Bản án số 137/2017/HSPT ngày 20/07/2017 của TAND TP. Đà Nẵng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 137/2017/HSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 137/2017/HSPT
Tên Bản án: | Bản án số 137/2017/HSPT ngày 20/07/2017 của TAND TP. Đà Nẵng |
---|---|
Tội danh: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Đà Nẵng |
Số hiệu: | 137/2017/HSPT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 20/07/2017 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 137/2017/HSPT NGÀY 20/07/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 20/7/2017 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 104/2017/HSPT ngày 22.6.2017 đối với bị cáo Nguyễn Hà Thị Mộc L do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 36/2017/HSST ngày 17/5/2017 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Hà Thị Mộc L - Sinh ngày 24.7.1976; Tại Đà Nẵng; Nơi ĐKNKTT: Tổ 4x, phường V, quận T, thành phố Đà Nẵng; chỗ ở hiện nay: Tổ 7x, phường T, quận T, thành phố Đà Nẵng; Số CMND: 201466xxx; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ văn hóa: 05/12; con ông Nguyễn Đăng Q và bà Hà Thị H; có chồng Đặng Văn H và có 03 con, lớn nhất sinh năm 1995, nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Chưa; bị cáo hiện đang tại ngoại. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14h ngày 21/9/2016, Nguyễn Hà Thị Mộc L (là nhân viên dọc dẹp nhà bán thời gian) đến nhà số K6x/x T, phường H, quận H, Tp Đà Nẵng để làm việc. Khi lau dọn nhà vệ sinh bên trong phòng ngủ tầng 2, L thấy chiếc túi màu nâu của anh Hà Đức A (sinh năm 1971, trú tại K6x/x T, phường H, quận H) để dưới nền nhà sau cánh cửa phòng vệ sinh. L mở túi xách ra lấy một cọc tiền 45.000.000 đồng rồi mang về cất giấu tại phòng trọ K226 đường N, tổ 7x phường T, quận T, Tp Đà Nẵng và tiêu xài hết 8.500.000 đồng. Sau khi phát hiện bị mất tài sản, anh Hà Đức A đã trình báo công an, qua điều tra L đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, cơ quan điều tra đã thu hồi lại được 36.500.000 đồng.
Tại Bản án sơ thẩm số 36/2017/HSST ngày 17/5/2017 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS.
Xử phạt: Nguyễn Hà Thị Mộc L 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra bản án còn tuyên về phần phần án phí, quyền kháng cáo bản án.
Ngày 31.5.2017, bị cáo Nguyễn Hà Thị Mộc L có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, đề nghị xét xử theo trình tự phúc thẩm xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hà Thị Mộc L có đầy đủ nội dung theo thủ tục kháng cáo và nằm trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ. Bị cáo Nguyễn Hà Thị Mộc L đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản có trị giá 45.000.000 đồng, nên Bản án sơ thẩm số 36/2017/HSST ngày 17/5/2017 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng tội. Bản án sơ thẩm cũng đã xem xét mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Đều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo L 06 tháng tù là phù hợp. Nhưng xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 BLHS. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 248 Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hà Thị Mộc L và sửa Bản án sơ thẩm theo hướng cho bị cáo được hưởng án treo.
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Hà Thị Mộc L cũng thừa nhận Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự là đúng và bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét kháng cáo của bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Hà Thị Mộc L khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào ngày 21/9/2016, Nguyễn Hà Thị Mộc L đến nhà số K6x/x T, phường H, quận H, Tp Đà Nẵng để dọn dẹp nhà cho anh Hà Đức A. Trong quá trình dọn nhà, Nguyễn Hà Thị Mộc L đã có hành vi lén lút lấy trộm 45.000.000 đồng của anh Hà Đức A.
Do đó,Bản án sơ thẩm số 36/2017/HSST ngày 17/5/2017 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu đã xét xử bị cáo Nguyễn Hà Thị Mộc L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng tội.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hà Thị Mộc L: Hội đồng xét xử xét thấy hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo đồng thời áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự và xử phạt bị cáo 06 tháng tù là nhẹ, vì tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị lớn nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục và ren đe phòng ngừa.Việc đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng cho bị cáo được hưởng án treo HĐXX xét thấy không chấp nhận. Các quyết định của Bản án sơ thẩm là có căn cứ pháp luật. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Do đó, căn cứ vào Điểm a Khoản 2 Điều 248 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Do không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo Nguyễn Hà Thị Mộc L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hà Thị Mộc L và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Áp dụng khoản 1 Điều 138 BLHS, điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của luật Hình sự.
Xử phạt: Nguyễn Hà Thị Mộc L 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Về án phí: Áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo Nguyễn Hà Thị Mộc L phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!