Bản án số 102/2025/DS ngày 24/03/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng mượn tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 102/2025/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 102/2025/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 102/2025/DS
Tên Bản án: | Bản án số 102/2025/DS ngày 24/03/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng mượn tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng mượn tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 102/2025/DS |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Công ty N. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 10 tháng 4 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 102/2025/DS - PT
Ngày 24/3/2025
V/v: “Tranh chấp yêu cầu trả nợ
từ thực hiện hợp đồng”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Ông Phạm Ngọc Thái
Các Thẩm phán:
Ông Phạm Văn Hợp
Bà Trần Thị Kim Liên
- Thư ký phiên tòa: Bà Văn Thị Mỹ Thảo, Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao
tại Đà Nẵng
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên tòa:
Ông Đoàn Minh Lộc, Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 107/2024/TLPT- DS ngày 21
tháng 6 năm 2024 về việc: “Tranh chấp yêu cầu trả nợ từ thực hiện hợp đồng”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 10 tháng 4 năm 2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 652/2025/QĐ-PT ngày 04 tháng 3
năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty H1 Tập đoàn X (gọi tắt là Công ty Q); địa chỉ: Tầng
B Tòa B, Tòa nhà X, số A, đại lộ B, khu L, thành phố N (Trung Quốc).
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đường Nông S - Chủ tịch Hội đồng thành
viên.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Khải H; địa chỉ: E Chung cư N,
thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.
2
- Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N nay đổi tên là Công
ty cổ phần N (gọi tắt là Công ty N); địa chỉ: E T, phường C, thị xã A, tỉnh Gia Lai.
Người đại diện: Bà Vũ Thị L - Chủ tịch Hội đồng quản trị. Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn:
+ Ông Phạm Đăng Ngọc D; địa chỉ: 4 Q, phường A, quận G, thành phố Hồ
Chí Minh. Có mặt.
+ Bà Lê Khánh L1; địa chỉ: C Hồ B, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng.
Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Bà Huỳnh Phan Thiên P, Luật sư
Công ty L2, Đoàn luật sư thành phố Đ; địa chỉ: C Hồ B, phường H, quận H, thành
phố Đà Nẵng. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
I. Theo các tài liệu có tại hồ sơ vụ án, các đương sự trình bày như sau:
1. Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông
Phạm Khải H
trình
bày:
Yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai giải quyết, buộc Công ty N trả cho
Công ty Q số tiền bảo lãnh 5% là 153.820,80 USD của hợp đồng số
004/2014/HĐ/GTC-QT
Ngày 07/3/2014 thực hiện (Gói thầu EPC) về “Khảo sát,
thiết kế, chế tạo, cung cấp, xây lắp và lắp đặt đồng bộ, hướng dẫn kỹ thuật và chuyển
giao công nghệ Hệ thống Turbine - Máy phát điện 22.6MW - 6,3kV ; và số tiền chi
phí nhân công lắp đặt 26.800 USD của Hợp đồng số 01-2015/HĐSC ngày 27/7/2015
về sửa chữa Turbine máy phát 22.6MW - 6,3KV. Tổng số tiền quy ra tiền Việt Nam
đồng theo tỷ giá 01 USD = 24.120 VNĐ tương đương với 4.356.573.696 VNĐ. Với
lý do như sau:
1.1. Đối với Yêu cầu hoàn trả tiền bảo lãnh 5% giá trị của hợp đồng số
004/2014/HĐ/GTC-QT ngày 07/3/2014 với số tiền 153.820,80 USD:
Ngày 07/3/2014, Công ty Q và Công ty N ký kết hợp đồng số
004/2014/HĐ/GTC-QT thực hiện Gói thầu (gói thầu EPC) về “Khảo sát, thiết kế,
chế tạo, cung cấp, xây lắp và lắp đặt đồng bộ, hướng dẫn kỹ thuật và chuyển giao
công nghệ cho Hệ thống Turbine - Máy phát điện 22.6MW - 6,3kV với giá trị hợp
đồng là 3.076.416 USD.
Công ty Q đã thi công hoàn tất các công việc, đúng chất lượng, các bên đã ký
biên bản nghiệm thu, bàn giao. Công ty N đã xác nhận việc hoàn thành nói trên:
3
“Chất lượng hạng mục công trình: Đ yêu cầu so với hồ sơ thiết kế được duyệt” và
đưa vào sử dụng ngày 15/02/2015.
Nhưng chưa đầy hai tháng hoạt động, hệ thống Turbine máy phát điện
22.6MW phải dừng hoạt động. Công ty N cho rằng T máy phát điện 22.6Mw gặp
vấn đề về chất lượng và từ chối thực hiện nghĩa vụ hoàn trả tiền bảo lãnh 5% giá trị
Hợp đồng số 004/2014/HĐ/GTC-QT ngày 07/3/2014 là không đúng.
Công ty Q cho rằng: Nguyên nhân là do sau khi bàn giao đưa vào sử dụng
Công ty N đã tự ý thiết kế một đường ống hơi thứ từ turbine sang khu chế luyện. Khi
dừng lò hơi để sửa chữa băng tải, nhân viên vận hành đã không đóng van này lại nên
khi khởi động và vận hành trở lại, nước từ đường ống này dội ngược vào turbine gây
nên thủy kích và dẫn đến hư hỏng turbine (Đính kèm công văn số 61/2015/CV-GTC
ngày 05/5/2015 của Công ty N thông báo tình hình hoạt động của Turbine 22.6Mw).
Lỗi hoàn toàn thuộc về Công ty cổ phần N. Do đó đề nghị Tòa án buộc Công ty N
phải thanh toán cho Công ty Q số tiền bảo lãnh 5% của hợp đồng số
004/2014/HĐ/GTC-QT Ngày 07/3/2014 là 153.820,80 USD. Quy ra tiền đồng Việt
Nam tại thời điểm xét xử lần 1 ngày 26/2/2024 theo tỷ giá 01 USD = 24.810 VNĐ
hoặc theo tỷ giá thời điểm xét xử hiện tại ngày 10/4/2024.
1.2. Đối với yêu cầu thanh toán chi phí nhân công 26.800 USD tại Hợp đồng
sửa chữa số 01-2015/HĐSC ngày 27/7/2015.
Sau khi T2 22.6 Mw gặp sự cố nêu trên. Ngày 22/06/2015, Công ty N và công
ty Q đã lập biên bản họp xử lý. Tại biên bản này, các bên đã xác nhận nguyên nhân
là do lỗi thiếu kinh nghiệm vận hành hệ thống Turbine. Để duy trì hợp tác lâu dài,
Công ty N đã đề nghị công ty Q phối hợp sửa chữa để kịp mùa vụ mới 2015/2016.
Chính vì vậy, ngày 27/7/2015, các bên thống nhất ký kết Hợp đồng số 01-
2015/HĐSC sữa chữa Turbine - Máy phát điện 22.6MW - 6,3kV với nội dung:
1. Công ty G (Công ty Q1) chịu trách nhiệm tư vấn và thực hiện công tác sửa
chữa.
2. Công ty trách nhiệm hữu hạn H1 Tập đoàn X: Nhà thầu chịu trách nhiệm
công tác lắp đặt, chạy nghiệm thu (phối hợp với Công ty G).
3. Công ty N: Chủ đầu tư, chịu trách nhiệm thanh toán chi phí sửa chữa.
Giá trị hợp đồng sửa chữa dự kiến là 180.807 USD. Trong đó chi phí nhân
công phục vụ cho việc lắp đặt (theo Biên bản nghiệm thu số 01/NTHTLĐ Ngày
03/02/2016 là 26.800 USD). Nhưng đến nay Công ty N không trả. Do đó đề nghị
Tòa án buộc Công ty N phải thanh toán cho Công ty Q số tiền chi phí nhân công còn
nợ nêu trên. Quy ra tiền đồng Việt Nam tại thời điểm xét xử lần 1 ngày 26/2/2024
4
theo tỷ giá 01 USD = 24.810 VNĐ hoặc theo tỷ giá thời điểm xét xử hiện tại ngày
10/4/2024.
1.3. Đối với ý kiến của bị đơn cho rằng thời hiệu khởi kiện đã hết và đề nghị
Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai ra quyết định đình chỉ toàn bộ vụ án.
Chúng tôi đã nhiều lần gửi văn bản, đơn thư để hai bên tìm được sự đồng nhất
trong các phương án giải quyết. Ngày 21/12/2017 công ty Q đã nhận được thư điện
tử của người đại diện theo pháp luật của Công ty N do ông Hoàng Trọng T1 xác
nhận nghĩa vụ thanh toán và Công ty N cũng gửi công văn yêu cầu xác nhận khoản
tiền nợ nêu trên khi kiểm toán tài chính năm 2017 (đính kèm Công văn). Ngày
11/7/2018, công ty Q khởi kiện vụ án tại Tòa là trong thời hạn.
2. Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là bà
Võ Thị Tuyết O
trình
bày:
2.1. Về thời hiệu khởi kiện:
- Đối với thời hiệu yêu cầu hoàn trả tiền bảo lãnh 5% giá trị 153.820,80 USD
của hợp đồng số 004/2014/HĐ/GTC-QT ngày 07/3/2014.
Ngày mà Công ty Q biết quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm là ngày mà
Công ty Q nhận được thông báo của Ngân hàng C (G) về việc Công ty N yêu cầu trừ
tiền bảo lãnh 5%. Theo hồ sơ đính kèm Đơn khởi kiện của Công ty Q, thì ngày này
là ngày 26/5/2016. Với thời hiệu khởi kiện là 2 năm, thì đến 00 giờ ngày 25/5/2018
thời hiệu khởi kiện kết thúc. Nhưng theo dấu Công văn đến của Tòa án nhân dân
tỉnh Gia Lai đóng trên Đơn khởi kiện của Công ty Q là ngày 22/10/2018. Như vậy
Công ty Q khởi kiện quá hạn luật định .
- Đối với thời hiệu yêu cầu thanh toán chi phí nhân công 26.800 USD tại Hợp
đồng sửa chữa số 01-2015/HĐSC ngày 27/7/2015:
Ngày mà Công Ty Q biết quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm là ngày mà
Công ty Q biết mình được thanh toán. Cụ thể là ngày 03/02/2016 nghiệm thu đưa
thiết bị vào vận hành. Theo thỏa thuận thì chi phí nhân công được thanh toán trong
vòng 14 ngày kể từ ngày nghiệm thu. Vậy ngày thanh toán là ngày 17/02/2016.
Với thời hiệu khởi kiện là 02 năm, thì đến 00 giờ ngày 16/02/2018 là thời điểm
kết thúc. Trong khi đó, ngày khởi kiện theo dấu Công văn đến của Tòa án nhân dân
tỉnh Gia Lai đóng trên Đơn khởi kiện của Công ty Q là ngày 22/10/2018. (do trên
Đơn khởi kiện không đề ngày khởi kiện và cũng không có chứng từ chứng minh
ngày gửi Đơn khởi kiện theo dấu bưu chính).
5
Như vậy thời hiệu khởi kiện đòi chi phí nhân công đã hết. Đề nghị Tòa án
nhân dân tỉnh Gia Lai căn cứ quy định tại điểm e, khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng
dân sự 2015 đình chỉ toàn bộ vụ án.
2.2. Về yêu cầu trả số tiền bảo lãnh 5% giá trị 153.820,80 USD
của hợp
đồng số 004/2014/HĐ/GTC-QT ngày 07/3/2014, và chi phí nhân công 26.800 USD
của Hợp đồng sửa chữa số 01-2015/HĐSC ngày 27/7/2015.
- Đối với yêu cầu trả tiền bảo lãnh
của hợp đồng số 004/2014/HĐ/GTC-QT:
Mặc dù ngày 15/02/2015,
Công ty N và Công ty Q ký Biên bản nghiệm thu
hoàn thành và bàn giao đưa vào sử dụng. Công ty N đã hoàn tất thanh toán toàn bộ
giá trị Hợp đồng số 004/2014/HĐ/GTC-QT cho Công ty Q với giá trị là 3.076.416
USD (Đính kèm chứng từ thanh toán).
Tuy nhiên, chỉ sau chưa đầy hai tháng hoạt động đến ngày 14/4/2015, hệ thống
Turbine máy phát điện 22.6Mw gặp vấn đề về chất lượng phát sinh sự cố hệ thống
băng tải cấp bã cho hơi dẫn đến phải dừng toàn bộ lò hơi 115T/h và Turbine máy
phát điện T2. Sau khi khởi động lại Turbine, thì xảy ra thủy kích ở đường ống hơi
thải T, gây rung giật mạnh hệ thống Turbine máy phát, nhà xưởng, gây kẹt van trên
đường ống hơi thải T, công suất phát đạt 13Mw, độ rung (> 7mm/s) và quá nhiệt độ
của gối đỡ T (>102
o
C) và trip hệ thống nên phải dừng hoạt động.
Công ty N đã thông báo cho Công ty Q. Ngày 15,16/4/2015, chuyên gia
Turbine của Công ty Q đã đến nhà máy hỗ trợ kiểm tra, chạy thử hệ thống, kết quả
chỉ đạt công suất 13Mw là B do độ rung và nhiệt độ gối đỡ tăng cao. Các bên thống
nhất theo khuyến cáo của chuyên gia của Công ty Q là “cho thiết bị hoạt động ở mức
công suất 10Mw và khẳng định thiết bị vẫn an toàn ở mức công suất này; Sau khi
hết vụ ép, phía nhà thầu và nhà chế tạo sẽ cử chuyên gia cùng thiết bị cân bằng sang
kiểm tra, hiệu chỉnh Turbine”. Nhưng đến 23h ngày 04/05/2015, thiết bị đang hoạt
động ở công suất 9,5Mw, tần số lưới điện giảm xuống thấp 49Hz và hệ thống đột
ngột tăng công suất lên đến 11Mw, nhiệt độ gối đỡ Turbine lên 110
0
C và hệ thống
B buộc phải hạ lò và dừng toàn bộ hệ thống Turbine máy phát 22.6Mw.
Ngày 05/05/2015, GTC phát hành công văn số 61/2015/CV-GTC thông báo
tình hình hoạt động của Turbine 22.6MW như đã nêu và yêu cầu Công ty Q nhanh
chóng cử chuyên gia đến kiểm tra và khắc phục để đưa hệ thống vào hoạt động.
Ngày 22/06/2015, các bên tổ chức họp để giải quyết và lập thành Biên bản (đính
kèm) kết luận các bên thống nhất nhanh chóng xác định hư hại và tiến hành khắc
phục để kịp mùa vụ sản xuất, các bên không kết luận nguyên nhân xảy ra sự cố hệ
thống Turbine là do lỗi thiếu kinh nghiệm vận hành hệ thống Turbine của GTC.
6
Ngày 09 và ngày 10/07/2015, các bên tiếp tục họp để giải quyết. Trong các
lần họp này, Công ty Q đều đề nghị phía Công ty N phải chấp nhận lỗi dẫn đến sự
cố đối với hệ thống Turbibe thì mới tiến hành sửa chữa. Do vào thời điểm đó, công
tác sửa chữa cần phải đặt lên hàng đầu để kịp mùa vụ ép mía cho nông dân, nên phía
Công ty Q mới ép buộc Công ty N phải nhận lỗi để thoái thác trách nhiệm bảo hành.
Thời gian bảo hành tại Điều 17.2b Hợp đồng số 004/HĐ/GTC-QT và Điều 10
Hợp đồng số 01-2015/HĐSC là “36 tháng kể từ ngày hoàn tất nghiệm thu, bàn giao
đưa vào sử dụng toàn bộ công trình”. Sau nhiều văn bản Công ty N yêu cầu Công
ty Q khắc phục để Turbine hoạt động đạt công suất theo hợp đồng nhưng Công ty Q
vẫn không khắc phục. Turbine đã bị hư hỏng được tháo dỡ ra từ năm 2015 thành
nhiều bộ phận để riêng lẻ, một số linh kiện đã rỉ sét không còn sử dụng, đã thay thế
bằng Turbine khác.
Công ty Q không hoàn thành nghĩa vụ bảo hành nên không có cơ sở để yêu
cầu Công ty N hoàn trả lại tiền bảo lãnh.
- Đối với yêu cầu trả tiền chi phí nhân công
của Hợp đồng sửa chữa số 01-
2015/HĐSC:
Sau khi thực hiện sửa chữa theo Hợp đồng số 01-2015/HĐSC, Turbine vẫn
hoạt động không đạt công suất theo yêu cầu của Hợp đồng số 004/2014/HĐ/GTC-
QT, vì vậy Turbine sau sửa chữa vẫn không được nghiệm thu hoàn thành (ghi nhận
tại Biên bản hiện trường ngày 04/12/2015).
Công ty N liên tiếp phát hành văn bản,
trao đổi để yêu cầu Công ty Q, Công ty Q1 thực hiện khắc phục.
Ngày 03/02/2016, Công ty N và Công Ty Q có lập Biên bản số 01/NTHTLĐ
về việc nghiệm thu hoàn thành lắp đặt Turbine máy phát 22.6MW – 6.3KV với chi
phí nhân công là 26.800USD do thực tế Công ty Q đã hoàn tất việc lắp đặt T nhưng
do T chạy thử không đạt công suất, nên không được nghiệm thu hoàn thành sửa
chữa. Đối tượng nghiệm thu theo Biên bản này chỉ bao gồm nghiệm thu công việc
lắp đặt, không bao gồm công tác nghiệm thu hoàn thành toàn bộ công tác sửa chữa
Turbine. Nội dung nghiệm thu này được hiểu là nghiệm thu hoàn thành việc sửa
chữa theo Hợp đồng số 01-2015/HĐSC GTC. Tuy nhiên, do T sau sửa chữa hoạt
động không đạt công suất 22.6Mw theo yêu cầu nên không được nghiệm thu (toàn
bộ hồ sơ vụ việc không có văn bản nào thể hiện Công ty N chấp nhận nghiệm thu
hoàn thành sửa chữa và bàn giao Turbine sau sửa chữa). Do đó, Công Ty Q không
được thanh toán chi phí nhân công lắp đặt.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 10 tháng 4 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai quyết định:
7
-
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; khoản 3 Điều 35; và các Điều 37; 39; 469; 479
của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ các Điều 274; 275; 280 Bộ luật dân sự.
- Căn cứ khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 quy định
về án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty H1 Tập đoàn xây dựng công
trình Q:
Buộc Công ty cổ phần N trả cho Công ty H1 Tập đoàn xây dựng công trình Q
số tiền bảo lãnh
5% của hợp đồng số 004/2014/HĐ/GTC-QT ngày 07/3/2014 là
153.820,80 USD và số tiền chi phí nhân công lắp đặt của hợp đồng số 01-
2015/HĐSC ngày 27/7/2015 là 26.800 USD. Tổng cộng 180.620.80 USD quy đổi ra
tiền đồng Việt Nam là 4.486.620.672 đồng.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng, thi hành án
và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Trong thời hạn luật định, ngày 23/4/2024 bị đơn Công ty cổ phần N có Đơn
kháng cáo, với nội dung cho rằng bản án sơ thẩm đã xét xử đối với vụ án trên như
vậy là không đúng pháp luật, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm, theo
hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm: nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, các đương sự
không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án. Bị đơn giữ nguyên
yêu cầu kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty H1 Tập đoàn X buộc Công ty cổ phần N
trả cho Công ty H1 Tập đoàn xây dựng công trình Q số tiền bảo lãnh
5% của hợp
đồng số 004/2014/HĐ/GTC-QT ngày 07/3/2014 là 153.820,80 USD. Đồng thời xin
rút một phần nội dung kháng cáo đối với yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn về thanh
toán chi phí nhân công 26.800 USD tại Hợp đồng sửa chữa số 01-2015/HĐSC ngày
27/7/2015.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét
xử chấp nhận việc rút kháng cáo đối với yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn về thanh
toán chi phí nhân công 26.800 USD tại Hợp đồng sửa chữa số 01-2015/HĐSC ngày
27/7/2015 và đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo nêu trên. Đồng
thời có quan điểm Tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết vụ án đúng pháp luật. Bị đơn
kháng cáo nhưng không cung cấp được thêm tài liệu, chứng cứ mới để chứng minh
8
cho các yêu cầu kháng cáo của mình là đúng nên đề nghị không chấp nhận kháng
cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; ý kiến trình
bày, tranh luận của các đương sự, người đại diện theo ủy quyền và người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự; ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc
tuân theo pháp luật ở giai đoạn xét xử phúc thẩm và quan điểm của Viện kiểm sát về
giải quyết vụ án; sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định về các nội
dung kháng cáo như sau:
[1] Xét kháng cáo của bị đơn là Công ty N thì thấy;
[2]. Về tố tụng:
- Kháng cáo của bị đơn là Công ty N là hợp lệ, trong thời hạn pháp luật quy
định nên được Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành giải quyết vụ án theo trình
tự thủ tục phúc thẩm. Đối với các đương sự vắng mặt tại phiên toà: Các đương sự
vắng mặt tại phiên toà đã có ý kiến trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và có
đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ các Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội
đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.
- Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn phải thanh
toán chi phí nhân công 26.800 USD tại Hợp đồng sửa chữa số 01-2015/HĐSC ngày
27/7/2015 thì
thấy, bản án sơ thẩm đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công
ty H1 Tập đoàn xây dựng công trình Q. Trong đó buộc Công ty cổ phần N trả cho
Công ty H1 Tập đoàn xây dựng công trình Q số tiền là 26.800 USD.
Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn Công ty N xin rút yêu cầu kháng
cáo về việc đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty H1 Tập đoàn X buộc Công ty cổ phần N trả
số tiền chi phí nhân công 26.800 USD của Hợp đồng sửa chữa số 01-2015/HĐSC
ngày 27/7/2015. Hội đồng xét xử xét thấy việc rút kháng cáo của Công ty cổ phần N
là tự nguyện nên chấp nhận; do đó chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và căn cứ điểm c khoản 1, 3 Điều 289 Bộ luật tố tụng
dân sự: Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo trên.
[3]. Về nội dung vụ án:
[3.1] Nguyên đơn và bị đơn ký Hợp đồng số 004/2014/HĐ/GTC-QT
ngày
07/3/2014 thực hiện gói thầu EPC về “Khảo sát, thiết kế, chế tạo, cung cấp, xây lắp
và lắp đặt …hệ thống Turbine - Máy phát điện 22.6MW - 6,3kV và ký Hợp đồng
9
sửa chữa số 01-2015/HĐSC ngày 27/7/2015 về sửa chữa lắp đặt hệ thống Turbine -
Máy phát điện 22.6MW - 6,3kV. Sau khi thực hiện xong các hợp đồng các bên lập
Biên bản nghiệm thu hoàn thành chất lượng và đưa vào sử dụng. Nguyên đơn khởi
kiện yêu cầu bị đơn trả các khoản khoản nợ chưa thanh toán gồm: Khoản nợ 5% số
tiền bảo lãnh của hợp đồng số 004/2014/HĐ/GTC-QT
là 153.820,80 USD; và tiền
chi phí nhân công 26.800 USD. Tổng cộng là 180.620.80 USD
,
quy ra tiền đồng
Việt nam.
Nguyên đơn Công ty Q cho rằng sau khi nghiệm thu các bên kết luận Turbine
- Máy phát điện 22.6MW - 6,3kV bảo đảm chất lượng hoạt động theo đúng hợp đồng
yêu cầu. Nhưng quá trình vận hành Công ty N đã tự ý thiết kế một đường ống hơi
thứ từ T - Máy phát điện 22.6MW - 6,3kV sang khu chế luyện. Khi dừng lò hơi để
sửa chữa băng tải, nhân viên vận hành đã không đóng van này lại nên khi khởi động
và vận hành trở lại, nước từ đường ống này dội ngược vào Turbine gây nên thủy kích
và dẫn đến hư hỏng, lỗi thuộc về Công ty N; còn Công ty N cho rằng sau khi nghiệm
thu đưa vào hoạt động chưa đầy hai tháng đến ngày 14/4/2015, hệ thống Turbine -
Máy phát điện 22.6MW - 6,3kV gặp vấn đề về chất lượng nên phải dừng hoạt động,
lỗi thuộc về Công ty Q.
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ do các bên đương sự cung cấp và do Tòa án
cấp sơ thẩm thu thập có trong hồ sơ vụ án thì thấy: các bên đương sự không cung
cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh về nguyên nhân hư hỏng Turbine. Mặt khác
trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn và bị đơn đều không yêu cầu giám định;
bị đơn xác định hiện T đã bị hư hỏng được tháo dỡ ra từ năm 2015, thành nhiều bộ
phận để riêng lẻ, có những bộ phận đã bị rỉ sét, đã thay thế bằng Turbine khác. Ngày
19-03-2024 Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành xem xét tại chỗ đối với T và đã lập biên
bản về tình trạng của T thể hiện “Có 01 Turbine - Máy phát điện 22.6MW - 6,3kV
được tháo rời từ cuối năm 2015 đưa đi sửa chữa theo Hợp đồng số 01, sau khi sửa
xong về lắp đặt hoạt động lại nhưng không đạt công suất yêu cầu nên năm 2017 tháo
dỡ toàn bộ, hiện T đang được lưu giữ tại kho của công ty cổ phần N cho đến nay.
Qua kiểm tra thực tế T hiện được tháo rời thành nhiều bộ phận riêng lẻ bỏ
tách rời nhiều nơi khác nhau (trong đó có 01 bộ phận chính được để trong thùng gỗ
ép bị mục), có những bộ phận bị hoen rỉ không xác định được nguyên trạng.”. Do
đó, bản án sơ thẩm đã có nhận định: không thể tiến hành giám định được, mà cần
căn cứ các tài liệu do các bên cung cấp có trong hồ sơ để làm căn cứ giải quyết vụ
án là đúng pháp luật.
10
[3.2] Đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn về việc đề nghị Tòa án cấp phúc
thẩm sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công
ty Q buộc Công ty N trả số tiền bảo lãnh 5% giá trị hợp đồng số 004/2014/HĐ/GTC-
QT ngày 07/3/2014 là 153.820,80 USD quy ra tiền đồng Việt Nam thì thấy;
Ngày 07/3/2014, Công ty Q và Công ty N ký kết hợp đồng số
004/2014/HĐ/GTC-QT về thực hiện Gói thầu (gói thầu EPC): “Khảo sát, thiết kế,
chế tạo, cung cấp, xây lắp và lắp đặt đồng bộ, hướng dẫn kỹ thuật và chuyển giao
công nghệ cho đến khi nghiệm thu bàn giao đưa vào sử dụng Hệ thống Turbine -
Máy phát điện 22.6MW - 6,3kV với giá trị hợp đồng là 3.076.416 USD. Theo hợp
đồng thì thời gian bảo hành là 3 năm.
Công ty Q đã thi công hoàn tất các công việc theo Hợp đồng. Các bên đã lập
các biên bản nghiệm thu hoàn thành chất lượng công trình và đã đưa vào sử dụng từ
ngày 15/02/2015. Nhưng sau khi nghiệm thu đưa vào vận hành được hơn 2 tháng thì
T bị hư hỏng. Công ty Q cho rằng sau khi bàn giao đưa vào sử dụng Công ty N đã
tự ý thiết kế một đường ống hơi thứ từ Turbine sang khu chế luyện. Khi dừng lò hơi
để sửa chữa băng tải, nhân viên vận hành đã không đóng van này lại nên khi khởi
động và vận hành trở lại, nước từ đường ống này dội ngược vào Turbine gây nên
thủy kích và dẫn đến hư hỏng Turbine nên yêu cầu Công ty N thanh toán số tiền bảo
lãnh 5%. Công ty N thì cho rằng T máy phát điện 22.6Mw gặp vấn đề về chất lượng
và đã nhiều lần có các văn bản như Công văn số 61/2015/CV-GTC ngày 05/5/2015
mời chuyên gia và yêu cầu Công ty Q sửa chữa khắc phục nhưng vẫn không thực
hiện. Công ty Q không thực hiện bảo hành theo thỏa thuận nên Công ty N không
chấp nhận yêu cầu hoàn trả tiền bảo lãnh 5% giá trị Hợp đồng. Ngoài các ý kiến trên,
cả nguyên đơn và bị đơn đều không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì khác để làm
căn cứ chứng minh nguyên nhân T2 gặp sự cố.
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ là các Biên bản nghiệm thu hoàn thành chạy
sa thải 100% công suất lò hơi..; turbine máy phát 22.6MW; Biên bản nghiệm thu
vận hành có tải 72 giờ liên tục; Biên bản nghiệm thu hoàn thành và bàn giao đưa vào
sử dụng ngày 15/02/2015; Biên bản đào tạo vận hành ngày 18/3/2015; Biên bản bàn
giao hồ sơ chuyển giao công nghệ ngày 18/3/2015, 25/3/2015, 27/3/2015 và Biên
bản bàn giao hồ sơ hoàn công ngày 16/6/2015;…. thì thấy Công ty N cũng đã xác
nhận “Chất lượng hạng mục công trình đạt yêu cầu so với hồ sơ thiết kế được duyệt”.
Như vậy Công ty Q đã thi công hoàn thành các công việc theo Hợp đồng.
Như vậy, sau khi nghiệm thu đi vào hoạt động nếu Công ty Q có lỗi về chất
lượng Turbine hoạt động không bảo đảm thì lẽ ra Công ty N phải có văn bản nêu rõ
11
nguyên nhân lý do để yêu cầu Công ty Q sửa chữa bảo hành, và nếu không thì sẽ
không hoàn trả số tiền 5% bảo lãnh, nhưng Công ty N không yêu cầu bảo hành mà
tiếp tục ký hợp đồng độc lập về sữa chữa Turbine số
01-2015/HĐSC ngày 27/7/2015
với bên B công ty Q và bên C công ty Q1 để sửa chữa T - Máy phát điện 22.6MW -
6,3kV. Theo đó, tại Điều 1 của Hợp đồng các bên cũng chỉ thỏa thuận:“Toàn bộ
công tác sửa chữa bên C chịu trách nhiệm tư vấn và thực hiện; toàn bộ công tác lắp
đặt, chạy nghiệm thu sẽ do bên B (phối hợp với bên C); Bên A có trách nhiệm thanh
toán chi phí sửa chữa… lắp đặt theo quy định của Hợp đồng”; Tại điểm Điều 4.1
(b), “Chi phí nhân công phục vụ cho việc lắp đặt dự kiến 16.500USD, vận chuyển,
hải quan 16.400USD”; Tại Điều 5 các bên còn thống nhất“ Bên A thực hiện thanh
toán cho bên B chi phí nhân công lắp đặt quy định tại Điều 4.1 (b) trong vòng 14
ngày kể từ ngày hoàn thành nghiệm thu”.
Theo nội dung thỏa thuận trên thì Hợp đồng này các bên không đề cập nội
dung nào liên quan đến nghĩa vụ bảo hành sửa chữa Turbine của Công ty Q; Công
ty Q chỉ thực hiện phần việc lắp đặt (không thực hiện việc sửa chữa), việc sửa chữa
T thuộc trách nhiện bên C là công ty Q1; mặt khác toàn bộ chi phí sửa chữa trong
hợp đồng cũng không đề cập đến việc cấn trừ vào số tiền bảo lãnh 5% của Công ty
Q tại Hợp đồng số 004/2014/HĐ/GTC-QT ngày 07/3/2014.
Tại Công văn số 61/2015/CV-GTC ngày 05/5/2015 của Công ty N về
“Thông
báo tình hình hoạt động của
T
”
có thể hiện nội dung: “Ngày 14/4/2015 xuất phát
từ sự cố hệ thống băng tải cấp bã cho lò hơi phải dừng toàn bộ lò hơi 155T/h và
Turbine máy phát điện 22.6MW. Sau đó khi cấp hơi khởi động lại T thì xảy ra thủy
kích ở đường ống hơi thải Turbine do nước giảm còn đọng nhiều trong đường ống
gây rung giật mạnh đến hệ thống Turbine máy phát, giật nhà xưởng, gây kẹt van
trên đường ống hơi thải T. Nhân viên vận hành ngừng hoạt động xả đọng hết nước
trong đường ống, xử lý van hơi bị kẹt và tiếp tục khởi động lại công suất phát đạt
13MW… Đêm ngày 04/5/2015 lúc 23h thiết bị đang hoạt động công suất 9.5MW,
tần suất lưới điện giảm xuống thấp 49Hz hệ thống đột ngột tăng công suất 11MW,
nhiệt độ gối đỡ Turbine tăng 110
o
c và hệ thống tác động trip…khởi động lại không
được cho hạ lò và dừng hệ thống Turbine…”; và tại Biên bản cuộc họp ngày
22/6/2015 giữa các bên một đại diện của Công ty cổ phần N cũng cho rằng “Việc T3
gặp sự cố có nhiều nguyên nhân, trong đó có yếu tố thiếu kinh nghiệm vận hành hệ
thống Lò hơi & Turbine cao áp” (BL 387, 470).
Do đó, bản án sơ thẩm đã xác định lỗi dẫn đến sự cố hư hỏng đối với hệ thống
Turbine là do thiếu kinh nghiệm vận hành từ phía Công ty N, không thuộc lỗi phải
12
bảo hành của Công ty Q nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Q buộc Công
ty N hoàn trả tiền bảo lãnh 5% của hợp đồng số 004/2014/HĐ/GTC-QT ngày
07/3/2014 với số tiền 153.820,80 USD quy đổi ra đồng Việt Nam là có căn cứ.
[4] Từ những nhận định trên xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty H1 Tập đoàn xây dựng công trình Q là đúng pháp
luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được thêm
tài liệu, chứng cứ mới nào khác để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình là
có căn cứ nên không được chấp nhận; do đó Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm
đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng không chấp nhận
kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[5]
Do người kháng cáo là bị đơn Công ty N không được chấp nhận kháng cáo
nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
[6]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Công ty N. Giữ nguyên
Bản án dân
sự sơ thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 10 tháng 4 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh
Gia Lai.
- Căn cứ điểm c khoản 1, 3 Điều 289 Bộ luật tố tụng dân sự.
Đình chỉ xét xử phúc thẩm kháng cáo của bị đơn Công ty N đối với yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn Công ty H1 Tập đoàn X buộc Công ty cổ phần N trả số
tiền chi phí nhân công 26.800 USD của Hợp đồng sửa chữa số 01-2015/HĐSC ngày
27/7/2015.
-
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; khoản 3 Điều 35; và các Điều 37; 39; khoản 1
Điều 147, 469; 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Áp dụng Điều 274; 275; 280 Bộ
luật dân sự và Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ
Quốc Hội ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty H1 Tập đoàn xây dựng
công trình Q:
Buộc Công ty cổ phần N trả cho Công ty H1 Tập đoàn xây dựng công trình Q
số tiền bảo lãnh
5% của hợp đồng số 004/2014/HĐ/GTC-QT ngày 07/3/2014 là
13
153.820,80 USD và số tiền chi phí nhân công lắp đặt của hợp đồng số 01-
2015/HĐSC ngày 27/7/2015 là 26.800 USD. Tổng cộng 180.620.80 USD quy đổi ra
tiền đồng Việt Nam là 4.486.620.672 đồng.
2. Về án phí phúc thẩm: Áp dụng khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc Công ty cổ phần N phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm
nhưng được đối trừ 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tiền tạm
ứng án phí, lệ phí số 0000068 ngày 04/5/2024 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Gia
Lai.
3. Các quyết định khác về án phí, chi phí tố tụng và thi hành án được thực hiện
theo quyết định tại Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 10 tháng 4 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Gia Lai;
- VKSND tỉnh Gia Lai;
- Cục THADS tỉnh Gia Lai;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký
Phạm Ngọc Thái
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Bản án số 30/2025/DS-PT ngày 10/02/2025 của TAND tỉnh Kiên Giang về tranh chấp hợp đồng mượn tài sản
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 04/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 02/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 11/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm