cấp sơ thẩm xác định không
đúng tư cách tham gia tố tụng đối với chị Lý Mùi S; chưa xác minh, thu thập đầy
đủ tài liệu, chứng cứ về nguồn gốc diện tích đất tranh chấp; không xác minh, thu
thập chứng cứ về nguồn gốc tài sản trên đất do ai trồng, tuổi đời của những loại
cây có giá trị kinh tế cao, không tiến hành định giá tài sản, là vi phạm Điều 68,
Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự, dẫn đến việc giải quyết vụ án không có căn cứ,
ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự, đồng thời không giải
quyết triệt để vụ án, gây khó khăn cho việc thi hành bản án.
[7] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy, Toà án
cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng tố tụng, những vi phạm của Toà án cấp sơ
thẩm mà tại cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Vì vậy, để giải quyết vụ
án được toàn diện, bảo đảm tính khách quan, cần thiết phải huỷ Bản án dân sự sơ
thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 22/5/2024 của Toà án nhân dân huyện H, tỉnh Hà
Giang, để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
[8] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang tại phiên tòa
phúc thẩm phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYT ĐNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự.
1. Huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 22/5/2024 của Toà
án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Giang.
Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Giang giải quyết
lại theo thủ tục sơ thẩm.
2. Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Hà Giang;
- TAND h. H;
- Cục THADS tỉnh Hà Giang;
- Chi cục THADS h. H;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Vương Thị Thu Hà
6
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Lâm Anh Luyện Nguyễn Mạnh Cường
THẨM PHN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Vương Thị Thu Hà
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Bản án số 152/2025/DS-PT ngày 10/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 09/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Bản án số 144/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm