Bản án số 11/2025/DS-PT ngày 08/01/2025 của TAND tỉnh Bình Định về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 11/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 11/2025/DS-PT ngày 08/01/2025 của TAND tỉnh Bình Định về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Định
Số hiệu: 11/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 08/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Hủy án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH ĐỊNH
Bản án số: 11/2025/DS-PT
Ngày 08 01 2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
yêu cầu công nhận quyền sử
dụng đất, yêu cầu chấm dứt hành
vi cản trở trái pháp luật đối với
quyền sử dụng đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHNGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đỗ Thị Thắm
Các Thẩm phán: Ông Phan Minh Dũng
Ông Ung Quang Định
- T phn tòa: Phan Thị Trang là Thẩm tra viên a án nhân dân tỉnh
Bình Đnh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Tú Oanh - Kiểm sát viên.
Ngày 08 tháng 01 năm 2015 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 123/2024/TLPT-DS ngày 15 tháng 10 năm
2024 về tranh chấp quyền sử dụng đất yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất,
yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với quyền sử dụng đất.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 189/2024/DS-ST ngày 30 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định bị kháng cáo, kháng
nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 237/2024/QĐ-PT ngày 04 tháng 12
năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trần Trọng T; ttại: Số C đường N, thành phố Q,
tỉnh Bình Định. (Có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Bà Lê Thị Xuân P
Luật đang hoạt động tại Công ty L2 Chi nhánh Đ1; địa chỉ liên hệ: Số G
đường T, phường H, quận T, thành phố Đà Nẵng thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đ.
(Có mặt)
- Bị đơn:
1. Bà Nguyễn Thị C; (Vắng mặt)
2
2. Ông Trần Thúc D; (Có mặt)
Đồng cư trú tại: Số C đường N, thành phố Q, tỉnh Bình Định.
3. Ông Trần Văn N; cư trú tại: Số A đường A, phường M, quận N, thành phố
Đà Nẵng. (Vắng mặt)
4. Trần Thị ch N1; trú tại: Số C đường N, thành phố Q, tỉnh Bình
Định. (Có mặt)
5. Ông Trần Trọng T1; trú tại: Số A đường T, tổ A, khu V, phường Q,
thành phố Q, tỉnh Bình Định. (Có mặt)
6. Trần Thị Bích L; trú tại: Số A đường T, tổ A, khu V, phường Q,
thành phố Q, tỉnh Bình Định. (Có mặt)
Người đại diện hợp pháp của các bị đơn: Ông Trần Thúc D; cư trú tại: Số C
đường N, thành phố Q, tỉnh Bình Định và ông Trần Văn N; cư trú tại: Số A đường
A, phường M, quận N, thành phố Đà Nẵng là người đại diện theo ủy quyền của các
ông bà Nguyễn Thị C, Trần Thị Bích N1, Trần Trọng T1 Trần Thị Bích L (theo
văn bản ủy quyền ngày 10/11/2023) (Ông D có mặt và ông N vắng mặt)
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị Bích T2; (Vắng mặt)
2. Ông Trần Trung N2; (Vắng mặt)
T2 ông N2 đồng trú tại: Số C đường T, thành phố Q, tỉnh Bình
Định.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Trần Trọng T.
- Viện kiểm sát kháng nghị: Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn,
tỉnh Bình Định.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn ông Trần Trọng T trình bày:
Cha ông tên Trần Q (chết năm 2020) mẹ ông tên Nguyễn Thị C 09
người con là các ông, bà: Trần Nên (chết khi còn nhỏ), Trần Văn N, Trần Thị Bích
N1, Trần Thúc D, Trần Trọng T1, Trần Trung Đ (chết năm 2007), Trần Thị Bích L,
Trần Thị Như T3 (chết khi còn nhỏ), Trần Trọng T. Ông Đ vợ là bà Nguyễn Thị
Bích T2 và có 02 con là Trần Nhật L1 (chết khi còn nhỏ), Trần Trung N2.
Nhà đất tại thửa đất số 12, tờ bản đồ số 01, diện tích 325,5m
2
tại số C
đường N, thành phố Q (viết tắt nhà số C đường N) chưa được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất (viết tắt
GCN) nguồn gốc của ông nội tên Trần T4 (chết năm 1967) bà nội tên
Trương Thị H (chết năm 1968) cho cha mẹ ông từ trước năm 1960, sử dụng ổn
định đến nay không có ai tranh chấp.
3
Ngày 20/10/2001, cha mẹ ông đã lập “Giấy nhà và đất cho con” cho ông trọn
quyền sử dụng phần đất diện tích 24m
2
tại nhà số C N, thành phố Q, tứ cận:
Đông giáp nhà ông Nguyễn Ngọc B, Tây giáp nhà ông Trần C1, Nam giáp nhà ông
Trần Q, Bắc giáp đường N. Các anh chị em trong gia đình đều thống nhất với
“Giấy nhà đất cho con” của cha mẹ về việc cho ông 2m
2
đất nên đã đồng ý
vào Giấy nhà và đất cho con” nêu trên, ký xác nhận của tổ, khu vực và Ủy ban
nhân dân phường N, thành phố Q. Sau khi được cho nhà đất, ông đã nộp thuế đất
đầy đủ từ năm 2001 cho đến năm 2023.
Ngày 15/7/2005, cha ông lập di chúc với nội dung phân chia nhà đất tại số C
đường N, có xác nhận của khu vực và có sơ đồ 01 kèm theo phân chia 08 lô đất, cụ
thể:
- số 01: Diện tích 27,5m
2
(5,5x5) tứ cận: Đông giáp nhà ông N3, Tây
giáp đường nội bộ, Nam giáp …., B1 giáp nhà thờ họ; giao cho ông N sở hữu.
- số 02: Diện tích 25,28m
2
(7,9x3,2) có tứ cận: Đông giáp nhà ông Đ, T5
giáp nhà ông D, Nam giáp nhà ông B2, Bắc giáp đường nội bộ; giao cho ông sở
hữu.
- số 03: Diện tích 21m
2
(2,8x7,5) tứ cận: Đông giáp nhà ông T1, T5
giáp nhà ông T, Nam giáp …., B1 giáp đường nội bộ; giao cho ông Đ sở hữu.
- số 04: Diện tích 14,28m
2
(2,8x5,1) tứ cận: Đông giáp nhà N1, T5
giáp nhà ông Đ, Nam giáp …., B1 giáp đường nội bộ; giao cho ông T1 sở hữu.
- s05: Diện tích 14,28m
2
(2,8x5,1) tcận: Đông giáp nhà L, T5
giáp nhà ông T1, Nam giáp …., B1 giáp đường nội bộ; giao cho N1 sở hữu.
- số 06: Diện tích 17,92m
2
(2,8x6,4) tứ cận: Đông giáp nhà ông N3,
Tây giáp nhà bà N1, Nam giáp …., B1 giáp nhà ông N3; giao cho bà L sở hữu.
- số 07: Diện tích 50m
2
(5x10) có tứ cận: Đông giáp nhà ông T, Tây giáp
đường hẽm, Nam giáp nhà ông M, Bắc giáp đường hẽm; giao cho ông D sở hữu.
- số 08: Toàn bộ diện tích đất còn lại, gồm 3 gian nhà, cụ thể: 8.1:
Diện tích 27,5m
2
(5x5,5) có tứ cận: Đông giáp nhà ông N3, Tây giáp đường nội bộ,
Nam giáp nhà ông N, Bắc giáp ….; 8.2: Diện ch 21m
2
(3x7) tứ cận: Đông
giáp nhà ông N3, T5 giáp nhà ông C1, Nam giáp …, Bắc giáp …; 8.3: Diện tích
23,1m
2
(2,1x11) tứ cận: Đông giáp nông B, Tây giáp nông C1, Nam giáp
…, Bắc giáp đường N. Cả 03 đất trên của số 08 ng làm nhà thờ họ, không
được quyền nhượng bán cho người ngoài, giao cho ông N quản để thờ cúng; thu
nhập nếu từ số 8.2, 8.3 để lo việc thờ cúng bảo dưỡng nhà thờ họ (lô số
08).
Thực hiện theo di chúc của cha ông lập ngày 15/7/2005, gia đình ông đã họp
và lập biên bản họp gia đình ngày 16/7/2005, ông thống nhất nhận phần tài sản cha
mẹ cho và không có ý kiến. Biên bản họp gia đình ngày 16/7/2005 có những người
ký tên trên biên bản gồm: Cha mẹ ông và các con là các ông bà N, N1, D, T1, Đ, L
ông. Biên bản này đại diện khu vực xác nhận. Ông tham dự cuộc họp
4
gia đình ngày 16/7/2005, ông tên trong biên bản, phần ông đã nhận s02
để chỗ ở. Ông xác nhận di chúc, biên bản cuộc họp gia đình, đồ do cha ông
đưa cho ông.
Tháng 4/2023, ông cùng vợ Bùi Thị H1 tiến hành làm các thủ tục để
được cấp GCN đối với nhà đất tại số C đường N mà cha mẹ đã cho ông theo “Giấy
nhà đất cho con” ngày 20/10/2001 thì bị mẹ ông các anh chị em trong gia
đình cản trở; sự việc đã được Ủy ban nhân n phường N giải quyết nhưng không
thành.
Nay ông khởi kiện yêu cầu Toà xác định “Giấy nđất cho con” ngày
20/10/2001 của cha mẹ ông cùng các anh chị em trong gia đình lập cho ông quyền
sử dụng 24m
2
đất là hợp pháp để ông làm thủ tục cấp GCN theo quy định của pháp
luật và đồng thời yêu cầu mẹ ông cùng các anh chị em là các ông bà N, N1, D, T1,
L, T2 N2 phải chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật khi ông làm thủ tục cấp
GCN.
Bị đơn đồng thời người đại diện theo ủy quyền của bị đơn các ông
Nguyễn Thị C, Trần Thị Bích N1, Trần Trọng T1, Trần Thị Bích L; ông Trần
Thúc D và ông Trần Văn N thống nhất trình bày:
Về quan hệ gia đình, nguồn gốc nhà và đất, giấy nhà đất cho con ngày
20/10/2001, di chúc ngày 15/7/2005, biên bản họp gia đình ngày 16/7/2005, các
ông thống nhất như nội dung trình bày của ông T.
Từ năm 2019 đến nay, mẹ các ông các anh chị em trong gia đình cản
trở ông T làm thủ tục cấp GCN đối với nhà đất được cho theo “Giấy nhà và đất cho
con” ngày 20/10/2001 ông T không trách nhiệm với gia đình, hơn nữa gia
đình không đồng ý để H1 (vợ ông T) cùng đứng tên đăng cấp GCN 24m
2
đất cho ông T cha các ông đã thay đổi ý chí và đã lập lại di chúc chia đều cho các
anh chị em trong gia đình. Hiện nay, phần diện tích đất 24m
2
đã được xác định tại
di chúc ngày 15/7/2005 và biên bản họp gia đình ngày 16/7/2005 8.3 đsử
dụng làm nhà thờ họ. Việc này ông T cũng đồng ý và ký xác nhận.
Đối với yêu cầu khởi kiện của ông T, các ông không đồng ý đồng thời
yêu cầu ông T thực hiện theo di chúc ngày 15/7/2005 và biên bản họp gia đình
ngày 16/7/2005.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Bích T2 ông
Trần Trung N2: Trong quá trình thụ lý, xét xử, T2 ông N2 không đến làm
việc nên Tòa án cấp thẩm không tiến hành lấy lời khai được, đã thực hiện việc
xác minh tại địa phương, tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án dân sthẩm số 189/2024/DS-ST ngày 30 tháng 7 năm 2024,
Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn đã quyết định:
- Bác yêu cầu khởi kiện của ông T không phù hợp theo quy định pháp
luật. Ông T nghĩa vụ giao lại diện tích 24m
2
đã nhận theo giấy nhà đất cho
con ngày 20/10/2001, có tứ cận: Đông giáp nhà ông Nguyễn Ngọc B, Tây giáp nhà
5
ông H2, Nam giáp nhà ông Trần Q, Bắc giáp đường N theo bản đo đạc ngày
28/3/2024 cho ông N quản lý, sử dụng chung.
- Ông N có nghĩa vụ hoàn lại cho ông T số tiền 20.160.000 đồng.
- Ông T được nhận 20.160.000 đồng từ ông N.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về phần án phí dân sự sơ thẩm,
chi phí định giá tài sản, xem xét, thẩm định tại chỗ; quyền, nghĩa vụ thi hành án
quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 12/8/2024, ông T đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa
bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông.
Ngày 13/8/2024, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn Quyết
định kháng nghị phúc thẩm số 03/-VKS-QN vviệc kháng nghị Bản án dân sự
thẩm số 189/2024/DS-ST ngày 30/7/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Quy
Nhơn, yêu cầu hủy bản án thẩm và chuyển hồ vụ án cho Tòa án cấp thẩm
giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng,
bỏ sót người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Bùi Thị H1 (vợ ông T).
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện thay đổi
nội dung kháng cáo là yêu cầu Tòa phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm vì không đưa vợ
ông là bà Bùi Thị H1 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan, đã ảnh hưởng đến quyền lợi của vợ chồng ông và đại diện Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Bình Định giữ nguyên quyết định kháng nghị nêu trên của Viện
kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn.
Tại phiên tòa, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn đề
nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của ông T, hủy bản án
thẩm; trong trường hợp không hủy bản án thẩm thì đề nghị sửa bản án thẩm,
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông T.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình tố tụng,
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của
pháp luật tố tụng; đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xphúc thẩm chấp nhận việc
thay đổi nội dung kháng cáo của ông T chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc
thẩm số 03/QĐ-VKS-QN ngày 13/8/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố
Quy Nhơn, hủy Bản án dân sự sơ thẩm s189/2024/DS-ST ngày 30/7/2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn vì vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, bỏ
sót người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Bùi Thị H1 (vợ ông T).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về sự vắng mặt của các bên đương sự: Ông Trần Văn N đã đơn xin
xét xử vắng mặt. Những người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị
Bích T2 ông Trần Trung N2 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần hai nhưng vắng
6
mặt không lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội
đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người nói trên.
[2] Về quan hệ pháp luật: Theo đơn khởi kiện tại hồ thì nguyên đơn
ông T yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp theo “Giấy nhà
đất cho con” ngày 20/10/2001 và đồng thời yêu cầu các bị đơn phải chấm dứt hành
vi cản trở quyền sử dụng đất tại địa chỉ số C đường N khi nguyên đơn tiến hành
làm thủ tục đề nghị cấp GCN theo quy định. Tòa án cấp thẩm xác định quan hệ
pháp luật “Tranh chấp bảo vquyền sở hữu; chấm dứt nh vi cản trở trái pháp
luật đối với việc thực hiện quyền shữu” không đúng theo yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa lại quan hệ pháp luật “Tranh
chấp quyền sử dụng đất yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất, yêu cầu chấm
dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với quyền sử dụng đất”.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo của ông Trần Trọng T, thấy rằng:
[3.1] Ngày 27/7/2023, Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn nhận được đơn
khởi kiện đề ngày 26/7/2023 của ông T (Bút lục số 21-22), đơn khởi kiện trong hồ
vụ án thể hiện có dấu công văn đến của a án nhân dân thành phố Quy Nhơn
(Số C, ngày: 27/7/2023). Ông T yêu cầu Tòa án công nhận cho ông quyền quản
lý, sử dụng, sở hữu nhà và đất tại địa chỉ C N; buộc các ông bà Câu, N, N1, D, T1,
L chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất tại địa chỉ số C đường N để ông
được thực hiện thủ tục cấp GCN theo quy định. Chánh án Tòa án nhân dân thành
phố Quy Nhơn đã ra Giấy xác nhận đã nhận đơn khởi kiện số 1304/GXN-TA ngày
26/7/2023 đồng thời phân công Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện theo Quyết
định số 1304/QĐ-TA ngày 27/7/2023.
Ngày 14/8/2023, Tòa án nhân n thành phố Quy Nhơn đã ra Thông báo số
1304 về việc trả lại đơn khởi kiện cho ông T với do N1 đang N (có yếu t
nước ngoài) (Bút lục 23).
Tại bản khai đề ngày 11/10/2023, ông T khai N1 đi N thăm con và đã trở
về lại Việt Nam, địa chỉ hiện nay ở số C đường N, thành phố Q (Bút lục 24).
Sau đó, ông T nộp lại đơn khởi kiện Tòa án cấp thẩm đã nhận lại đơn
khởi kiện. Tại bút lục số 43, 44 đơn khởi kiện của ông T (Không đề ngày, chỉ
ghi tháng 7/2023), không có dấu công văn đến của Tòa án nhân dân thành phố Quy
Nhơn. Theo đơn khởi kiện trên, ông T yêu cầu Tòa án công nhận cho ông quyền sử
dụng đất hợp pháp theo giấy nhà và đất cho con đã được khu vực 7 và Ủy ban nhân
dân phường N chứng thực ngày 25/10/2001; buộc các ông C, N, N1, D, T1,
L, T2 N2 chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất tại địa chỉ số C đường N
khi ông tiến hành làm thủ tục đề nghị cấp GCN theo quy định.
Ngày 26/10/2023, Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn ra Thông báo s
24/TB-TA thông báo cho ông T nộp tiền tạm ứng án phí dân sự thẩmsau khi
ông T nộp tiền theo thông báo trên, ngày 30/10/2023, Tòa án nhân n thành phố
Quy Nhơn đã thụ lý vụ án.
7
Như vậy, vụ án thụ theo đơn khởi kiện ghi tháng 7/2023 (Thời gian ghi
trên đơn khởi kiện trước ngày Thẩm phán ra Thông báo trả lại đơn khởi kiện số
1304 ngày 14/8/2023). Theo đơn khởi kiện nêu trên, ông T yêu cầu Tòa án công
nhận cho ông quyền sử dụng đất hợp pháp theo giấy nhà đất cho con đã được
khu vực 7 Ủy ban nhân dân phường N chứng thực ngày 25/10/2001; buộc
các ông C, N, N1, D, T1, L, T2 N2 chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng
đất tại địa chỉ số C đường N khi ông tiến hành làm thủ tục đề nghị cấp GCN. Tòa
án cấp sơ thẩm xác định cách tham gia tố tụng của bà T2 ông N2 là người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án không đúng theo quy định tại Điều 68
của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3.2] Theo đơn khởi kiện nói trên thì ngoài việc khởi kiện yêu cầu công
nhận “Giấy nhà đất cho con” ngày 20/10/2001 hợp pháp yêu cầu chấm dứt
hành vi hành vi cản trở quyền sử dụng đất tại địa chỉ số C đường N khi ông T tiến
hành làm thủ tục đề nghị cấp GCN thì các đương sự còn lại trong vụ án không có
ai yêu cầu phản tố hoặc độc lập nào khác nhưng tại Bản án dân sthẩm số
189/2024/DS-ST ngày 30/7/2024, Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn đã quyết
định “...Anh Trần Trọng T nghĩa vụ giao lại diện tích 24m
2
đã nhận theo giấy
nhà đất cho con ngày 20/10/2001, tứ cận: Đông giáp nhà ông Nguyễn Ngọc
B, Tây giáp nhà ông H2, Nam giáp nhà ông Trần Q, Bắc giáp đường N theo bản đo
đạc ngày 28/3/2024 cho anh Trần Văn N quản lý, sử dụng chung” vượt quá yêu
cầu khởi kiện của ông T.
[3.3] Ông T bà Bùi Thị H1 kết hôn ny 17/6/2003. Mặc dù “Giấy nhà và
đất cho con” ngày 20/10/2001 chỉ cho tên một mình ông T nhưng ông T H1
đã 02 lần nộp đơn và hồ sơ đăng ký cấp GCN đối với diện tích đất đang tranh chấp
đứng tên ông T H1. Bên cạnh đó, từ năm 2007 đến nay, trong thời kỳ hôn
nhân, ông T sử dụng diện tích đất tranh chấp nêu trên để kinh doanh tại phiên
tòa phúc thẩm, ông T khai trong quá trình sử dụng đất, vợ chồng ông đã dùng tiền
chung của vợ chồng để làm mái n, công trình phụ để phục vụ việc kinh doanh,
làm kinh tế cho gia đình ông nên ông T và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của ông đề nghị Tòa án phải đưa H1 vào tham gia tố tụng trong vụ án với
cách người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mới đảm bảo quyền lợi của vợ
chồng ông T. Căn cứ khoản 4 Điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì cần phải đưa
Bùi Thị H1 vào tham gia tố tụng với cách người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong vụ án mới đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bà H1.
Từ những phân tích trên, xét thấy Tòa án cấp thẩm đã vi phạm thủ tục tố
tụng tại phiên tòa phúc thẩm không thể bổ sung được. Do đó, Hội đồng xét xử
phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông T, chấp nhận Quyết định kháng
nghị phúc thẩm số 03/QĐ-VKS-QN ngày 13/8/2024 của Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Quy Nhơn; căn cứ vào Điều 310 của Bộ luật Tố tụng dân sự, hủy toàn
bộ Bản án dân sự sơ thẩm s189/2024/DS-ST ngày 30/7/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Quy Nhơn; chuyển toàn bộ hồ sơ ván cho a án nhân dân thành
phố Quy Nhơn giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật.
8
[4] Khi giải quyết lại vụ án Tòa án cấp thẩm cần xem xét đánh giá tính
hợp pháp của “Giấy nhà đất cho con” ngày 20/10/2001, Bản di chúc ngày
15/7/2005 Biên bản cuộc họp gia đình ngày 16/7/2005 đđảm bảo quyền lợi
của các bên đương sự.
[5] Về án phí dân sthẩm chi phí tố tụng được xác định lại khi giải
quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Theo quy định tại khoản 3 Điều 29 của
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sdụng án phí lệ
phí Tòa án thì ông T không phải chịu. Hoàn trả lại cho ông T 300.000 đồng tiền
tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0000310 ngày 20/8/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự thành phố Quy Nhơn.
[7] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định phát biểu ý kiến về việc
giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận nội dung kháng cáo
của ông T; chấp nhận nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành ph
Quy Nhơn, hủy toàn bộ Bản án dân sự thẩm số 189/2024/DS-ST ngày
30/7/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn, chuyển toàn bhồ sơ ván
cho Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn giải quyết lại theo đúng quy định của
pháp luật là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
[8] Tại phiên tòa, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn
đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của ông T, hủy bản án sơ
thẩm; trong trường hợp không hủy bản án thẩm thì đề nghị sửa bản án sơ thẩm,
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông T là phù hợp với một phần nhận định
của Hội đồng xét xử phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308 và Điều 310 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Căn cứ khoản 3 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.
1. Hủy toàn bộ Bản án dân sự thẩm số 189/2024/DS-ST ngày 30/7/2024
của Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định đã xét xử về tranh chấp
quyền sử dụng đất yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất, yêu cầu chấm dứt
hành vi cản trở trái pháp luật đối với quyền sử dụng đất; giữa nguyên đơn ông
Trần Trọng T với bị đơn các ông Nguyễn Thị C, Trần Thúc D, Trần Văn N,
Trần Thị Bích N1, Trần Trọng T1, Trần Thị Bích L và người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Bích T2, ông Trần Trung N2.
2. Chuyển toàn bộ hồ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn,
tỉnh Bình Định giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
9
3. Về án phí dân sự thẩm chi phí tố tụng được xác định lại khi giải
quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
4. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Trần Trọng T không phải chịu. Hoàn trả
lại cho ông T 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0000310
ngày 20/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình
Định.
5 . Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Định (1);
- Tòa án nhân dân TP.Quy Nhơn (1);
- Chi cục THADS TP.Quy Nhơn (1);
- Các đương sự (8);
- Lưu: HCTP, Tòa Dân sự, hồ sơ vụ án (3).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Đỗ Thị Thắm
Tải về
Bản án số 11/2025/DS-PT Bản án số 11/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 11/2025/DS-PT Bản án số 11/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất