Bản án số 123/2025/DS-PT ngày 27/02/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 123/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 123/2025/DS-PT ngày 27/02/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 123/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/02/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: giữ nguyên bản án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
—————————
Bản án số: 123/2025/DS-PT
Ngày: 27 - 02 - 2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hà Huy Cầu
Các Thẩm phán: Ông Lê Thành Long
Ông Mai Xuân Thành
- Thư ký phiên tòa: Ông Bùi Đức Anh Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Phượng – Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh mphiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ
số: 909/2024/TLPT-DS ngày 15 tháng 11 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp
đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự thẩm số: 70/2023/DS-ST ngày 20 tháng 9 năm 2023
của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 05/2025/QĐ-PT ngày
02 tháng 01 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Doãn Khánh T, sinh năm 1984 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số F N, phường L, quận Đ, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Hồ Thị T1, sinh năm
1985 (có mặt);
HKTT: Xã S, huyện Q, tỉnh Nghệ An.
Địa chỉ: Tầng C, H T, phường N, quận H, Thành phố Hà Nội.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật sư Lê Đức T2
Đoàn luật sư Thành phố H (vắng mặt)
- Bị đơn:
2
1. Ông Vương Quốc H, sinh năm 1969 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số 54, Thái Phiên, Phường 16, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh
2. Bà Đặng Nhộc S, sinh năm 1970 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số A Â, Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo y quyền của bị đơn: Ông Vương Quốc C, sinh năm
1970 (có mặt).
Thường trú: Số F, H, phường H, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Phòng C2 tỉnh Kiên Giang (nay là Văn phòng C3) (vắng mặt).
2. C4 (vắng mặt).
Địa chỉ: Số E đường W, A, thành phố E, tiểu ban NJ, 07202, USA.
3. Bà Phan Thị H1, sinh năm 1990 (vắng mặt).
Địa chỉ: Số F N, phường L, quận Đ, Thành phố Hà Nội.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Doãn Khánh T; Bị đơn ông Vương
Quốc H và bà Đặng Nhộc S (có ông Vương Q C là đại diện theo ủy quyền).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn phản tố ngày 09/7/2018 bản tự khai của nguyên đơn ông
Doãn Khánh T trình bày:
Qua sgiới thiệu của ông Đặng Điền T3, ngày 07/02/2018 ông ông
Vương Quốc H vợ bà Đặng Nhộc S cùng hợp đồng đặt cọc để đảm bảo
việc thực hiện việc chuyển nhượng quyền sdụng đất thửa số 26, tờ bản đồ số
122, diện tích 4.001,1m
2
, địa chỉ: Khu phố A, thị trấn D, huyện P (nay là phường
D, thành phố P), tỉnh Kiên Giang với giá chuyển nhượng 64 tỷ đồng, việc
kết hợp đồng đặt cọc được thực hiện tại Phòng C2, huyện P (nay Văn phòng
C3) thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Ngày 07/3/2018, ngay sau khi hợp đồng đặt cọc được Công chứng viên
của phòng C2 chứng nhận ông đã chuyển tiền cho vợ chồng ông H, S số tiền
cọc 10 tỷ đồng, theo hình thức chuyển khoản tại Ngân hàng Thương mại Cổ
phần S3 chi nhánh P, tỉnh Kiên Giang (bút toán s025258.06000060 số GD:
TT18066B0ZL7). Ngay sau thời điểm ký hợp đồng đặt cọc nêu trên ngày
07/3/2018 ông được ông Đặng Điền T3, trú tại số A thị trấn M, huyện C, tỉnh
Đồng Tháp người môi giới giới thiệu trực tiếp cho ông chuyển nhượng
thửa đất này thông báo cho ông biết thửa đất nêu trên khôngđường vào
đất. Sau khi kiểm tra lại toàn bộ hợp đồng đặt cọc bản phô Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của thửa đất nói trên, ông thấy M ghi chú ghi
3
“Toàn bộ diện tích đất nằm trong rừng phòng hộ”. Đối chiếu với luật đất đai
2013 và Bộ luật dân sự 2015 thì phần đất này không được phép chuyển nhượng.
Nay ông T yêu cầu ông H, bà S hoàn trả cho ông T số tiền đặt cọc là 10 tỷ
đồng bồi thường gấp 3 lần theo hợp đồng đặt cọc ngày 07/3/2018 30 tỷ
đồng. Tổng cộng bằng 40 tỷ đồng.
Theo biên bản không tiến hành hòa giải được cũng ncác tài liệu
trong hồ sơ người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Doãn Khánh T
Hồ Thị T1 trình bày như sau:
Qua giới thiệu của người môi giới là ông T3, thường trú tại 114 thị trấn
M, huyện C, tỉnh Đồng Tháp, nên ông Doãn Khánh T mới biết ông H thửa
đất thị trấn D, huyện P (nay là phường D, thành phố P), tỉnh Kiên Giang, thời
điểm này ông T đang có nhu cầu được chuyển nhượng đất để đầu tư kinh doanh,
khi gặp ông H được ông H giới thiệu, chỉ ranh thực địa, hiện trạng thửa đất
như sau: Ông H chỉ ranh cho ông T ranh giới thửa đất bao gồm cả lối đi vào
thửa đất. Vị trí lối đi vào ông H chỉ là lối đi bên cạnh thửa đất; Thửa đất có cạnh
mặt tiền giáp đường dân sinh, đã hàng rào bằng trụ tông do ông H rào để
phòng chống người khác lấn chiếm, khi xem Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, tại mục ghi chú chủ sử dụng đất là ông Vương Quốc H, toàn bộ diện tích đất
nằm trong rừng phòng hộ, khi ông T thắc mắc sao đất nằm trong rừng phòng hộ
thì ông H nói rằng đất này đã quy hoạch mới, toàn bộ diện tích đất này đã
được quy hoạch lại thành đất Thương mại hứa sẽ cung cấp thông tin cho ông
T bằng văn bản về việc quy hoạch thửa đất nói trên.
Ngoài ra, ông H còn cam kết bảo đảm cho ông T quyền sử dụng trọn vẹn
thửa đất về mặt pháp trên thực tế, ông T tin tưởng ông H đất đã quy
hoạch mới thành đất thương mại, nên hai bên thống nhất giá trị chuyển nhượng
quyền sử dụng đất 64 tỷ đồng (giá này gđất thương mại không phải giá
áp cho đất rừng, đất trồng cây lâu năm). Sau khi thống nhất, ngày 07/3/2018 ông
T vợ chồng ông H, S hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất thửa số 26, tờ bản đồ số 122, diện tích 4.001,1m
2
tại khu phố A, thị
trấn D, huyện P (nay phường D, thành phố P), tỉnh Kiên Giang tại Phòng C2
tỉnh Kiên Giang, số công chứng 3924, quyển s02TP- SCC/HĐGD. Theo hợp
đồng đặt cọc, tổng giá trị chuyển nhượng thửa đất là 64 tỷ đồng, stiền cọc ông
T phải đặt cọc cho ông H 10 tỷ đồng, thời hạn hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất nói trên tại Phòng Công chứng số 2 được ấn định vào ngày
11/4/2018. Thực hiện đúng cam kết, ngày 07/3/2018, ông T đã đặt cọc đủ số tiền
10 tỷ đồng cho v chồng ông H, S qua tài khoản theo bút toán số
025258.06000060 số GD: TT18066B0ZL7 tại Ngân hàng Thương mại cổ
phần S3 chi nhánh P, tỉnh Kiên Giang. Nhưng sau khi ông T thanh toán tiền đặt
cọc, nhiều lần ông T ng ông T3 (người môi giới) liên hbằng điện thoại với
ông H, bà S để yêu cầu ông H phối hợp mời cơ quan chuyên môn có thẩm quyền
đến đo đạc xác minh ranh giới, mốc giới của thửa đất trên thực địa, để cắm mốc
lối đi vào thửa đất, thực hiện chuyển đổi, chỉnh lý Chuyển nhượng quyền sử
dụng đất theo quy hoạch mới nhưng ông H không hợp tác, không thực hiện. Sau
4
nhiều lần liên hệ với người đại diện của ông H thì thông tin thửa đất hoàn toàn
trái ngược với thông tin ông H cung cấp trước đó cho ông T phần đất không
lối đi vào mặt tiền của thửa đất không thuộc quyền sử dụng của ông H mà
thửa đất đó thuộc quyền sử dụng của ông Trường N; Tường bê tông rào mặt
tiền của thửa đất không phải do ông H xây để phòng chống người khác lấn
chiếm đất chủ đất bên cạnh xây đbảo vệ thửa đất của mình; L đi vào thửa
đất ông H chỉ, giới thiệu trước đó thuộc quyền sử dụng của chủ đất bên cạnh chứ
không phải đất của ông H, bà S.
Khi biết được thông tin thực trạng thửa đất như vậy, ông T đã chủ động
đề nghị ông H, S thanh hợp đồng đặt cọc, nhưng vợ chồng ông H, S
không hợp tác. Khi ông T nhận thấy thửa đất bất thường và nghi ngờ thửa đất
này không được phép giao dịch chuyển nhượng, nên ông T đã đơn yêu cầu
Phòng C2 tỉnh Kiên Giang xác nhận việc thửa đất này công chứng được hay
không thì Phòng công chứng có xác nhận “toàn bthửa đất trên nằm trong rừng
phòng hộ nên không được hợp đồng chuyển nhượng”. Khi nhận được văn
bản này, ông T đã gửi cho vợ chồng ông H, S tài liệu này, đồng thời yêu cầu
vợ chồng ông H, bà S trả lại tiền cọc nhưng không được phản hồi.
Trước ngày đến hẹn hợp đồng chuyển nhượng theo hợp đồng đặt cọc
đã ngày 11/4/2018, ông T đã ủy quyền cho ông Phan Văn C1 theo hợp đồng
ủy quyền số 6898, quyển s02TP/CC/HĐGD ngày 07/4/2018 để thay mặt,
nhân danh ông T hợp đồng chuyển nhượng hoặc thanh lý, hủy hợp đồng với
vợ chồng ông H, S1. Ngày 11/4/2018, ông Phan Văn C1 đã mặt đúng hẹn
tại Phòng C2 tỉnh Kiên Giang nhưng không thấy vợ chồng ông H, S đến
Phòng Công chứng ông T cũng không liên lạc được với vợ chồng ông H,
S. Sau ngày 11/4/2018 ông T cùng với ông C1 ông T3 (người môi giới) đã
trực tiếp tìm đến địa chnơi tcủa vợ chồng ông H, S tại địa chỉ: A Â,
Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh nhưng không gặp được vợ chồng
ông H, S, liên lạc qua điện thoại cũng không được. Khi ông T đang chuẩn bị
hồ sơ, giấy tờ đtố cáo vợ chồng ông H, S ra Công an về hành vi lừa đảo
chiếm đoạt tài sản thì ngày 04/5/2018 ông T nhận được thông báo thụ vụ án
số 115/TB-TLVA ngày 04/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc về việc
yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc. Sau đó chuyển thẩm quyền cho Tòa án nhân n
tỉnh Kiên Giang thụ với do người liên quan là ông Charlie Thanh T4 sinh
sống nước ngoài. Từ trước đến nay, mọi giao dịch liên quan đến đặt cọc,
chuyển tiền đặt cọc chuyển nhượng thửa đất 26, tờ bản đồ 122, diện tích
4.001,1m
2
tại khu phố A, thị trấn D, huyện P, tỉnh Kiên Giang, ông T không
bất kỳ giao dịch gì với ông Charlie Thanh T4. Ông T chỉ giao dịch với vợ chồng
ông H, bà S.
Do Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc đã chuyển hcho Tòa án nhân
dân tỉnh Kiên Giang thụ giải quyết. Nên để đảm bảo cho vụ án được sớm đưa
ra xét xử, tránh chuyển hồ qua lại giữa hai tòa, nguyên đơn đề nghị Tòa án
nhân dân tỉnh Kiên Giang tiếp tục thụ giải quyết ván yêu cầu Tòa tuyên
hiệu đối với hợp đồng đặt cọc nói trên u cầu Ông H2, S trả lại cho
5
nguyên đơn 10 tỷ tiền đặt cọc bồi thường cho nguyên đơn số tiền là 30 tỷ
đồng.
Tại phiên tòa thẩm, Hồ Thị T1 đại diện nguyên đơn trình bày: Yêu
cầu Tòa án tuyên hủy hợp đồng đặt cọc công chứng số 3924, quyền số
02TP/CC/HĐGD ký ngày 07/3/2018 giữa ông Doãn Khánh T ông Vương
Quốc H, Đặng Nhộc S; Buộc vợ chồng ông Vương Quốc H, Đặng Nhộc S
phải hoàn trả toàn bộ số tiền cọc đã nhận 10 tỷ đồng cho ông Doãn Khánh T;
Buộc vợ chồng ông Vương Quốc H, Đặng Nhậc S2 phải bồi thường thiệt hại
do hành vi cung cấp thông tin giả mạo, vi phạm cam kết “đảm bảo quyền sử
dụng trọn vẹn đất vmặt pháp thực tế” trong hợp đồng đặt cọc số tiền
30 tỷ đồng. Tổng cộng là 40 tỷ đồng.
Bị đơn ông Vương Quốc H và bà Đặng Nhộc S trình bày n sau:
Vào ngày 07/3/2018 ông bà có ký hợp đồng đặt cọc để đảm bảo thực hiện
chuyển nhượng cho ông Doãn khánh T diện tích đất 4.001,1m
2
, đất tọa lạc tại
khu phố A, thị trấn D, huyện P (nay phường D, thành phố P), tỉnh Kiên
Giang. Hợp đồng đặt cọc đã được Phòng C2 tỉnh Kiên Giang chứng nhận số
3924, quyển số 02TP/CC-SCC/HĐGD ngày 07/3/2018. Theo nội dung hợp đồng
đặt cọc, ông nhận số tiền cọc 10 tỷ đồng hẹn đến ngày 11/4/2018 hai
bên sẽ tiến hành kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Phòng
C2 tỉnh Kiên Giang. Nhưng đến ngày 11/4/2018 ông đã đến đúng hẹn tại
Phòng C2 tỉnh kiên G nhưng phía ông Doãn Khánh T không đến. Ông nhiều
lần vợ chồng liên hệ điện thoại với ông T nhưng ông T không thiện chí hợp tác
với ông.
Từ lý do trên ông làm đơn khởi kiện ông T yêu cầu Tòa án giải
quyết như sau:
- Yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc để đảm bảo thực hiện chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 07/3/2018 giữa vợ chồng ông, ông T đối với diện
tích 4.001,1m
2
, tọa lạc tại khu phố A, thị trấn D, huyện P (nay phường D,
thành phố P), tỉnh Kiên Giang, đã được Phòng C2 tỉnh Kiên Giang chứng nhận
số 3924, quyển số 02TP/CC- SCC/HDGD.
- Số tiền 10 tỷ đồng do ông T đặt cọc cho ông H, S thuộc về vợ chồng
ông bà, do ông T vi phạm nghĩa vụ, nên ông không đồng ý trả lại số tiền đặt
cọc cho ông T.
Ngày 21/6/2019 người đại diện theo ủy quyền của ông H trước đây là ông
Nguyễn Chí N1 trình bày mọi vấn đề liên quan đến việc thỏa thuận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất của ông T đều thỏa thuận trực tiếp với ông Charlie
Thanh T4. Ông Charlie Thanh T4 nhờ vợ chồng ông H, S đứng tên trên
quyền sử dụng đất ông Charlie Thanh T4 người yếu tố nước ngoài
không thể đứng tên quyền sử dụng đất được.
6
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Vương Quốc H, Đặng
Nhộc S là ông Vương Quốc C trình bày:
Ngày 07/3/2018 vchồng ông H, S hợp đồng đặt cọc để bảo
đảm thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Doãn Khánh T
với diện tích đất 4.001,1m
2
tọa lạc tại khu phố A, thị trấn D, huyện P (nay
phường D, thành phố P), tỉnh Kiên Giang. Hợp đồng đặt cọc đã được Phòng C2
tỉnh Kiên Giang chứng nhận số 3924, quyển số: 02TP/CC-SCC/HĐGD ngày
07/3/2018. Theo hợp đồng đặt cọc, vợ chồng ông H nhận tiền cọc 10 tỷ
đồng hẹn đến ngày 11/4/2018 hai bên tiến hành hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất tại Phòng C2 tỉnh Kiên Giang nhưng phía ông T không đến.
Vợ chồng ông H nhiều lần liên hệ điện thoại với ông T nhưng ông T không thiện
chí hợp tác.
Từ do trên, vợ chồng ông H làm đơn khởi kiện ông T yêu cầu Tòa án
hủy hợp đồng số 3924, quyển số 02TP/CC-SCC/HĐGD ngày 07/3/2018 tại
Phòng C2 tỉnh Kiên Giang giữa vợ chồng ông H với ông T đối với diện tích
4.001,1m
2
tọa lạc tại khu phố A, thị trấn D, huyện P, (nay phường D, thành
phố P), tỉnh Kiên Giang. Đối với số tiền 10 tỷ đồng thuộc về vợ chồng ông H, bà
S, vì ông T đã vi phạm hợp đồng.
Trước đây ông H cho rằng đất này của ông Charlie Thanh T4 nhưng
nay ông xác định đất này của ông H do ông H đứng tên Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, đã nhận tiền đặt cọc của ông T thì ông H trách nhiệm về
việc giải quyết tranh chấp hợp đồng đặt cọc với ông T chứ ông Charlie Thanh
T4 không liên quan đến vụ án này, nên không yêu cầu Tòa án đưa ông
Charlie Thanh T4 o tham gia tố tụng với cách người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan không yêu cầu Tòa án thu thập chng cứ y thác pháp
Charlie Thanh T4. Do đó, vợ chồng ông H, bà S tự chịu trách nhiệm trong vụ án
này.
Ngày 16/12/2021 ông H trình bày: Thửa đất số 26, tờ bản đồ 2
o
61 122 tại
khu phố A, thị trấn D, huyện P (nay phường D, thành phố P), tỉnh Kiên
Giang. Với diện tích 4.001,1m
2
, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BE
582276 do Ủy ban nhân dân huyện P cấp ngày 31/10/2011 cho ông Vương Quốc
H thực tế đất của ông Charlie Thanh T4. Do ông Charlie Thanh T4 người
Việt Nam định nước ngoài, không đủ điều kiện đứng tên giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nên ông là người đứng tên hộ cho ông ấy.
Toàn bộ quá trình thỏa thuận đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
u trên là do ông Charlie Thanh T4 trực tiếp thỏa thuận với ông Doãn Khánh T
qua điện thoại, zalo... Sau khi ông Charlie Thanh T4 ông Doãn Khánh T
thống nhất nội dung chuyển nhượng đặt cọc thì vợ chồng ông chỉ ra quan
công chứng ký hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phan Thị H1 trình bày: Đối
với khoản tiền 10 tỷ đồng ông Doãn Khánh T đặt cọc cho vợ chồng ông H,
7
S, đây khoản tiền riêng của ông T, không phải là tài sản chung của hai vợ
chồng bà. Do đó, bà đề nghị Tòa án được vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra
việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ hòa giải cũng như các phiên xét
xử sơ thẩm.
Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông
Vương Quốc C yêu cầu như sau: Đồng ý theo yêu cầu của đại diện nguyên đơn
về việc hủy hợp đồng đặt cọc công chứng số 3924, quyển số 02TP/CC/HĐGD
ngày 07/3/2018 giữa ông Doãn Khánh T ông Vương Quốc H, Đặng
Nhộc S; Vợ chồng ông Vương Quốc H, Đặng Nhộc S không đồng ý trả lại số
tiền cọc đã nhận là 10 tỷ đồng cho ông Doãn Khánh T theo yêu cầu của ông T;
Ông Vương Quốc H, bà Đặng Nhộc S không đồng ý bồi thường cho nguyên đơn
ông T số tiền là 30 tỷ đồng như nguyên đơn ông T yêu cầu.
Tại Bản án dân sự thẩm số: 70/2023/DS-ST ngày 20 tháng 9 năm
2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang đã quyết định như sau:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Doãn
Khánh T.
2. Tuyên hợp đồng đặt cọc công chứng số 3924, quyển số
02TP/CC/HĐGD ký ngày 07/3/2018 giữa ông Doãn Khánh T ông Vương
Quốc H, bà Đặng Nhộc S là vô hiệu.
3. Buộc vợ chồng ông Vương Quốc H, bà Đặng Nhộc S phải hoàn trả toàn
bộ số tiền cọc đã nhận là 10.000.000.000 đồng (Mười tỷ đồng) cho nguyên đơn
ông Doãn Khánh T.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người
phải thi hành án chậm trả stiền nêu trên thì hàng tháng người phải thi hành án
còn phải chịu lãi theo mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ
luật Dân sự năm 2015.
4. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc vchồng ông
Vương Quốc H, bà Đặng Nhộc S phải bồi thường số tiền là 30.000.000.000
đồng (Ba mươi tỷ đồng).
Ngoài ra, bản án thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng
quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
- Ngày 28/9/2023 nguyên đơn ông Doãn Khánh T kháng cáo toàn bmột
phần bản án sơ thẩm;
- Ngày 02/10/2023 bị đơn ông Vương Quốc H, Đặng Nhộc S (có ông
Vương Q C là đại diện theo ủy quyền) kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn ông Doãn Khánh T (có bà Hồ Thị
T1 đại diện theo ủy quyền), bị đơn ông Vương Quốc H, Đặng Nhộc S (có
8
ông Vương Quốc C đại diện theo ủy quyền) vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng
cáo, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các đương sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
- Về tố tụng: Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đầy đủ thủ tục theo quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Bản án sơ thẩm đã xét xử là có căn cứ. Nguyên đơn, bị đơn
kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh. Đ
nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận tất cả các kháng cáo, giữ nguyên bản án
sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cu các tài liu có trong h vụ án đưc thm tra ti
phiên tòa và căn c vào kết quả tranh tụng ti phiên tòa, ý kiến phát biu ca
Vin kim sát, Hi đồng xét x nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Doãn Khánh T; Bị đơn ông
Vương Quốc H Đặng Nhộc S (có ông Vương Q C đại diện theo y
quyền) làm trong thời hạn quy định pháp luật nên hợp lệ.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng
mặt, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 296 Bộ luật
tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vụ án.
[3] Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[3.1] Nhận định của Bản án sơ thẩm về thủ tục tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
[3.2] Ngày 07/3/2018 ông T vợ chồng ông H, bà S ký hợp đồng đặt
cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa số 26, tờ bản đồ số 122, diện tích
4.001,1m
2
do Ủy ban nhân dân huyện P cấp ngày 31/10/2011 cho ông H đứng
tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sBE 582276 do Ủy ban nhân dân
huyện P cấp ngày 31/10/2011, đất tọa lạc tại khu phố A, thị trấn D, huyện P (nay
phường D, thành phố P), tỉnh Kiên Giang tại Phòng Công chứng số 2 tỉnh C2
(nay là phòng C5), số công chứng 3924, quyển số 02TP-SCC/HĐGD. Theo hợp
đồng đặt cọc, tổng giá trị chuyển nhượng thửa đất 64 tỷ đồng trong ngày
07/3/2018 ông T đã đặt cọc đủ cho ông H số tiền 10 tỷ đồng qua tài khoản
theo bút toán 025258.06000060 và số GD: TT18066B0ZL7 tại Ngân hàng
Thương mại cổ phần S3 chi nhánh P, tỉnh Kiên Giang hai bên thỏa thuận đến
ngày 11/4/2018 shợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Phòng
C2.
Tại hợp đồng đặt cọc ngày 07/3/2018 thể hiện: Nếu bên B (ông T) không
tiếp tục nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì mất cọc; Nếu bên A (ông H)
9
không thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì bồi thường gấp 03
lần.
[3.3] Trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BE 582276 do Ủy ban
nhân dân huyện P cấp ngày 31/10/2011 cho ông Vương Quốc H, tại mục ghi chú
thể hiện: “Toàn bộ diện tích đất nằm trong rừng phòng hộ”.
Theo văn bản số 761/CV-CNVPĐKĐĐ ngày 15/6/2023 của Chi nhánh
văn phòng đăng đất đai thành phố P, tỉnh Kiên Giang về việc phúc đáp văn
bản số số 83/CV-DS ngày 31/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang thì:
“Thửa đất số 26, tờ bản đồ số 122, diện tích: 4001,1m
2
, mục đích sử dụng đất
trồng cây lâu năm (CLN), địa chỉ tại khu phố A, phường D, thành phố P, tỉnh
Kiên Giang; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BE582276, số vào scấp
GCN:CH02446, do Ủy ban nhân dân huyện P cấp cho ông Vương Quốc H... Tại
mục 6 Ghi chú: “Toàn bộ diện tích nằm trong Rừng phòng hộ”. Qua kiểm tra
hồ sơ lưu, hồ sơ tiếp nhận và Trả kết quả thuộc Ủy ban nhân dân thành phố P từ
năm 2018 đến nay, ông Vương Quốc H chưa đăng thực hiện thủ tục chuyển
nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất nêu trên… o thời điểm ngày
07/3/2018 đối với thửa đất nêu trên toàn bộ diện tích nằm trong Rừng phòng
hộ, tại thời điểm này Chi nhánh văn phòng đăng đất đai thành phố P tạm
dừng xử lý hồ chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho các trường hợp có diện
tích nằm trong dự án Rừng phòng h P. Theo kết luận số 06/KL-TTr ngày
13/9/2017 của Thanh Tra tỉnh Kiên Giang về việc thanh tra trong việc quản lý,
sử dụng đối với diện tích đất rừng phòng hộ đã được đưa ra khỏi quy hoạch
theo Quyết định số: 633/Qđ-TTg 868/QĐ-TTg của Thủ trưởng Chính phủ
giao cho địa phương quản lý trên địa bàn huyện P.
Báo cáo số 240/BC-STNMT ngày 01/10/2018 của Sở T5 đã soát toàn
bộ các thửa đất đã cấp giấy chứng nhận liên quan đất rừng phòng hộ P,
Vườn Quốc G1, gửi tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh X chủ trương giải quyết
đối với từng trường hợp cụ thể xin ý kiến chỉ đạo từ Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân
dân tỉnh. Việc giải quyết hồ chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với các
thửa đất đã cấp giấy chứng nhận liên quan đến đất rừng phòng hộ P, thực
hiện theo Văn bản số 492/UBND-NCPC ngày 09/6/2021 của Ủy ban nhân dân
thành phố P về việc ý kiến liên quan đến việc thực hiện quyền của người sử
dụng đất.
Thời điểm hiện nay thửa đất diện tích nêu trên được thực hiện chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, theo văn bản số 492/UBND-NCPC ngày 09/6/2021
của Ủy ban nhân dân thành phố P”.
Theo văn bản số 80/QLĐT-KTQH ngày 27/02/2018 của Phòng quản lý đô
Thị nội dung: “Phòng quản đô thị huyện P nhận được đơn đề nghị xin
cung cấp thông tin quy hoạch thửa đất số 26, tbản đồ số 122 của ông Vương
Quốc H, tại khu phố A, thị trấn D, huyện P, tỉnh Kiên Giang, diện tích khu đất là
4001,1m
2
. Căn cứ Quyết định số 2982/QĐ-UBND ngày 18/12/2013 của Chủ
Tịch Ủy ban nhân dân tỉnh K về việc phê duyệt Đồ án Quy hoạch phân khu đô
10
thị D, huyện P, tỉnh Kiên Giang, tỷ lệ 1/200, quy 518,9 ha thì khu đất tại vị
trí nêu trên các chức năng sau: Phần diện tích đất khoảng 2118m
2
thuộc
chức năng đất du lịch hổn hợp (Du lịch + dịch vụ du lịch + đất ở), lô đất số 4
(ký hiệu DL-HH), mật độ xây dựng 35%, tầng cao tối đa 08 tầng.
- Phần diện tích còn lại 1883,1m
2
, thuộc chức năng đất cây xanh bảo tồn,
lô đất số 16 (ký hiệu CXBT)”.
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ trên thì phần đất mà ông T và vợ chồng ông
H, S thỏa thuận đặt cọc để chuyển nhượng là đất nằm trong rừng phòng hộ,
không được chuyển nhượng. Do đó, hợp đồng đặt cọc ngày 07/3/2018 giữa ông
T vợ chồng ông H hiệu ngày từ ban đầu. Quá trình giải quyết vụ án, bị
đơn ông H, bà S thừa nhận đã nhận 10 tỷ đồng tiền đặt cọc từ ông T. Do đó, yêu
cầu của ông T về việc buộc ông H, S trả lại số tiền đặt cọc 10 tỷ đồng
căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự năm 2015.
[3.4] Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vviệc buộc bị đơn bồi
thường thiệt hại do hành vi cung cấp thông tin giả mạo, vi phạm cam kết “đảm
bảo quyền sử dụng trọn vẹn đất về mặt pháp lý và thực tế”:
Xét, khi thỏa thuận việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ông T đã biết
diện tích đất này đã nằm trong rừng phòng hộ, do được ghi trong Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Ông T cho rằng do ông tin theo lời của ông H
S khi ông T thắc mắc vì sao đất nằm trong rừng phòng hộ thì ông H nói rằng đất
đã quy hoạch mới, toàn bộ diện tích đất này đã được quy hoạch lại thành đất
thương mại hứa sẽ cung cấp thông tin cho ông T bằng văn bản vviệc quy
hoạch đó. Lẽ ra, khi ông T nghe ông H nói vậy thì ông T phải trách nhiệm tự
liên hệ với các cơ quan có chức năng về quản lý đất đai để tìm hiểu diện tích đất
này được chuyển nhượng hay không trước khi tiến làm hợp đồng đặt cọc,
nhưng ông T không đi tìm hiểu về nguồn gốc đất đã thống nhất làm hợp đồng
đặt cọc và đã giao tiền đặt cọc 10 t đồng cho ông H và bà S. Do ông T ng
một phần lỗi khi hợp đồng hiệu, nên yêu cầu ông H, S phải bồi thường số
tiền 30 tỷ đồng là không có cơ sở để chấp nhận.
[3.5] Xét lời trình bày của ông H, bà S về việc không đồng ý trả lại số tiền
đặt cọc vì cho rằng ông T đã vi phạm nghĩa vụ đặt cọc:
Hợp đồng đặt cọc ngày 07/3/2018 nội dung: Nếu bên B (ông T) không
tiếp tục nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì mất cọc; Nếu bên A (ông H)
không thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì bồi thường gấp 03
lần.
Xét thấy, theo nội dung nhận định nêu trên thì Hợp đồng đặt cọc ngày
07/3/2018 đã hiệu ngay từ đầu do phần đất chuyển nhượng nằm trong rừng
phòng hộ. Sau khi ông T thanh toán tiền đặt cọc cho ông H, S thì nhiều lần
ông T cùng ông T3 (người môi giới) liên hệ bằng điện thoại với ông H để yêu
cầu ông H phối hợp mời quan chuyên môn thẩm quyền đến đo đạc xác
minh ranh giới, mốc giới của thửa đất trên thực địa, cắm mốc lối đi vào thửa đất,
11
thực hiện chuyển đổi, chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy
hoạch mới nhưng ông H không hợp tác, không thực hiện. Sau nhiều lần liên h
với người đại diện của ông H thì thông tin thửa đất hoàn toàn trái ngược với
thông tin ông H cung cấp trước đó cho ông T, cụ thể: L đi vào mặt tiền của thửa
đất thuộc quyền sử dụng của ông Trường N; ờng tông rào mặt tiền
của thửa đất không phải do ông H xây để phòng chống người khác lấn chiếm đất
mà chủ đất bên cạnh xây để bảo vệ thửa đất của mình; L đi vào thửa đất mà ông
H giới thiệu trước đó thuộc quyền sử dụng của chủ đất bên cạnh.
Khi biết được thông tin thực trạng thửa đất, ông T đã chủ động đề nghị
ông H, S thanh hợp đồng đặt cọc, nhưng vợ chồng ông H không hợp tác.
Ngoài ra, trước ngày 11/4/2018 (ngày hẹn hợp đồng chuyển nhượng), ông T
đã ủy quyền cho ông Phan Văn C1 theo hợp đồng ủy quyền số 6898, quyển sổ
02TP/CC/HĐGD ký ngày 07/4/2018 để thay mặt, nhân danh ông T hợp đồng
chuyển nhượng hoặc thanh lý, hủy hợp đồng với vợ chồng ông H. Ngày
11/4/2018, ông Phan n C1 đã mặt đúng hẹn tại Phòng C2 tỉnh Kiên Giang
nhưng không thấy vchồng ông H, S đến Phòng Công chứng ông T cũng
không liên lạc được với vợ chồng ông H. Sau ngày 11/4/2018 ông T cùng ông
C1 ông T3 (người môi giới) đã trực tiếp tìm đến địa chỉ nơi trú của vợ
chồng ông H, bà S tại địa chỉ: A Â, Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh
nhưng không gặp được v chồng ông H, liên lạc qua điện thoại ng không
được. Khi ông T đang chuẩn bị hồ sơ, giấy tờ để tố cáo vợ chồng ông H, bà S ra
Công an về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì ngày 04/5/2018, ông T nhận
được thông báo thụ vụ án số 115/TB-TLVA ngày 04/5/2018 của Tòa án nn
dân huyện Phú Quốc về việc yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc.
Ngoài ra, khi ông T nhận thấy thừa đất bất thường nghi ngờ thửa đất
này không được phép giao dịch chuyển nhượng, ngày 10/4/2018 ông T đã
đơn yêu cầu Phòng C2 tỉnh Kiên Giang xác nhận việc thửa đất này công
chứng được hay không. Phòng công chứng xác nhận “toàn bộ thửa đất trên
nằm trong rừng phòng hộ nên không được hợp đồng chuyển nhượng(BL
40). Khi nhận được văn bản này, ông T đã gửi cho vợ chồng ông H yêu cầu
vợ chồng ông H trả lại tiền cọc nhưng không được phản hồi. Ngày 28/9/2018
ông Phan Văn C1 là người đại diện theo ủy quyền của ông T có làm giấy đề nghị
Phòng C2 xác nhận nội dung như sau: “Ngày 11/4/2018 tôi đã đến Phòng
C2, huyện P, tỉnh Kiên Giang để thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền
sdụng thửa đất nđã thỏa thuận tại hợp đồng đặt cọc ngày 07/3/2018 giữa
vợ chồng ông Vương Quốc H ông Doãn Khánh T những chờ mãi không thấy
vợ chồng ông H đến, tôi gọi điện thoại cũng không liên lạc được với vợ chồng
ông H...”, được ông Trương Thành D (là Trưởng Phòng công chứng số B tỉnh
Kiên Giang) ký xác nhận. Do đó, việc bị đơn cho rằng nguyên đơn đã vi phạm
nghĩa vụ trong hợp đồng đặt cọc là không có căn cứ chấp nhận.
[4] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy Bản án sơ thẩm đã
xét xử căn cứ, đúng quy định pháp luật. Đương sự kháng cáo nhưng
không tài liệu, chứng cứ mới chứng minh. Do vậy, Hội đồng xét xchấp
12
nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh tham gia phiên tòa; Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các
đương sự; Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[5] Các phần quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo,
kháng nghị đã hiệu lực pháp luật ktừ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị.
[6] Án pdân sphúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên
người có kháng cáo phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự,
I. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Doãn Khánh
T; Bị đơn ông ơng Quốc H Đặng Nhộc S (có ông Vương Quốc C đại
diện theo ủy quyền);
Giữ nguyên bản án thẩm số 70/2023/DS-ST ngày 20/9/2023 của Tòa
án nhân dân tỉnh Kiên Giang.
Áp dụng Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015; điểm b mục 1.1 Nghị quyết
số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản s
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Doãn
Khánh T:
-Tuyên hợp đồng đặt cọc công chứng số 3924, quyển số 02TP/CC/HĐGD
ngày 07/3/2018 giữa ông Doãn Khánh T ông Vương Quốc H, Đặng
Nhộc S là vô hiệu.
- Buộc vợ chồng ông Vương Quốc H, bà Đặng Nhộc S phải hoàn trả toàn
bộ số tiền cọc đã nhận là 10.000.000.000 đồng (Mười tỷ đồng) cho nguyên đơn
ông Doãn Khánh T.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người
phải thi hành án chậm trả stiền nêu trên thì hàng tháng người phải thi hành án
còn phải chịu lãi theo mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ
luật Dân sự năm 2015.
2. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc vợ chồng ông
Vương Quốc H, bà Đặng Nhộc S phải bồi thường số tiền là 30.000.000.000
đồng (Ba mươi tỷ đồng).
13
3. Các phần quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo,
kháng nghị đã hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị.
II. Án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Doãn Khánh T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) được
trừ 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo các biên lai
thu số 0003888 ngày 25/10/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang.
Ông Vương Quốc H Đặng Nhộc S, mỗi người phải chịu 300.000
đồng (Ba trăm nghìn đồng) được trừ 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm
ứng án phí đã nộp theo các biên lai thu số 0003875, 0003876 cùng ngày
23/10/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 9
Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bn án phúc thm có hiu lc pháp lut k t ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân ti cao;
- VKSND cp cao ti TP.HCM
- TAND tnh Kiên Giang;
- VKSND tnh Kiên Giang;
- Cc THADS tnh Kiên Giang;
- NĐ (1);
- BĐ (2);
-NLQ (3);
- Lưu (10) 21b (Án BDA).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN CH TA PHIÊN TÒA
Hà Huy Cu
Tải về
Bản án số 123/2025/DS-PT Bản án số 123/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 123/2025/DS-PT Bản án số 123/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất