Bản án số 101/2024/DSPT ngày 11/09/2024 của TAND tỉnh Bắc Ninh về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản về quyền sở hữu tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 101/2024/DSPT

Tên Bản án: Bản án số 101/2024/DSPT ngày 11/09/2024 của TAND tỉnh Bắc Ninh về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản về quyền sở hữu tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản về quyền sở hữu tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bắc Ninh
Số hiệu: 101/2024/DSPT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 11/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Công ty V
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẮC NINH
Bản án số: 101/2024/DSPT
Ngày: 11/9/2024
V/v: Tranh chấp hợp đồng mua bán tài
sản; kiện đòi tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH
- Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Nam.
Các Thẩm phán: Ông Ngô Xuân Ninh.
Ông Đỗ Thế Bình.
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị n Anh - Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Bắc Ninh.
- Đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh tham gia phiên tòa:
Ông Đặng Thanh Minh - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 8 11 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Bắc Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 139/2024/TLPT-DS ngày
22/7/2024 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản, kiện đòi tài sản”.
Do bản án dân sự thẩm số: 21/2024/DS-ST ngày 24/5/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Từ Sơn bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 130/2024/QĐ-PT,
ngày 05/8/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH đầu tư và phát triển V Việt Nam.
Địa chỉ: Xóm 5 thôn Đ, xã Đ, huyện H, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Nguyễn Thị Lan A - chức vụ: Giám đốc
(Vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Phạm Văn H, sinh
năm 1984 (Có mặt).
Cùng địa chỉ: Số 10, n48/4 Ng, tổ 5, phường Qu, quận C, thành phố
Nội.
- Bị đơn:Trần Thị Hồng Gi, sinh năm 1983. ( mặt ngày 30/8 vắng
mặt ngày 11/9/2024)
Địa chỉ: 219 M, phường Đ, thành phố T, tỉnh Bắc Ninh
2
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị Lan A, sinh năm
1986 (Vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Phạm Văn H, sinh năm 1984 (Có mặt).
Cùng địa chỉ: Số 10, n48/4 Ng, tổ 5, phường Qu, quận C, thành phố
Nội.
Người kháng cáo:Trần Thị Hồng Gi
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án thẩm các tài liệu trong hồ thì vụ án nội dung
như sau:
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn là ông Phạm Văn H trình bày:
Giám đốc Công ty TNHH Đầu phát triển V Việt Nam bà Nguyễn
Thị Lan A Trần Thị Hồng Gi mối quan hệ quen biết nhau thông qua
việc góp vốn mua bán đất. Năm 2021, Công ty TNHH Đầu phát triển V
Việt Nam mua của Công ty TNHH Toyota Bắc Ninh 01 chiếc xe ô hiệu
Toyota Camry, BKS 30H-207.34, đăng xe mang tên Công ty TNHH Đầu
phát triển V Việt Nam. Do lúc đó, bà Lan A chưa bằng lái xe ô nên
nhờ Gi nhận giúp xe ô khi Toyota Bắc Ninh bàn giao xe cho Gi
mượn chiếc xe này để làm phương tiện đi lại.
Năm 2022, do tình hình dịch bệnh Covid-19, Công ty TNHH Đầu
phát triển V Việt Nam gặp khó khăn về tài chính nên Lan A trao đổi với
Gi về việc Công ty cần lấy lại xe ô để bán lấy tiền hoạt động kinh doanh.
Gi i có nhu cầu mua chiếc xe ô này nên Công ty TNHH Đầu và phát
triển V Việt Nam đã đồng ý bán chiếc xe ô trên cho Gi với giá
1.110.000.00(Một tỷ một trăm mười triệu đồng). Hai bên lập hợp đồng
mua bán xe ô tô ngày 23/11/2022 với nội dung Gi đặt cọc tr trước
10.000.000đ; số tiền còn lại 1.100.000.000đ sẽ thanh toán trước ngày
20/01/2023. Gi đã thanh toán tiền cọc 10.000.000 đồng bằng tiền mặt cho
nguyên đơn. Đến hạn thanh toán thì Gi không thanh toán nốt tiền mua xe ô tô
cho Công ty TNHH đầu phát triển V Việt Nam, phía Công ty TNHH đầu
phát triển V Việt Nam đã nhiều lần yêu cầu Gi trả tiền mua xe nhưng
Gi không trả cũng không bàn giao lại chiếc xe ô trên cho Công ty
TNHH đầu tư và phát triển V Việt Nam.
Gi trình bày chiếc ô trên của Gi mua nhưng nhờ Công ty
TNHH đầu tư và phát triển V Việt Nam đứng tên hộ trong hợp đồng mua bán xe
để đăng ký lấy biển Hà Nội không đúng. Giữa Công ty TNHH đầu tư và phát
triển V Việt Nam với Gi hoàn toàn không có bất cứ thỏa thuận nào về việc
Công ty TNHH đầu phát triển V Việt Nam đứng tên hộ Gi trong hợp
đồng mua bán xe ô tô.
Do Gi đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Công ty TNHH đầu
phát triển V Việt Nam yêu cầu tòa án giải quyết hủy hợp đồng mua bán xe ô
3
lập ngày 23/11/2022 giữa hai bên; yêu cầu Gi trả lại Công ty TNHH đầu
và phát triển V Việt Nam chiếc xe ô tô trên. Công ty TNHH đầu tư và phát triển
V Việt Nam được sở hữu số tiền đặt cọc của Gi và không yêu cầu Gi phải
chịu phạt cọc 10.000.000 đồng.
Bị đơn Gi trình bày: Bà có quen biết với chị Nguyễn Thị Lan A
giám đốc của Công ty TNHH đầu tư và phát triển V Việt Nam. Năm 2021 bà có
nhu cầu mua 01 xe ô tô hiệu Camry Toyota của hãng Toyota Bắc Ninh và muốn
đăng ký biển số Hà Nội nên đã nhờ chị Lan A để Công ty TNHH đầu tư và phát
triển V Việt Nam đứng tên trong hợp đồng mua xe với hãng Toyota Bắc Ninh
được chị Lan A đồng ý. chuyển cho chị Lan A 500.000.000đ vào tài
khoản của chị Lan A mở tại Ngân hàng Techcombank để chị Lan A đặt cọc tiền
mua xe ô tô. Xe ô trên mua của Công ty Toyota Bắc Ninh với ggần 1,5
tỷ đồng; ngày 27/10/2021 phía Toyota Bắc Ninh giao xe cho phía hãng
Toyota cũng biết Công ty TNHH đầu phát triển V Việt Nam chđứng tên
hộ trong hợp đồng mua bán. sử dụng xe này từ đó đến nay xe được
đăng ký biển kiểm soát 30H-207.34. Ngày 15/10/2021 bà có chuyển tiếp vào tài
khoản chị Lan A số tiền 160.000.000đ đnộp thuế làm đăng xe. Số tiền còn
thiếu thì nhờ Công ty TNHH đầu phát triển V Việt Nam đứng ra vay
vốn của Ngân hàng Shinhan - chi nhánh Bắc Ninh, tài sản bảo đảm là chiếc xe ô
trên. Hàng tháng vẫn gửi tiền nộp gốc, lãi cho ngân hàng qua chị Lan A
tổng số gần 300.000.000đ. Khoảng cuối tháng 9/2022, đến Ngân hàng
Shinhan xin tất toán số nợ Công ty TNHH đầu phát triển V Việt Nam
vay thì cán bộ Ngân hàng nói phía Công ty TNHH đầu phát triển V Việt
Nam đã tất toán và lấy lại giấy tờ gốc của xe ô tô trên. Phía Công ty TNHH đầu
phát triển V Việt Nam đã nộp nốt số tiền gốc, lãi còn lại 749.000.000đ.
Bà có gặp chị Lan A đề nghị để bà trả số tiền này cho Công ty TNHH đầu
phát triển V Việt Nam nhưng chị Lan A không đồng ý bảo phải mua
chiếc xe này với giá 1.110.000.00do ch Lan A góp tiền mua đất Phú
Quốc với bà. Hai bên lập hợp đồng mua bán ngày 23/11/2022 với nội dung
mua chiếc ô này với giá 1.110.000.000đ, bà đặt cọc 10.000.000đ nhưng
thực tế không phải nộp tiền đặt cọc 10.000.000đ này. Theo hợp đồng này thì
phải nộp số tiền còn lại 1.100.000.000đ vào tài khoản của Công ty TNHH
đầu phát triển V Việt Nam trước ngày 20/01/2023. Mục đích hai bên lập
hợp đồng này để phía Công ty xuất hóa đơn bán xe cho đlàm thủ
tục sang tên chiếc xe y, sau đó sẽ vay ngân hàng lấy tiền trả lại cho chị
Lan A.
Theo hợp đồng mua bán số 2311/HĐMB ngày 23/11/2022 giữa với
Công ty TNHH đầu phát triển V Việt Nam không giá trị do giá trị
ghi trong hợp đồng là không đúng, bà đã trả cho Công ty TNHH đầu phát
triển V Việt Nam tổng số tiền 760.000.000đ để mua chiếc xe ô tô Camry Toyota
BKS số 30H-207.34 nhưng lúc đó do cần vay vốn Ngân hàng nên nhờ chị
Lan A ghi trong hợp đồng mua bán xe giá trị 1.110.000.000đ, thực chất
chỉ còn nợ Công ty TNHH đầu phát triển V Việt Nam số tiền mua xe
4
740.000.000đ (giá trị xe theo hợp đồng mua xe với Toyota Bắc Ninh
1.500.000.000đ). Nên hiện phía Công ty TNHH đầu phát triển V Việt
Nam yêu cầu hủy hợp đồng mua bán xe ô tô giữa bà với Công ty TNHH đầu
và phát triển V Việt Nam thì bà nhất trí.
Khi làm hợp đồng mua bán trên thì cũng không phải đặt cọc cho Công
ty TNHH đầu và phát triển V Việt Nam khoản tiền nào, trong hợp đồng ghi
đặt cọc 10.000.000đ là do phía Công ty TNHH đầuvà phát triển V Việt Nam
ghi vào hợp đồng bà không để ý. Do vậy, bà không đồng ý với yêu cầu đòi phạt
cọc 10.000.000đ của phía nguyên đơn. Nếu phía nguyên đơn đồng ý chuyển
nhượng chiếc xe ô trên cho thì sẽ trả tiếp cho phía nguyên đơn số tiền
mua xe còn thiếu là 740.000.000đ
Chiếc xe ô Camry Toyota BKS số 30H-207.34 hiện do quản sử
dụng. chỉ đồng ý giao lại chiếc xe này cho Công ty TNHH đầu tư phát
triển V Việt Nam khi bà Lan A trả lại bà số tiền 760.000.000đ là số tiền ban đầu
bà đã đưa cho chị Lan A để mua chiếc xe này.
đồng ý hủy hợp đồng mua bán xe ô giữa hai bên lập ngày
23/11/2022 và yêu cầu Công ty TNHH đầu tư và phát triển V Việt Nam phải trả
lại số tiền 760.000.000đ đã đưa cho chị Lan A để mua chiếc xe trên.
cũng đã khởi kiện chị Lan A ra Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố
Nội để yêu cầu chị Lan A phải trả lại s tiền đã chuyển khoản
760.000.000 đồng.
Do bà không phải nộp số tiền đặt cọc mua xe 10.000.000 đồng cho nguyên
đơn nên Gi không yêu cầu Công ty TNHH đầu phát triển V Việt Nam
phải trả lại bà số tiền này.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chLan A trình bày:
Chị quan hệ quen biết, góp vốn làm ăn chung với chị Giang. Năm
2021, Công ty TNHH Đầu phát triển V Việt Nam do chị làm giám đốc
mua của Công ty TNHH Toyota Bắc Ninh 01 chiếc xe ô tô hiệu Toyota Camry,
BKS 30H-207.34, đăng xe mang tên Công ty TNHH Đầu phát triển V
Việt Nam. Do chị chưa bằng lái xe nên có cho chị Giang mượn chiếc xe ô
trên làm phương tiện đi lại. Việc chị Giang trình bày chiếc xe ô trên của
chị Giang mua nhờ Công ty TNHH Đầu và phát triển V Việt Nam đứng
tên hộ trong hợp đồng mua bán xe không đúng; chị Giang cũng không
chuyển 500.000.000 đồng cho chị để đặt cọc tiền mua xe ô tô. Quá trình góp
vốn mua đất chung với nhau thì hai bên nhiều lần chuyển tiền qua lại cho
nhau, nhưng đây việc làm ăn giữa nhân chị với chị Giang, không liên
quan gì đến Công ty TNHH Đầu tư và phát triển V Việt Nam
Các tài liệu chị Giang nộp cho tòa án và trình bày là nội dung tin nhắn trao
đổi được in ra từ Zalo, fabook giữa chị với chị Giang không đúng. Chị
dùng zalo đăng ký số điện thoại 0983.819.855 và số 0911.218.448; dùng fabook
đăng số điện thọa 0983.819.855. Giữa chị chị Giang không liên lạc, trao
đổi qua zalo, fabook mà chỉ gọi điện, nhắn tin điện thoại với nhau. Trong
tháng 8 tháng 9/2022, chị Giang chuyển khoản cho chị 02 lần tiền ghi
5
nội dung “dong tien goc, lai xe” là do chị Giang tự ghi, còn đây là 02 khoản tiền
chị Giang trả nợ cho chị.
Với nội dung trên, bản án thẩm căn cứ các Điều 26, 35, 39, 146, 147,
157, 165, 227, 228, 235, 238, 244, 264, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; c
Điều 328, 430, 431, 433,434, 440, 422, 423, 424, 427 Bộ luật dân sự; Nghị
quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định
về mức thu, miễn, giảm,thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Hủy hợp đồng mua bán xe ô số 2311/HĐMB ngày 23/11/2022 giữa
Công ty TNHH đầu tư và phát triển V Việt Nam với bà Trần Thị Hồng Gi.
Buộc Gi phải trả lại Công ty TNHH đầu phát triển V Việt Nam
01 xe ô tô hiệu Toyota Camry, BKS 30H-207.34
Công ty TNHH đầu phát triển V Việt Nam được sở hữu số tiền đặt
cọc mua xe là 10.000.000 đồng
Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu phạt cọc của Công ty TNHH đầu
phát triển V Việt Nam. Công ty TNHH đầu tư phát triển V Việt Nam
quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu này khi có yêu cầu.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về án phí, nghĩa vụ thi hành án
quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 20/6/2024, Trần Thị Hồng Gi kháng cáo toàn bộ bản án.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 30/8/2024 Gi vẫn ginguyên đơn kháng
cáo, ông Hùng là đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và người có quyền lợi,
nghhĩa vụ liên quan giữ nguyên đơn khởi kiện các bên đương s xin được
ngừng phiên tòa để thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh tham gia phiên tòa phát
biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia
tố tụng dân sự ktừ khi thụ phúc thẩm cho đến phần tranh luận tại phiên tòa
đảm bảo theo đúng trình tự, quy định của pháp luật đề nghị Hội đồng xét
xử căn cứ Khoản Điều 308, Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự, giữ nguyên bản án
sơ thẩm xử.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên
toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bà Trần Thị Hồng Gi nộp trong
hạn luật định là kháng cáo hợp lệ nên được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc
thẩm.
[2]. Về nội dung:
6
Giữa Nguyễn Thị Lan A - Giám đốc Công ty TNHH Đầu phát
triển V Việt Nam và bà Trần Thị Hồng Gi có mối quan hệ quen biết. Năm 2021,
Công ty TNHH Đầu phát triển V Việt Nam mua 01 chiếc xe ô hiệu
Toyota Camry, BKS 30H-207.34 tại Công ty TNHH Toyota Bắc Ninh. Theo lời
trình bày của nguyên đơn thì tại thời điểm mua xe, do Lan A chưa bằng
lái nên vào ngày Công ty TNHH Toyota bàn giao xe Lan A nhờ Gi ra
nhận xe hộ cho Gi ợn để làm phương tiện đi lại. Sau này, do Gi
nhu cầu cần mua chiếc xe ô này nên Công ty TNHH V Việt Nam đã đồng ý
bán chiếc xe ô tô trên cho bà Gi với giá 1.100.000.000 đồng. Hai bên có lập hợp
đồng mua bán xe ô ngày 23/11/2022 với nội dung Gi đặt cọc trả trước
10.000.000 đồng số tiền còn lại sẽ được thanh toán trước ngày 20/01/2023. Tuy
nhiên Gi mới chỉ thanh toán số tiền cọc, đến hạn thanh toán Gi không
thanh toán nốt số tiền còn lại cho Công ty V Việt Nam. Công ty đã nhiều lần
yêu cầu Gi thanh toán tiền mua xe nhưng Gi không trả cũng như không
bàn giao lại chiếc ô trên cho Công ty. vậy Công ty TNHH V Việt Nam
khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết hủy hợp mua bán xe ô tô lập ngày
23/11/2022 giữa hai bên và yêu cầu bà Gi trả lại cho Công ty chiếc xe ô tô trên.
Phía bị đơn không đồng ý với lời trình bày của nguyên đơn, bà Gi trình
bày bà người mua chiếc xe ô Camry BKS 30H-207.34 nhưng do muốn
đăng ký biển số xe Hà Nội nên có nhờ Công ty TNHH V Việt Nam đứng tên hộ
trong hợp đồng mua bán. xác nhận đã chuyển 500.000.000 đồng cho chị
Lan A để đặt cọc mua xe. Do không đủ tiền để trả tiền mua xe nên nhờ
Công ty TNHH đầu phát triển V Việt Nam đứng tên vay vốn của Ngân
hàng Shinhan Bắc Ninh thế chấp chiếc xe ô trên để đảm bảo nghĩa vụ trả
nợ, số tiền gốc lãi hàng tháng bà đã chuyển tiền cho chị Lan A để chị Lan A
đóng gốc và lãi cho Ngân hàng hộ bà.
Bản án thẩm xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
buộc bị đơn Trần Thị Hồng Gi phải trả lại cho Công ty TNHH đầu
phát triển V Việt Nam 01 xe ô hiệu Toyota Camry, BKS 30H-207.34; hủy
hợp đồng mua bán xe ô số 2311/HĐMB ngày 23/11/2022 giữa Công ty
TNHH đầu phát triển V Việt Nam với Trần Thị Hồng Gi Công ty
TNHH V được sở hữu số tiền đặt cọc mua xe là 10.000.000 đồng.
Sau khi bản án thẩm xử, Trần Thị Hồng Gi kháng cáo toàn bộ bản
án. Xét kháng cáo của bà Gi, Hội đồng xét xử thấy:
Căn cứ vào Hợp đồng mua bán xe ô số 2311/HĐMB ngày 23/11/2022
giữa Trần Thị Hồng Gi với Công ty TNHH đầu phát triển V Việt Nam
thể hiện Công ty TNHH V Việt Nam đồng ý bán cho Gi 01 chiếc xe ô
nhãn hiệu Toyota, BKS 30H-207.34, số loại: Camry, số máy: 2AR2680303, số
7
khung: MR2BF3HK704016535, màu sơn: trắng đã qua sử dụng với giá bán cả
thuế VAT là 1.100.000.000 đồng. Tại thời điểm kết hợp đồng cả Gi
Công ty TNHH V Việt Nam đầy đủ năng lực hành vi dân sự, hai bên tự
nguyện giao kết hợp đồng, bản hợp đồng đầy đủ chữ xác nhận của bên
mua Gi bên bán Công ty TNHH V Việt Nam tại chính lời trình
bày của Gi cũng thừa nhận chữ của trong bản hợp đồng. Về phía nội
dung mục đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không
trái đạo đức xã hội. Do đó hợp đồng trên hợp pháp các bên nghĩa vụ
phải thực hiện theo như nội dung của hợp đồng.
Theo quy định tại Điều 2 của Hợp đồng thì Gi trách nhiệm thanh
toán số tiền 1.100.000.000 đồng trước ngày 20/01/2023 vào tài khoản của Công
ty TNHH đầu phát triển V Việt Nam nhưng đến hiện tại Gi vẫn chưa
thanh toán, như vậy là bà Gi đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán.
Gi trình bày chỉ nhờ Lan A dùng Công ty để đứng tên mua xe
làm thủ tục vay ngân hàng còn toàn bộ số tiền ban đầu thanh toán cho bên bán
xe, chi phí trước bạ, bốc biển là do Gi chi trả. Gi cung cấp cho Tòa án
các tin nhắn trao đổi zalo, facebook giữa Lan A để chứng minh cho sự
việc trên. Tuy nhiên phía Lan A không đồng ý với lời trình bày của Gi
cũng không xác nhận những nội dung tin nhắn phía Gi cung cấp. Theo
kết quả trả lời của Công an tỉnh Bắc Ninh thì các tài liệu Gi xuất trình
Công an không xác định được nội dung tài liệu này có phải là nội dung tin nhắn
trao đổi giữa Gi Lan A qua zalo, facebook không. vậy các tài liệu
mà phía bà Gi cung cấp không có tính xác thực nên không có đủ căn cứ để chấp
nhận.
Ngoài ra Gi cũng trình bày hàng tháng chuyển tiền vào tài khoản
của Lan A để Lan A đẩy vào tài khoản Công ty TNHH Đầu phát
triển V Việt Nam trả tiền góp cho ngân hàng về khoản nợ mua xe số tiền
Gi đã trả 770.000.000 đồng. Tuy nhiên căn cứ vào sao của Ngân hàng
TMCP Quân đội thì giữa bà Gi và bà Lan A rất nhiều lần chuyển tiền qua lại
với nhau. Duy nhất chỉ 02 khoản tiền Gi chuyển khoản cho Lan A o
ngày 19/8/2022 số tiền 18.936.999đ và ngày 29/9/2022 số tiền 13.254.000 đồng
thể hiện nội dung chuyển tiền gốc, lãi xe, còn lại các giao dịch khác đều không
thể hiện việc này. ng chính lời trình bày của Gi Lan A đều thừa
nhận hai bên quan hệ góp vốn kinh doanh đất chung nên nhiều giao dịch
chuyển tiền với nhau.
Như vậy không căn cứ nào thể hiện việc bà Gi nhờ Công ty TNHH đầu
tư và phát triển V Việt Nam đứng tên mua hộ chiếc xe ô tô Camry Toyota.
8
Từ những phân tích trên có thể thấy bà Gi hiện nay đang sở hữu chiếc xe ô
Camry Toyota của Công ty TNHH đầu phát triển V Việt Nam nhưng
không hoàn thành nghĩa vthanh toán như trong Hợp đồng mua bán xe hai
bên đã ký kết. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm buộc Gi phải trả lại Công ty TNHH
đầu phát triển V Việt Nam 01 chiếc xe ô Camry Toyota BKS 30H-
207.34 hủy hợp đồng mua bán xe ô số 2311/HĐMB ngày 23/11/2022
đúng quy định của pháp luật.
Trần Thị Hồng Gi kháng cáo toàn bộ bản án nhưng không cung cấp
được tài liệu, chứng cứ nào mới nên kháng cáo của Gi không có căn cứ chấp
nhận do đó cần bác toàn bộ kháng cáo của Gi.
[3]. Về án phí: Trần Thị Hồng Gi phải chịu án phí dân sự phúc thẩm
theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ căn cứ các Điều 26, 35, 39, 146, 147, 157, 165, 227, 228, 235, 238,
244, 264, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 328, 430, 431, 433,434,
440, 422, 423, 424, 427 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày
30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn,
giảm,thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; Giữ nguyên bản án sơ
thẩm, xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Hủy hợp đồng mua bán xe ô s 2311/HĐMB ngày 23/11/2022 giữa
Công ty TNHH đầu tư và phát triển V Việt Nam với bà Trần Thị Hồng Gi.
Buộc bà Gi phải trả lại Công ty TNHH đầu tư và phát triển V Việt Nam 01
xe ô tô hiệu Toyota Camry, BKS 30H-207.34
Công ty TNHH đầu phát triển V Việt Nam được sở hữu số tiền đặt
cọc mua xe là 10.000.000 đồng
Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu phạt cọc của Công ty TNHH đầu
phát triển V Việt Nam. Công ty TNHH đầu tư phát triển V Việt Nam
quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu này khi có yêu cầu.
2.Về án phí: Gi phải chịu 38.100.000 đồng tiền án phí dân sự thẩm
và 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm.
Xác nhận Gi đã nộp 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm tại biên lại
thu số 0003790 ngày 20/6/2024 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Từ
Sơn.
9
Hoàn trả Công ty TNHH đầu tư phát triển V Việt Nam số tiền tạm ứng
án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0000482 ngày 18/5/2023 của
Chi cục thi hành án dân sự thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
3. Chi phí xem xét thẩm định, định giá tài sản: Gi phải chịu 5.000.000
đồng tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản. Bà Gi phải hoàn
trả cho Công ty TNHH đầu tư và phát triển V Việt Nam 5.000.000 đồng tiền chi
phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sthì người được thi hành án, người phải thi hành án
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
theo quy định tại các điều 6, 79 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành
án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bắc Ninh;
- TAND thành phố Từ Sơn;
- Chi cục THADS thành phố Từ Sơn’;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
( Đã ký)
Nguyễn Văn Nam
Tải về
Bản án số 101/2024/DSPT Bản án số 101/2024/DSPT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 101/2024/DSPT Bản án số 101/2024/DSPT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất