Bản án số 128/2024/DS-ST ngày 07/11/2024 của TAND huyện Bến Lức, tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 128/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 128/2024/DS-ST ngày 07/11/2024 của TAND huyện Bến Lức, tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Bến Lức (TAND tỉnh Long An)
Số hiệu: 128/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 07/11/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Quang T đối với bị đơn bà Lê Thị Mỹ L
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN BẾN LỨC
TỈNH LONG AN
Bản án số: 128/2024/DS-ST
Ngày: 07-11-2024
V/v tranh chấp đòi tài sản là tiền trong
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN LỨC, TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Cao Thị Thới
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Nguyễn Ngọc Ẩn
2. Ông Dương Công Danh
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Thành Nam Thư Tòa án nhân dân
huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An tham gia
phiên tòa: Trần Thị Lan Chi - Kiểm sát viên.
Ngày 07 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh
Long An xét x thẩm công khai vụ án thụ số 297/2024/TLST-DS ngày 04
tháng 6 năm 2024 về tranh chấp “Đòi tài sản là tiền trong Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử thẩm số
141/2024/QĐXXST-DS, ngày 23 tháng 9 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số
115/2024/QĐST-DS ngày 17 tháng 10 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Lê Quang T, sinh năm 1963.
Địa chỉ: Ấp C, xã N, huyện B, tỉnh Long An.
Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền: Anh Ngô Hoàng Q, sinh năm 1979.
Địa chỉ: Ấp G, xã L, huyện B, tỉnh Long An.
(Hợp đồng ủy quyền ngày 27/5/2024).
Bị đơn:Thị Mỹ L, sinh năm 1958.
Địa chỉ: Số E đường V, Khu phố A, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:Nguyễn Thị L1, sinh năm 1940.
Địa chỉ: Số A, ấp P, xã T, huyện B, tỉnh Long An.
Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của L1: Nguyễn ThL2, sinh
năm 1960.
2
(Văn bản ủy quyền ngày 01/7/2024).
(Anh Q mặt tại phiên tòa, Nguyễn Thị L2 Đơn xin vắng mặt, bị đơn
vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Đơn khởi kiện ngày 29/5/2024, Đơn yêu cầu không hòa giải ngày
12/9/2024, trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa thẩm người đại diện
hợp pháp theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày như sau:
Ngày 25/12/2019 nguyên đơn Thị Mỹ L Hợp đồng ủy quyền số
14670, quyển số 07 TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng C chứng thực đối với thửa
đất số 60, tờ bản đồ số 4 (nay thửa 387, tờ bản đồ số 15) thửa 61, tờ bản đồ số
4, tổng diện tích: 5.676,2m
2
, đất chuyện trồng lúa nước, đất tại nông thôn, tọa
lạc tại ấp P, xã T, huyện B, tỉnh Long An. Thực tế đây Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất (viết tắt QSDĐ) giữa nguyên đơn Thị Mỹ L L đã
chuyển nhượng toàn bộ diện tích thửa đất số 60, 61 cho nguyên đơn.
Hai bên đã giao nhận đủ tiền bàn giao đất xong, tuy nhiên lúc này nguyên
đơn chưa làm thủ tục để được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ. Trong quá trình sử dụng
đất bà Thị Mỹ L có xây dựng hàng rào xung quanh khu đất và có để lại một phần
đất trống ngoài hàng rào để xử lý nước thải nhưng thực tế là để thoát nước mưa, diện
tích khoảng 500m
2
thuộc một phần thửa 60. Từ khi Hợp đồng ủy quyền với L
đến nay nguyên đơn trực tiếp quản lý, sử dụng đất. Sau đó giữa Nguyễn Thị L1
Thị Mỹ L xảy ra tranh chấp liên quan phần đất này. Hiện tại vụ kiện giữa
Nguyễn Thị L1 bà ThMỹ L kết thúc, theo Bản án số 23/2022 DS- ST
Ngày 26/04/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long an đã tuyên: “Vô hiệu một phần
Hợp đồng ủy quyền số 14670, quyển số 07 TP/CC SCC/HĐGD ngày 25/12/2019
giữa Thị Mỹ L ông Quang T do Văn phòng C chứng thực đối với một
phần thửa đất số 60, tờ bản đồ 4, diện tích 508,5m
2
tọa lạc tại p P, T, huyện B,
tỉnh Long An.” Việc này xâm phạm đến quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn
đối với phần đất đã nhận chuyển nhượng từ bà L.
Nguyên đơn đã nhiều lần yêu cầu Thị Mỹ L bồi thường giá trị QSDĐ
diện tích 508,5m
2
, thuộc một phần thửa 60, tờ bản đồ số 4 ( nay thửa 387, tờ bản
đồ số 15), tọa lạc tại ấp P, xã T, huyện B, tỉnh Long An theo giá thị trường nhưng bà
Lê Thị Mỹ L không thực hiện. Hiện tại phần đất trên nằm trong quy hoạch dự án khu
đô thị S, đang được Nhà nước biên, áp giá đền với số tiền 737.755.575
đồng.
Tại phiên tòa thẩm, người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của nguyên đơn
yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau đây:
Yêu cầu nhân Thị Mỹ L bồi thường giá trị QSDĐ diện tích 508,5m
2
,
thuộc một phần thửa 60, tờ bản đồ số 4 ( nay là thửa 387, tờ bản đồ số 15), tọa lạc tại
ấp P, T, huyện B, tỉnh Long An theo khung giá đất Nhà nước áp giá bồi thường
tại án khu đô thị S với số tiền 737.755.575 đồng (Bằng chữ: Bảy trăm ba ơi
bảy triệu bảy trăm năm mươi lăm ngàn năm trăm bảy mươi lăm đồng). Ngoài ra,
3
nguyên đơn không có ý kiến hay yêu cầu nào khác.
Bị đơnLê Thị Mỹ L đã được Tòa án tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, Thông
o về phiên họp kiểm tra việc gia nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ hòa giải
các Văn bản tố tụng khác theo qui đnh của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng vẫn vắng
mặt không có lý do.
Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Nguyễn Thị L1 có Đơn xin vắng mặt nhưng đã trình bày:
Theo Bản án phúc thẩm số 23/2022/DS-ST ngày 26/4/2022 của Tòa án nhân
dân tỉnh Long An đã xét xử:
1. Chấp nhận toàn bộ phần yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị L1 về việc
tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, vô hiệu Hợp đồng uỷ quyền, huỷ các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K 386842 ngày 17/3/1997 do Uỷ
ban nhân dẫn huyện B cấp cho ông Nguyễn Văn T1 đối với diện tích 508,5m
2
thuộc
một phần thửa đất số 60 tờ bản đồ số 4, tọa lạc tại xã T, huyện B, tỉnh Long An.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 599958 vào sổ số 01459
QSDĐ/0206-LA ngày 25/8/1998 do Ủy ban nhân dân huyện B cấp cho ông Mai Văn
H đối với diện tích 508,5m
2
thuộc một phần thửa đất số 60 tờ bản đồ số 4, tọa lạc tại
xã T, huyện B, tỉnh Long An.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U 841386 ngày 07/02/2002 do
Ủy ban nhân dân huyện B cấp cho ông Văn N đối với diện tích 508,5m
2
thuộc
một phần thửa đất số 60, tờ bản đồ số 4, tọa lạc tại xã T, huyện B, tỉnh Long An.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 420783 do Ủy ban nhân dân
huyện B cấp ngày 20/5/2003 cho bà Lê Thị Mỹ L đúng tên đối với diện tích 508,5m
2
thuộc một phần thửa đất số 60, tờ bản đồ 4, tọa lạc tại ấp P, xã T, huyện B, tỉnh Long
An.
- hiệu một phần Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Nguyễn Văn T2 với ông Mai Văn H1 do Ủy ban nhân dân T chứng thực ngày
21/4/1998 đối với một phần thửa đất số 60 tờ bản đồ số 4 diện tích 508,5m
2
, tọa lạc
tại xã T, huyện B, tỉnh Long An.
- Vô hiệu một phần Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Mai
Văn H với ông Lê Văn N do Ủy ban nhân dân xã T chứng thực ngày 14/01/2002 đối
với một phần thửa đất số 60 tờ bản đồ số 4 diện tích 508,5m
2
, tọa lạc tại T, huyện
B, tỉnh Long An.
- hiệu một phần Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 728/CN_
do Ủy ban nhân dân T, huyện B chứng thực ngày 16/4/2003 giữa ông Văn N
Thị Mỹ L đối với một phần thửa đất số 60, t bản đồ số 4, diện tích
508,5m
2
, tọa lạc tại ấp P, xã T, huyện B, tỉnh Long An.
- Vô hiệu một phần Hợp đồng ủy quyền số 14670, quyển số 07 THCC.
SCC/HĐGD ngày 25/12/2019 giữa bà ThMỹ L và ông Quang T đó. Văn
4
phòng C chứng thực đối với một phần thửa đất số 60 tờ bản đồ 4, diện tích 508,5m
2
,
tọa lạc tại ấp P, xã T, huyện B, tỉnh Long An.
2. Nguyễn Thị L1 được quyền tiếp tục sử dụng khai cấp Giấy chứng
nhận QSDĐ tích đất 508,5m
2
thuộc một phần thửa đất số 60, tờ bản đsố 4 nay
thừa 387, tờ bản đồ số 15. Theo Mảnh trích đo bản đồ địa chính số 780-2019 được
Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai tại huyện B duyệt ngày 10/02/2019 thì diện
tích 508,5m
2
đất có vị trí tiếp giáp như sau:
Đông giáp: Thửa số 389.
Tây giáp: Thửa số 186 Nam giáp: Đường đất.
Bắc giáp: Thửa 331.
Nguyễn Thị L1 có trách nhiệm liên hệ quan Nhà nước có thẩm quyền để
lập thủ tục khai, đăng cấp Giấy chứng nhận QSDĐ, ông Quang T trách
nhiệm điều chỉnh một phần diện tích trên Giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp cho
Thị Mỹ L.
Trường hợp bên phải thi hành án không nộp bản chính Giấy chứng nhận
QSDĐ, thì bên được thi hành án được quyền yêu cầu quan Nhà nước thẩm
quyền điều chỉnh, thu hồi, hủy Giấy chúng nhận QSDĐ đã cấp (hoặc một phần diện
tích trong Giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp).
Do đó, nay đại diện cho Nguyễn Thị L1 xác định ông Quang T khởi
kiện Thị Mỹ L đ đòi lại số tiền nhận chuyển nhượng với diện tích đất
508,5m
2
thuộc một phần thửa đất số 60, tờ bản đồ số 4 nay là thừa 387, tờ bản đồ số
15 mà theo Bản án đã tuyên cho bà Nguyễn Thị L1, thì đề nghị Tòa án xem xét, giải
quyết theo quy định pháp luật.
Hiện tại, ông T đã có Đơn kháng nghị Giám đốc thẩm đến Tòa án nhân dân Cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh Bản án phúc thẩm số 23/2022/DS-ST ngày
26/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An theo Biên nhận ngày 29/8/2023 đợi kết
quả giải quyết Giám đốc thẩm đến Tòa án nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh theo quy định pháp luật. Ngày 22/5/2024, ông T đã Đơn xin rút lại Đơn
kháng nghị Giám đốc thẩm nêu trên nộp Đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân
huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
Tài liệu chứng cứ theo Thông báo về việc thu thập được tài liệu chứng cứ số
19/TB-TA ngày 09/8/2024 do Tòa án lập.
Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của nguyên đơn xác định: Ngoài những
chứng cứ đã cung cấp cho Tòa án không còn chứng cứ nào khác để cung cấp cho
Tòa án không yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ. Đồng thời, không yêu cầu Tòa
án triệu tập ai hoặc đưa thêm ai khác vào tham gia tố tụng trong vụ án.
Đại din Vin kim sát nhân dân huyn Bến Lc, tnh Long An tham gia phiên
tòa sơ thẩm phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Toà án nhân dân huyện Bến Lức thụ đơn khởi kiện của nguyên
đơn đối với bị đơn về việc tranh chấp “Đòi tài sản tiền trong Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất” đúng thẩm quyền.
5
Thẩm phán Ch ta phiên tòa và Hội đồng xét xử, Thư phiên toà đã tuân
theo pháp luật tố tụng những người tham gia tố tụng trong vụ án đã chấp hành
pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.
Về nội dung:
Ngày 25/12/2019 ông Quang T Thị Mỹ L Hợp đồng ủy quyền
số 14670, quyển số 07 TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng C chứng thực đối với thửa
đất số 60, tờ bản đồ số 4 (nay thửa 387, tờ bản đồ số 15) thửa 61, tờ bản đồ số
4, tổng diện tích 5.676,2m
2
, đất chuyện trồng lúa nước, đất tại nông thôn, tọa
lạc tại ấp P, xã T, huyện B, tỉnh Long An. Thời hạn uỷ quyền ghi tại Hợp đồng là 10
năm loại hợp đồng không thù lao. Ông T quyền nhân danh bà L toàn
quyền quản lý, sử dụng thửa đất nói trên để thế chấp đặt cọc, chuyển nhượng, tặng
cho, thuê đất…Ông T trình bày thực tế đây là Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa
nguyên đơn và bà Lê Thị Mỹ L và bà L đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích thửa 60,
61 cho nguyên đơn. Hai bên đã giao nhận đủ tiền và bàn giao đất xong, bà L đã được
triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do, cũng không có Văn bản trình bày ý
kiến đối với vụ án này nên xem như bà L tự từ bỏ quyền có ý kiến, quyền có yêu cầu
phản tố của mình. L đã nhận tiền từ ông T không bất khiếu nại hay tranh
chấp từ giao dịch này. Do đó, căn cứ các Điều 501, Điều 502, Điều 503 Bộ luật Dân
sự năm 2015, thì xác định giao dịch giữa L ông T giao dịch chuyển nhượng
QSDĐ, hai bên lập Hợp đồng uỷ quyền chứ không lập Hợp đồng chuyển nhượng
nhưng việc giao tiền, nhận đất đã thực hiện xong, ông T nhận đất quản sử
dụng. Do đó, Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông T L, hiệu lực pháp
luật.
Tuy nhiên, ông T chưa thực hiện việc đăng ký biến động, thì bà Nguyễn Thị L1
khởi kiện Lê Thị Mỹ L về việc buộc L phải trả lại phần đất lấn chiếm với diện
tích 508,5m
2
thuộc một phần thửa đất số 60, tờ bản đồ số 4 (nay thửa 387, tờ bản đồ
số 15). Nội dung vụ việc đã được Tòa án hai cấp xét xử tuyên “…Vô hiệu một phần
Hợp đồng ủy quyền số 14670, quyển số 07 THCC. SCC/HĐGD ngày 25/12/2019
giữa Thị Mỹ L ông Quang T đó. Văn phòng C chứng thực đối với một
phần thửa đất số 60 tờ bản đồ 4, diện tích 508,5m
2
, tọa lạc tại ấp P, T, huyện B,
tỉnh Long An. Nguyễn Thị L1 được quyền tiếp tục sử dụng khai cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng diện tích đất 508,5m
2
thuộc một phần thửa đất số 60, tờ
bản đồ số 4 nay là thừa 387, tờ bản đồ số 15…”.
Tại mục [6], trang số 12 của Bản án dân sự thẩm số 23/2022/DS-ST ngày
26/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã nhận định về giải quyết hậu quả của
giao dịch dân sự vô hiệu“...đối với ông Quang T Tòa án đã tống đạt văn bản cho
thời gian đ yêu cầu độc lập nhưng ông T không yêu cầu nên Tòa án không xem
xét giải quyết. Trường hợp tranh chấp được giải quyết trong vụ án khác…. Xét
thấy, ông T nhận chuyển nhượng từ L thửa 60 thửa 61 tổng diện tích
5.676,2m
2
, đất chuyện trồng lúa nước, đất tại nông thôn, tọa lạc tại ấp P, T,
huyện B, tỉnh Long An, khi nhận chuyển nhượng, ông T trình bày L làm hàng
6
rào xung quanh phần đất nhưng chừa lại khoảng 500m
2
ngoài hàng rào để thoát nước
mưa. Ông T vẫn sử dụng toàn bộ phần đất đã nhận chuyển nhượng. Sau này, khi Toà
án tuyên phần đất khoảng 500m
2
thuộc quyền sở hữu của L1 thì ông yêu cầu
L trả lại số tiền tương ứng với phần diện tích này nhưng bà không đồng ý. Ông T
L thoả thuận chuyển nhượng tổng cộng diện tích 5.676,2m
2
thuộc hai thửa 60
61. Tuy nhiên, phần đất ông T nhận chuyển nhượng đến nay bị thiếu 508,5m
2
so
với thoả thuận ban đầu do phần này được Toà án tuyên thuộc quyền sử dụng của
L1. Như vậy, ông T yêu cầu L thanh toán lại cho ông T phần giá trị tương ứng
phần diện tích đất ông T nhận thiếu theo thoả thuận là có căn cứ.
Hiện nay, diện tích 508,5m
2
thuộc một phần thửa đất số 60, tờ bản đồ số 4 nay
thừa 387, tờ bản đồ số 15, đã bị quy hoạch theo Quyết định số 13266/QĐ-UBND
ngày 10/11/2022 của Ủy ban nhân dân huyện B về việc thu hồi đất của bà Nguyễn
Thị L1; Bảng chiết tính ngày 31/10/2022 của Trung tâm Phát triển quỹ đất dịch
vụ tài nguyên môi trường tỉnh L đã xác định giá trị diện tích 508,5m
2
được bồi
thường số tiền 737.755.575 đồng. L1 đã nhận tiền bồi thường đối với phần
diện tích này và Thị Mỹ L cũng không ý kiến hay khiếu nại L1 về việc
nhận tiền bồi thường. Do đó, ông T yêu cầu L phải trách nhiệm thanh toán
khoản tiền này cho ông T căn cứ phù hợp quy định tại các Điều 163, 166,
440, 444 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Từ những phân tích trên căn cứ vào các Điều 116, 117, 129, 163, 166, 440,
444, 500, 501, 502 Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 166, 167, 168 của Luật Đất
đai năm 2013; đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Về thủ tục tố tụng:
[1]. Nguyên đơn khởi kiện bị đơn yêu cầu Tòa án giải quyết đòi lại tiền trong
Hợp đồng chuyển nhượng thuộc một phần thửa 60, tờ bản đồ số 4 ( nay thửa 387,
tờ bản đồ số 15), tọa lạc tại ấp P, T, huyện B, tỉnh Long An, nên xác định tranh
chấp trong vụ án “Đòi tài sản tiền trong Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất”. Căn cứ Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1, Điều 39 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015, thẩm quyn gii quyết v án theo th tục thẩm
thuộc Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
[2]. Xác định tư cách tham gia tố tụng của các đương sự trong vụ án:
Theo Đơn khởi kiện, nguyên đơn khởi kiện cá nhân bà Lê Thị Mỹ L nên căn cứ
vào Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, xác định Thị Mỹ L bị đơn.
Nguyễn Thị L1 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Bà Nguyễn
Thị Xuân D vợ của ông Quang T đã Bản ý kiến không liên quan đến việc
xác lập giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông T và bà L, đề nghị Tòa
án không triệu tập tham gia tố tụng nên không xác định D người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án này.
7
[3]. Bị đơn bà Lê Thị Mỹ L đã được Toà án triệp tập hợp lệ lần thứ 02 vẫn vắng
mặt không do. Nguyễn Thị L2, người đại diện hợp pháp theo ủy quyền
của bà Nguyễn Thị L1 có Đơn xin vắng mặt suốt quá trình tố tụng của vụ án. Căn cứ
Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án xét xử vắng mặt theo qui
định pháp luật.
Về nội dung tranh chấp:
[4]. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án tại phiên tòa thẩm người đại
diện hợp pháp theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 25/12/2019 nguyên đơn Thị Mỹ L Hợp đồng ủy quyền số
14670, quyển số 07 TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng C chứng thực đối với thửa
đất số 60, tờ bản đồ số 4 (nay là thửa 387, tờ bản đồ số 15) và thửa 61 tờ bản đồ số 4,
tổng diện tích 5.676,2m
2
, đất chuyện trồng lúa nước, đất tại nông thôn, tọa lạc
tại ấp P, xã T, huyện B, tỉnh Long An. Thực tế đây là Hợp đồng chuyển nhượng giữa
nguyên đơn và bà Lê Thị Mỹ L. Bởi vì, bà L đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích của
thửa đất số 60, 61 cho nguyên đơn. Hai bên đã giao nhận đủ tiền bàn giao đất
xong được các bên thừa nhận nên căn cứ các Điều 501, Điều 502, Điều 503 Bộ luật
Dân sự năm 2015, thì Hợp đồng nêu trên có giá trị pháp lý. Bà L đã nhận tiền từ ông
T không bất khiếu nại hay tranh chấp từ giao dịch này. Tuy nhiên, ông T chưa
thực hiện việc đăng ký biến động các thửa đất đã nhận chuyển nhượng từ bà L, thì bà
Nguyễn Thị L1 khởi kiện bà Lê Thị Mỹ L về việc buộc bà L phải trả lại phần đất lấn
chiếm với diện tích 508,5m
2
thuộc một phần thửa đất số 60, tờ bản đồ số 4 nay
thừa 387, tờ bản đồ số 15. Nội dung vụ việc đã được Tòa án xét x“…Vô hiệu một
phần Hợp đồng ủy quyền số 14670, quyển số 07 THCC. SCC/HĐGD ngày
25/12/2019 giữa Thị Mỹ L ông Quang T đó. Văn phòng C chứng thực
đối với một phần thửa đất số 60 tờ bản đồ 4, diện tích 508,5m
2
, tọa lạc tại ấp P,
T, huyện B, tỉnh Long An. Nguyễn Thị L1 được quyền tiếp tục sử dụng và kê khai
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích đất 508,5m
2
thuộc một phần thửa đất
số 60, tờ bản đồ số 4 nay là thừa 387, tờ bản đồ số 15…”.
Tại mục [6], trang số 12 của Bản án dân sự thẩm số 23/2022/DS-ST ngày
26/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã nhận định về giải quyết hậu quả của
giao dịch dân sự vô hiệu“...đối với ông Quang T Tòa án đã tống đạt văn bản cho
thời gian để yêu cầu độc lập nhưng ông T không yêu cầu nên Tòa án không xem
xét giải quyết. Trường hợp tranh chấp được giải quyết trong vụ án khác…”. Do
đó, ngày 29/5/2024, nguyên đơn đã nộp Đơn khởi kiện bị đơn về việc đòi lại tiền
trong Hợp đồng chuyển nhượng đối với phần diện tích nêu trên. Bản án hiệu lực
pháp luật không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục Giám đốc thẩm đã tuyên buộc
L phải trả cho bà L1 đối với phần diện tích đã chuyển nhượng L đã nhận
tiền của nguyên đơn. Như vậy, đủ căn cứ xác định bị đơn L đã nhận tiền
chuyển nhượng của nguyên đơn đối với phần diện tích nêu trên nhưng đến nay
nguyên đơn vẫn chưa đăng biến động sang tên phần diện tích này. Đồng thời,
diện tích 508,5m
2
thuộc một phần thửa đất số 60, tờ bản đồ số 4 (nay thừa 387, tờ
8
bản đồ số 15), đã bị quy hoạch theo Quyết đnh số 13266/QĐ-UBND ngày
10/11/2022 của Ủy ban nhân dân huyện B về việc thu hồi đất của bà Nguyễn Thị L1;
Bảng chiết tính ngày 31/10/2022 của Trung tâm Phát triển quỹ đất dịch vụ tài
nguyên môi trường tỉnh L đã xác định gtrị diện tích 508,5m
2
được bồi thường số
tiền 737.755.575 đồng. Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của L1 đã xác
nhận hiện tại bà L1 đã nhận tiền bồi thường đối với phần diện tích này và bà Thị
Mỹ L cũng không ý kiến hay khiếu nại L1 về việc nhận tiền bồi thường. Căn
cứ các Điều 163, 166, 440, 444 Bộ luật Dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử chấp
nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn ông Lê Quang T. Buộc bị đơn bà Lê Thị Mỹ L
nghĩa vthanh toán tiền trong Hợp đồng ủy quyền (Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất) cho ông Quang T với số tiền là 737.755.575 đồng, là phù hợp
với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ, diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, ý kiến của
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức tham gia phiên tòa.
[5]. Về án phí dân sự thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí lệ pTòa án. Buộc bđơn bà Thị Mỹ L phải chịu án phí do yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận. Nguyên đơn thuộc đối tượng miễn án
phí nên không hoàn trả tiền tạm ứng án phí theo qui định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c, khoản 1 Điều 39, Điều 227
và Điều 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ các Điều 163, 166, 440, 444, 501, 502 và Điều 503 Bộ luật Dân sự năm
2015;
Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị
quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Quang T đối
với bị đơn Thị Mỹ L v việc tranh chấp “Đòi tài sản tiền trong Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
2. Buộc bđơn Thị Mỹ L nghĩa vụ hoàn trả cho nguyên đơn ông
Quang T số tiền 737.755.575 đồng (Bằng chữ: Bảy trăm ba mươi bảy triệu bảy
trăm năm mươi lăm nghìn năm trăm bảy mươi lăm đồng).
Kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có Đơn yêu cầu thi
hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản
tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự
năm 2015.
9
3. Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bị đơn bà Lê Thị Mỹ L phải chịu án phí do yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận 33.510.224 đồng (Bằng chữ: Ba
mươi ba triệu năm trăm mười nghìn hai trăm hai mươi bốn đồng). Nguyên đơn
thuộc đối tượng miễn án phí nên không hoàn trả tiền tạm ứng án phí theo qui định.
4. Đương sự mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15
(mười lăm) ngày ktừ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa quyền
kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án
hoặc bản án được niêm yết.
5. “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự”.
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Nguyễn Ngọc Ẩn Dương Công Danh
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Cao Thị Thới
Tải về
Bản án số 128/2024/DS-ST Bản án số 128/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 128/2024/DS-ST Bản án số 128/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất