Bản án số 1166/2024/HC-PT ngày 28/10/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 1166/2024/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 1166/2024/HC-PT ngày 28/10/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 1166/2024/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/10/2024
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Bác toàn bộ yêu cầu của ông Hứa Văn S về yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất có diện tích 365,1m2 thửa 674 tờ bản đồ số 8, đất trồng cây lâu năm, tọa lạc tại xã X, huyện H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DE 256736 do Ủy ban nhân dân huyện H cấp cho bà Nguyễn Kim S1 ngày 06/9/2022.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 1166/2024/HC-PT
Ngày 28 tháng 10 năm 2024
V/v: “Khiếu kiện quyết định hành chính
về quản đất đai trong việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Thúy Hồng.
Các Thẩm phán: Ông Trần Ngọc Tuấn.
Ông Nguyễn Hồ Tâm Tú.
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Kiên - Thư ký a án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Bà Trần Thị Hu- Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 28/10/2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính phúc thẩm thụ số:
713/2024/TLPT-HC ngày 21/8/2024 vviệc: “Khiếu kiện quyết định hành chính
về quản lý đt đai trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đt”.
Do Bản án hành chính thẩm số: 941/2023/HC-ST ngày 14/6/2023 của Tòa
án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xphúc thẩm số: 3145/2024/QĐ-PT ngày
14/10/2024 giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Ông Hứa Văn S, sinh năm 1960. Địa chỉ: ấp X, X,
huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; xin xét
xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Ủy ban nhân dân huyện H: Ông
Ưu T - Chuyên viên phòng Tài nguyên Môi trường huyện H, Thành phố Hồ
Chí Minh; có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:Nguyễn Kim S1. Địa chỉ: ấp X,
xã X, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
Do có kháng cáo của: Ông Hứa Văn S người khởi kiện.
2
NỘI DUNG V ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 24/10/2022 bản tự khai, ông Hứa Văn S trình
bày: Thửa đất số 113, tờ bản đồ 08 (theo tài liệu năm 1992) nay là thửa 42-1, 43-1,
52-1 đường a tờ bản đồ 8 (tài liệu năm 2005) Bộ địa chính X, huyện H, diện
tích 373,9m
2
nguồn gốc của ông Hứa Văn T1 tạo lập đứng bộ theo công
chứng chứng thư ngày 4/9/1924, trước bạ ngày 8/9/1924 tờ 38 số 14 theo Trích sao
địa bộ số 1609/TS-VPĐK-KT ngày 8/9/2010 của Văn phòng đăng quyền sử
dụng đất Thành phố Hồ Chí Minh Sở Tài nguyên Môi trường Thành phố H
đăng tại sổ địa bộ E (số 682) tờ bản đồ 2 tọa lạc tại T diện tích
11.100m
2
, sử dụng vào mục đích trồng cây đậu phộng.
Sau khi ông Hứa Văn T1 chết thì để lại cho cha mẹ ông S ông Hứa Văn N
bà Huỳnh Thị S2 trực tiếp quản lý, sử dụng phần đất này. Năm 1983, Hứa Văn
N cũng có đăngphần đất trên và được cập nhật đăng ký trong Sổ đăng ký ruộng
đất lập tại T (cũ) ngày 15/7/1983 (đính kèm Sổ đăng ruộng đất) xác nhận
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân T tại quyển số 03, thửa đất số 456 tờ bản đồ số 1
với diện tích 700m
2
/3906m
2
. Ngoài việc sử dụng và đăng cho phần đất trên
thì ông Hứa Văn N cũng người đóng thuế đầy đủ hàng năm từ khi đăng phần
đất kể trên (đính kèm Biên lai đóng thuế sử dụng đất). Khi ông Hứa Văn N còn
sống có cho ông Lâm Văn M (là cha chồng của bà Nguyễn Kim S1) ở nhờ tại phần
đất trên nên khi ông Lâm Văn M chết thì vợ chồng ông Lâm Văn L Nguyễn
Kim S1 đã chiếm giữ phần đất 373,9m
2
kể trên, không trả lại cho gia đình ông S.
Ngày 24/02/2015, ông S khởi kiện tranh chấp dân sự tại Tòa án nhân dân
huyện Hóc Môn. Ngày 20/6/2016, Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn xét xử sơ thẩm
đã công nhận phần đất 373,9m
2
thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông S và những
người đồng thừa kế. Sau đó bà Nguyễn Kim S1 kháng cáo Bản án sơ thẩm nêu trên
ngày 23/6/2017 Tòa án nhân dân Thành phố HChí Minh xét xử phúc thẩm
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông S. Tuy nhiên, tại Bản án số
564/2017/DS-PT ngày 23/6/2017 trong phần quyết định của Bản án không nêu việc
Nguyễn Kim S1 được công nhận quyền sử dụng đất phần đất diện tích
373,9m
2
thuộc thửa 42-1, 43-1, 52-1 đường a tờ bản đồ số 8 (tài liệu năm 2005) Bộ
địa chính X Bản án trên cũng không nêu việc bà Nguyễn Kim S1 được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho phần đất này. Nhưng ngày 06/9/2022, Ủy
ban nhân dân huyện H căn cứ Bản án số: 564/2017/DS-PT ngày 23/6/2017 đã cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho S1 diện tích 365,1m
2
thửa 674, tờ bản
đồ 8, đất trồng cây lâu năm, tọa lạc tại X, huyện H theo Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số DE 256736 do Ủy ban nhân dân huyện H cấp ngày 6/9/2022 trái
pháp luật, không đúng với quy định.
Nên ông S yêu cầu Tòa án giải quyết hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số DE 256736 do Ủy ban nhân dân huyện H cấp cho Nguyễn Kim S1 ngày
06/9/2022.
- Tại Văn bản số: 1392/UBND-TNMT ngày 20/4/2023, người bị kiện y ban
nhân dân huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến:
Ngày 01/7/2022, Nguyễn Kim S1 lập hồ đề nghị cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, phn đất
3
diện tích 365,1m
2
, thuộc một phần các thửa 43, 51, tờ bản đồ số 8 (TL2005) X.
Qua soát kiểm tra hồ lưu trữ tại địa phương, đất nguồn gốc do ông Lâm
Văn K sử dụng từ trước năm 1975, sau khi ông K chết để lại cho con Lâm Văn
M, sau đó ông M để lại cho con ông Lâm Văn L (chồng Nguyễn Kim S1)
Lâm Thị Đ tiếp tục quản sử dụng cho đến nay. Trước đây phần đất tranh
chấp và đã được giải quyết theo Bản án có hiệu lực pháp luật. Căn cứ vào quá trình
sử dụng đất ca gia đình ông Lâm Văn L (do bà S1 đại diện); Căn cứ Bản án dân sự
phúc thẩm số: 564/2017/DS-PT ngày 23/6/2017 của Tòa án nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh đã tuyên với nội dung sau: Sửa Bản án thẩm số: 202/2016/DSST
ngày 20/6/2016 của Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố HChí Minh.
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Hứa Văn S. Ngày 24/7/2017,
ông Hứa Văn S đơn gửi Tòa án nhân dân cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề
nghị xem xét theo thủ tục Giám đốc thẩm. Ngày 23/6/2020, Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh Thông báo số: 938/2020/TB-DS giải quyết đơn
đề nghị Giám đốc thẩm gửi ông Hứa Văn S, theo đó không có căn cứ để kháng nghị
theo thủ tục Giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm số: 564/2017/DS-PT
ngày 23/6/2017 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Trên cơ sở kết quả xác minh và n cứ Bản án dân sự phúc thẩm số:
564/2017/DS-PT ngày 23/6/2017 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã
hiệu lực pháp luật; Thông báo số: 938/2020/TB-DS của Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết đơn đề nghị Giám đốc thẩm của ông
Hứa Văn S, ngày 06/9/2022 Ủy ban nhân dân huyện H đã cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số DE 256736 cho Nguyễn Kim S1 đúng quy định của
pháp luật.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Kim S1 trình bày: Nguồn
gốc đất tranh chấp của ông Lâm Văn M và Thị N1 (cha mẹ của ông Lâm
Văn L, chồng bà S1). Sau khi ông M và bà N1 chết thì để lại cho ông L quản lý, sử
dụng. Năm 1983, ông L có đăng kí 700m
2
theo sổ đăng kí rung đất. Ông S đã khởi
kiện tranh chấp quyền sử dụng phần đất này với gia đình tôi. Ngày 23/6/2017, Tòa
án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử phúc thẩm và giải quyết vụ án bằng
Bản án phúc thẩm số: 564/2017/DS-PT, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của ông
Hứa Văn S. Sau đó bà S1 làm đơn đăng ký cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
được Ủy ban nhân dân huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DE
256736 ngày 06/9/2022. Do đó bà S1 u cầu bác đơn khởi kiện của ông S1.
Tại Bản án số: 941/2023/HC-ST ngày 14/6/2023 của Tòa án nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 30, Điều 32, Điều 60, Điều 116, khoản 1 Điều 157, Điều
158, điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 206 Luật Tố tụng hành chính 2015; Căn cứ
Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy đnh về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử: Bác toàn bộ yêu cầu của ông Hứa Văn S về việc yêu cầu hủy Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất diện tích 365,1m
2
thửa 674 tờ
4
bản đồ số 8, đất trồng cây u năm, tọa lạc tại X, huyện H theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số DE 256736 do Ủy ban nhân dân huyện H cấp cho Nguyễn
Kim S1 ngày 06/9/2022.
Ngoài ra, Bản án thẩm còn quyết định về án phí hành chính thẩm và
quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
- Ngày 26/6/2023, ông Hứa Văn S kháng cáo toàn bộ bản án thẩm yêu
cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy Bản án sơ thẩm để giải quyết lại vụ án cho đúng quy
định của pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
- Ông Hứa Văn S giữ yêu cầu kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải
quyết hủy bản án sơ thẩm để xác minh nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất để giải
quyết vụ án theo đúng quy định ca pháp luật.
- Người bị kiện Ủy ban nhân dân huyện H có văn bản xin xét xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Ủy ban nhân dân huyện H ý
kiến: Ủy ban nhân dân huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà S1
trên sở việc tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông S1 đã được giải quyết bằng
Bản án hiệu lực pháp luật. Do đó, Ủy ban nhân dân huyện H bảo lưu việc cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Nguyễn Kim S1 đối với phần đất
diện tích 365,1m
2
thửa 674 tờ bản đồ số 8, đất trồng cây lâu năm, tọa lạc tại X,
huyện H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DE 256736 do Ủy ban nhân
dân huyện H cấp cho bà Nguyễn Kim S1 ngày 06/9/2022.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát
biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án giai đoạn
phúc thẩm: Những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã thực hiện
đúng các quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Về yêu cầu kháng cáo của ông Hứa Văn S: Kiểm sát viên đề nghị căn cứ
khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính không chấp nhận kháng cáo của ông S,
giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét x nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của ông Hứa Văn S làm trong thời hạn luật định, đủ điều
kiện để xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Người bị kiện văn bản đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên a án tiến
hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt người bị kiện theo quy định tại khoản 4
Điều 225 Luật Tố tụng hành chính.
[2] Về đối tượng khởi kiện, quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
Người khởi kiện ông ông Hứa Văn S khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết hủy
yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất diện tích
365,1m2 thửa 674 tờ bản đồ số 8, đất trồng cây u năm, tọa lạc tại X, huyện H
5
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DE 256736 do Ủy ban nhân dân huyện
H cấp cho bà Nguyễn Kim S1 ngày 06/9/2022.
Tòa án cấp thẩm xác định đúng quan hệ tranh chấp thụ lý, giải quyết
đúng thẩm quyền còn trong thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 3, Điều
30, Điều 32, Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
[3] Xét tính hợp pháp của quyết định hành chính bị khiếu kiện:
[3.1] Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DE 256736 do Ủy ban nhân dân
huyện H cấp ngày 06/9/2022 cho bà Nguyễn Kim S1 là đúng quy định tại Điều 105
Luật Đất đai năm 2013.
[3.2] Về trình tự, thủ tục Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DE 256736
do y ban nhân dân huyện H cấp ngày 06/9/2022 cho bà Nguyễn Kim S1:
Ngày 01/7/2022, Nguyễn Kim S1 làm đơn đăng cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất diện tích 365,1m
2
đất tọa lạc tại ấp X, xã X, huyện H, Thành phố
Hồ Chí Minh. Theo bà S1 khai nguồn gốc đất do ông Lâm Văn L sử dụng trước
15/10/1993. Đến ngày 20/11/2010 ông L chết để lại cho S1 các con quản
sử dụng có phát sinh tranh chấp đã được giải quyết theo Bản án số 564.
Theo bản đồ hiện trạng thửa 674 được thành lập từ một phần thửa 43-1 diện
tích 317,8m
2
một phần thửa 51-1 diện tích 47,3m
2
tờ bản đsố 8 (tài liệu năm
2005) và theo Tài liệu năm 1992 thửa 113-1 diện tích 365,1m
2
đất (bút lục số 107);
Theo số đăng ruộng đất do Ủy ban nhân dân T lập ngày 15/7/1983 tại trang
152 thể hiện ông Lâm Văn L có kê khai chủ sử dụng ruộng đất 700m
2
tọa lạc tại ấp
X (bút lục số 110).
Người khởi kiện ông S khai: Thửa đất số 113 tờ bản đồ 08 (theo tài liệu năm
1992) nay thửa 42-1, 43-1, 52-1 đường a tờ bản đồ 8 (tài liệu năm 2005) Bộ
địa chính X, huyện H, diện tích 373,9m
2
nguồn gốc của ông Hứa Văn T1
tạo lập đứng bộ theo công chứng chứng thư ngày 4/9/1924, trước b ny
8/9/1924 tờ 38 số 14 theo Trích sao địa bộ số 1609/TS-VPĐK-KT ngày 8/9/2010
của Văn phòng đăng quyền sử dụng đất Thành ph Hồ Chí Minh Sở Tài
nguyên và Môi trường Thành phố H đăng ký tại sổ địa bộ E (số cũ 682) tờ bản đồ 2
tọa lạc tại T diện tích 11.100m
2
, sử dụng vào mục đích trồng cây đậu phộng.
Sau khi ông Hứa Văn T1 chết thì đlại cho cha mẹ tôi ông Hứa Văn N
Huỳnh Thị S2 trực tiếp quản lý, sử dụng phần đất này. Khi ông Hứa Văn N còn
sống có cho ông Lâm Văn M (là cha chồng của bà Nguyễn Kim S1) ở nhờ tại phần
đất trên nên khi ông Lâm Văn M chết thì vợ chồng ông Lâm Văn L Nguyễn
Kim S1 đã chiếm giữ phần đất 373,9m
2
kể trên, không trả lại cho gia đình ông S.
Nên ông S có khởi kiện yêu cầuS1 trả lại đất.
S1 khai rằng, nguồn gốc đất tranh chấp của ông Lâm Văn M
Thị N1 (cha mẹ của ông Lâm Văn L, chồng S1). Sau khi ông M N1 chết
thì đlại cho ông L quản lý, sử dụng. Năm 1983, ông L đăng 700m
2
theo sổ
đăng kí ruộng đất. Ông S đã khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng và đã được Tòa án
giải quyết xong.
Xét thấy: Hồ lưu trữ tại địa phương, xác định phần đất nguồn gốc do
ông Lâm Văn K sử dụng từ trước năm 1975, sau khi ông K chết để lại cho con
6
Lâm Văn M, sau đó ông M để lại cho con ông Lâm Văn L (chồng Nguyễn
Kim S1) Lâm ThĐ tiếp tục quản sử dụng đến này. Ông S đã khởi kiện
tranh chấp quyền sử dụng đất. Ngày 23/6/2017, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh đã xét xử phúc thẩm giải quyết vụ án bằng Bản án phúc thẩm số:
564/2017/DS-PT không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông S. Ông Hứa Văn S có
đơn gửi Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị xem xét theo
thtục Giám đốc thẩm. Ngày 23/6/2020, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh thông báo số 938/2020/TB-DS về việc không căn cứ để kháng
nghị theo th tục Giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm s:
564/2017/DS-PT ngày 23/6/2017 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Sau đó, Nguyễn Kim S1 làm đơn xin đăng quyền sử dụng đất thuộc
thửa đất số 674, tờ bản đồ số 8, tổng diện tích 365,1m
2
được Ủy ban nhân dân xã X
xác nhận ngày 29/7/2022, với nội dung thuận cấp quyền sử dụng đất thửa số 674, tờ
bản đồ số 8 (tài liệu 2005), mục đích sử dụng đất trồng cây lâu năm.
Ủy ban nhân dân huyện H thực hiện niêm yết công khai, kiểm tra đối
chiếu đơn đăng ký và bản đồ sử dụng đúng mục đích, ranh giới rõ ràng theo tài liệu
02/CT-UB xét quá trình sử dụng đất, xác định ông L đăng ký, trực tiếp sử dụng
ổn định. Do đó, Ủy ban nhân dân huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số DE 256736 ngày 06/9/2022 cho bà Nguyễn Kim S1 đối với phần đất có diện tích
365,1m
2
thửa 674 tờ bản đồ số 8, đất trồng cây lâu năm, tọa lạc tại X, huyện H
là đúng quy định của pháp luật.
vậy, Bản án thẩm bác yêu cầu khởi kiện của ông Hứa Văn S yêu cầu
hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số diện tích 365,1m
2
thửa 674 tờ bản
đồ số 8, đất trồng cây lâu năm, tọa lạc tại X, huyện H theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số DE 256736 do Ủy ban nhân dân huyện H cấp cho bà Nguyễn
Kim S1 ngày 06/9/2022 là có căn cứ.
[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, ông S giữ nguyên kháng cáo yêu cầu hủy bản án
thẩm nhưng không xuất trình được tài liệu, chứng cứ nào mới đchứng minh
cho yêu cầu kháng cáo của mình.
Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông S giữ
nguyên bản án hành chính sơ thẩm là có căn cứ.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh đề nghị bác kháng cáo của ông S, giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp.
[5] Về án phí hành chính phúc thẩm: Ông Hứa Văn S người cao tuổi nên
được miễn nộp án phí hành chính phúc thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều
12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí và
lệ phí Tòa án;
[6] Quyết định khác ca Bản án sơ thẩm về án phí hành chính sơ thẩm, không
kháng cáo, kháng nghị đã hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng
cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
7
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính;
- Không chấp nhận kháng cáo của ông Hứa Văn S.
2. Giữ nguyên Bản án nh chính thẩm số: 941/2023/HC-ST ngày
16/4/2023 của a án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:
Căn cứ khoản 1 Điều 30, Điều 32, Điều 60, Điều 116, khoản 1 Điều 157, Điều
158, điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 206 Luật Tố tụng hành chính 2015; Căn cứ
Luật Đất đai năm 2013; Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
2.1. Bác toàn bộ yêu cầu của ông Hứa Văn S về yêu cầu hủy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với phần đất diện tích 365,1m
2
thửa 674 tờ bản đồ số 8,
đất trồng cây lâu năm, tọa lạc tại X, huyện H theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số DE 256736 do Ủy ban nhân dân huyện H cấp cho Nguyễn Kim S1
ngày 06/9/2022.
3. Ông Hứa Văn S người cao tuổi nên được miễn nộp án phí hành chính
phúc thẩm. Hoàn trả lại ông Hứa Văn S 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí
hành chính phúc thẩm theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001761 ngày
13/7/2023 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Quyết định khác của Bản án thẩm về án phí hành chính thẩm, không
kháng cáo, kháng nghị đã hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng
cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Tải về
Bản án số 1166/2024/HC-PT Bản án số 1166/2024/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 1166/2024/HC-PT Bản án số 1166/2024/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất