Bản án số 10/2025/DS ngày 16/01/2025 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 10/2025/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 10/2025/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 10/2025/DS
Tên Bản án: | Bản án số 10/2025/DS ngày 16/01/2025 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Quảng Nam |
Số hiệu: | 10/2025/DS |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 16/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị H với bị đơn ông Phan Thế K |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NAM
Bản án số: 10/2025/DS – PT
Ngày 16 – 01 – 2025;
“Tranh chấp quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
ông Nguyễn Văn Dũng.
ông Nguyễn Hữu Thịnh,
ông Phạm Quốc Bảo.
- Thư ký phiên tòa: bà Đỗ Thị Thu Thảo - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam tham gia phiên tòa: ông
Lương Quốc Phòng - Kiểm sát viên.
Ngày 31 tháng 12 năm 2024 và ngày 16 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Nam, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số
88/2024/TLPT-DS ngày 22 tháng 10 năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất”;
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 217/2024/DS - ST ngày 14 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Quảng Nam bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 99/2024/QĐ - PT ngày 12
tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1939; địa chỉ: khối phố P, phường
A, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Người đại diện theo ủy quyền: bà Ung Thị T, sinh
năm 1965; địa chỉ: khối phố P, phường A, thành phố T, tỉnh Quảng Nam (văn bản
ủy quyền ngày 18 tháng 5 năm 2021). Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn: Luật sư Nguyễn Phúc T1, Công ty L1; địa chỉ: P Chung cư S L, quận
H, thành phố Đà Nẵng.
- Bị đơn: ông Phan Thế K, sinh năm 1938; địa chỉ: khối phố P, phường A,
thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Người đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Thanh
C, sinh năm 1979; địa chỉ: thôn P, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam (văn bản ủy
quyền ngày 26 tháng 02 năm 2021). Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp: Luật sư
Đào Duy K1, Văn phòng L2, Đoàn luật sư tỉnh Q.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Phan Kim C1, sinh năm 1967; địa chỉ: khối phố P, phường A, thành
phố T, tỉnh Quảng Nam. Người đại diện hợp pháp: bà Nguyễn Thị H (mẹ ruột của
ông C1), sinh năm 1939; địa chỉ: khối phố P, phường A, thành phố T, tỉnh Quảng
Nam.
2. Ông Phan Kim B, sinh năm 1963; địa chỉ: khối phố A, phường A, thành
phố T, tỉnh Quảng Nam.
3. Bà Nguyễn Thị C2, sinh năm 1973; địa chỉ: khối phố P, phường H, thành
phố T, tỉnh Quảng Nam.
Người đại diện theo ủy quyền của bà C2, ông B: bà Ung Thị T, sinh năm 1965;
2
địa chỉ: khối phố A, phường A, thành phố T, tinh Q (văn bản ủy quyền ngày 12
tháng 7 năm 2024).
4. Ông Phan Thế P, sinh năm 1973;
5. Ông Phan Thế V, sinh năm 1974;
6. Ông Phan Thế L, sinh năm 1976;
7. Bà Phan Thị Như H1, sinh năm 1978;
8. Bà Huỳnh Thị X, sinh năm 1940;
Cùng địa chỉ: khối phố P, phường A, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Người đại
diện theo ủy quyền của bà Huỳnh Thị X: ông Nguyễn Thanh C, sinh năm 1979; địa
chỉ: thôn P, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam (văn bản ủy quyền ngày 26 tháng 02
năm 2021).
- Người kháng cáo: bị đơn Phan Thế K.
Các ông, bà: Tỉnh, T1, C có mặt. Ông K1 có đơn xin vắng mặt; các đương sự
khác vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Phía nguyên đơn trình bày: hộ bà Nguyễn Thị H được UBND thị xã T (nay là
thành phố T) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Giấy chứng nhận) năm 1995
đối với thửa đất số 137, tờ bản đồ số 33, diện tích là 880 m², tại khối phố P, phường
A, thành phố T. Diện tích đất này gia đình bà H sử dụng từ trước năm 1975, có
chiều ngang là 11,5m, nay bị thu hẹp còn 8,41m. Nguyên nhân đất giảm diện tích là
do hộ ông Phan Thế K (chủ sở hữu đất liền kề) đã chặt phá hàng rào ranh giới (được
phân định bằng các cây lâu năm), xây dựng trụ bê tông, lưới B40 lấn chiếm
212,5m² đất của hộ bà H để mở đường vào nhà ông K khi đường phía sau nhà ông
K được nâng cấp thành đường nhựa. Nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc ông K trả lại
212,5m² đất đã lấn chiếm. Tại phiên tòa sơ thẩm, phía nguyên đơn yêu cầu cầu bị
đơn trả lại 107,9m² đất, thuộc thửa đất số 137, tờ bản đồ số 33, tại khối phố P,
phường A, thành phố T.
- Bị đơn không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cho rằng:
nguồn gốc thửa đất số 138, tờ bản đồ số 33, diện tích 1.922m
2
do hộ ông Phan Thế
K tạo lập từ trước năm 1975, trên đất có nhà ở, trồng hoa màu, cây lâu năm và được
cấp Giấy chứng nhận năm 1995. Sau khi được cấp Giấy chứng nhận, gia đình ông K
mở rộng bờ ranh phía Tây Nam để trồng thêm cây lâu năm, phá bờ ranh phía Nam
giáp đường đi mương nước. Đồng thời, ông K đặt trụ bê tông rào lưới B40 trên bờ
rào cũ về phía đất của bà Nguyễn Thị H nhằm bảo vệ ranh giới, không có việc lấn
chiếm. Việc này đã được thực hiện liên tục, không hề có tranh chấp. Ông Phan Thế
K khẳng định không lấn chiếm đất của nguyên đơn.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có ý kiến như sau:
- Ông Phan Kim B và bà Nguyễn Thị C2 thống nhất với ý kiến trình bày của
nguyên đơn.
- Bà Huỳnh Thị X thống nhất với ý kiến trình bày của bị đơn.
- Các ông, bà Phan Thế P, Phan Thế V, Phan Thế L, Phan Thị Như H1 cho
rằng: toàn bộ đất đai và tài sản trên đất tranh chấp là của ông Phan Thế K và bà
Huỳnh Thị X, các ông (bà) thống nhất với ý kiến và quyết định của ông Phan Thế
K, bà Huỳnh Thị X.
Với nội dung như trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 217/2024/DS - ST ngày
14 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Quảng Nam đã căn cứ
3
khoản 9 Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, các điều 147, 157, 158,
165, 166, 227, 229 Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 166, 170, 203 Luật Đất đai năm
2013; các điều 175, 176 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, xử: chấp nhận một phần yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn; buộc ông Phan Thế K, bà Huỳnh Thị X, ông Phan Thế P, ông
Phan Thế V, ông Phan Thế L, bà Phan Thị Như H1 phải tháo dỡ trụ bê tông hàng
rào lưới B40 trả lại diện tích đất lấn chiếm 31,3 m
2
, thuộc thửa số 137, tờ bản đồ số
33, tại khối phố P, phường A, thành phố T nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số E709750 ngày 24/01/1995 cấp cho hộ bà Nguyễn Thị H; không chấp
nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H về việc yêu cầu ông Phan
Thế K trả lại diện tích đất 76,6m
2
(trong đó có 13,1m
2
thuộc hành lang giao thông
và 63,5m
2
thuộc thửa số 138 tờ bản đồ số 33, nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số E 709917cấp ngày 24/01/1995 cho hộ ông Phan Thế K) tại phường A,
thành phố T.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định án phí, chi phí tố tụng, nghĩa vụ thi
hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 26 tháng 8 năm 2024, bị đơn Phan Thế K kháng
cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam
phát biểu ý kiến: Tòa án, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã đảm
bảo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 trong quá trình thụ lý, giải
quyết, xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm; đề nghị Hội đồng xét xử không chấp
nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân
thành phố T, tỉnh Quảng Nam.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử
phúc thẩm nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng tại cấp phúc thẩm
[1.1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn không rút yêu cầu khởi kiện, bị
đơn giữ nguyên kháng cáo đối với phần bản án sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn; các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết vụ án. Theo đó, Hội đồng xét xử xác định bị đơn kháng cáo một phần bản án
sơ thẩm.
[1.2]. Đại diện bị đơn đồng ý xét xử vắng mặt người bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp cho bị đơn, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người tham gia tố
tụng theo quy định tại các điều 294, 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[1.3]. Tại phiên tòa, đại diện bị đơn xuất trình bản photo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cấp cho ông Phan Thế P và bà Trần Thị T2 (ông P là con của
ông K), xác định mục đích cung cấp tài liệu này để chứng minh giữa đất của nguyên
đơn và bị đơn có thể hiện lối đi trên sơ đồ thửa đất và khẳng định đất tranh chấp
không liên quan đến thửa đất số 75, tờ bản đồ số 38 được cấp Giấy chứng nhận cho
ông P, bà T2. Theo đó, Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ để xác định bà Trần
Thị T2 có liên quan đến vụ án, tiếp tục xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[2]. Xét kháng cáo của bị đơn
[2.1]. Về thủ tục tố tụng của cấp sơ thẩm:
4
[2.1.1]. Tài liệu kèm theo hồ sơ khởi kiện thể hiện tranh chấp đất đai giữa các
bên đã được Ủy ban nhân dân phường A hòa giải ngày 02 tháng 12 năm 2020
nhưng bị đơn không đến dự phiên hòa giải (BL 01 – 21); kết quả xác minh tại Ủy
ban nhân dân phường A, thành phố T cho thấy: “Ủy ban nhân dân phường A đã
nhiều lần mời hộ bà Nguyễn Thị H và ông Phan Thế K lên Ủy ban để thực hiện thủ
tục hòa giải nhưng tất cả các lần mời ông Phan Thế K đều không có mặt nên phiên
hòa giải không tiến hành được. Lần cuối cùng là phiên hòa giải ngày 02 tháng 12
năm 2020”. Theo đó, Hội đồng xét xử xác định: trình tự, thủ tục hòa giải tranh chấp
quyền sử dụng đất thuộc vụ án đã được Ủy ban nhân dân phường A thực hiện đảm
bảo quy định tại Điều 88 Nghị định số 43/2014/NĐ- CP ngày 15 tháng 5 năm 2014
của Chính phủ, hướng dẫn Điều 203 Luật Đất đai năm 2013.
[2.1.2]. Trong diện tích đất tranh chấp có 03m
2
đất thuộc hành lang an toàn
giao thông, thuộc nhiệm vụ quản lý của Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định tại
Điều 7 Luật Đất đai năm 2024 (Điều 8 Luật Đất đai năm 2013). Trong vụ án này
không có đương sự yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập. Phần đất này Tòa án cấp sơ
thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và phía nguyên đơn
không kháng cáo. Như vậy, kết quả xét xử sơ thẩm không ảnh hưởng đến quyền lợi
của cơ quan quản lý đất hành lang an toàn giao thông và phần quyết định của bản án
sơ thẩm này không bị kháng cáo, kháng nghị, nên Hội đồng xét xử không xem xét,
nhận định về các vấn đề pháp lý liên quan đến phần đất tranh chấp này.
[2.2]. Về nội dung
Tòa án cấp sơ thẩm xác định diện tích đất tranh chấp 31,3m
2
thuộc thửa đất
số 137, tờ bản đồ số 33, diện tích 880m
2
, được cấp Giấy chứng nhận cho nguyên
đơn và buộc phía bị đơn tháo dỡ tài sản, trả lại diện tích đất này cho nguyên đơn. Bị
đơn kháng cáo nội dung này. Hội đồng xét xử thấy:
Thứ nhất, yêu cầu tháo dỡ tài sản thuộc phạm vi quyền, nghĩa vụ của các bên
trong quan hệ pháp luật tranh chấp quyền sử dụng đất. Theo đó, Tòa án cấp sơ thẩm
thụ lý yêu cầu tranh chấp quyền sử dụng đất của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu
khởi kiện, buộc bị đơn tháo dỡ tài sản trên đất, trả lại đất tranh chấp cho nguyên đơn
là đảm bảo giải quyết triệt để tranh chấp, không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi
kiện.
Thứ hai, các bên đương sự thừa nhận ranh giới giữa thửa đất số 137 (nguyên
đơn sử dụng) và thửa đất số 138 (bị đơn sử dụng) tại thời điểm cấp Giấy chứng
nhận cho các thửa đất này được xác định bằng cây trồng lâu năm, hàng chè tàu,
không có mốc giới rõ ràng, kiên cố. Tại phiên tòa, phía bị đơn thừa nhận đã trồng
trụ bê tông, kéo lưới B40 trên ranh giới cũ khoảng 20 năm, các hàng cây do bị đơn
trồng nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh cụ thể thời điểm, tính hợp
pháp của việc bị đơn xác lập ranh giới bằng hình thức hàng rào B40; lời khai của
người làm chứng về quá trình sử dụng đất tranh chấp không cụ thể, rõ ràng. Theo
đó, Hội đồng xét xử xác định: trong quá trình sử dụng đất, tại vị trí đất tranh chấp
31,3m
2
, hộ bà H và hộ ông K chưa từng thỏa thuận về ranh giới và không đủ căn cứ
để cho rằng ranh giới hiện nay đã được tồn tại từ 30 năm trở lên mà không có tranh
chấp.
Thứ ba, sau khi có kết quả đo đạc, chồng ghép của cơ quan chuyên môn lập
từ hoạt động xem xét, thẩm định tại chỗ, Ủy ban nhân dân phường A xác định “có
31,3m
2
nằm trong Giấy chứng nhận cấp năm 1995, thửa đất số 137, tờ bản đồ số
5
33…hộ bà H đã sử dụng từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993” (BL 189). Thông tin
này phù hợp với kết quả đo đạc hiện trạng sử dụng đất, chồng ghép lên bản đồ địa
chính của các thửa 137, 138 (BL 92) và thực tế hiện trạng sử dụng đất của nguyên
đơn giảm 69,2m
2
, hiện trạng sử dụng đất của bị đơn tăng so với diện tích đất được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thứ tư, Khoản 1 Điều 175 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Ranh giới
giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận hoặc theo quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Khoản 1 Điều 176 Bộ luật Dân sự năm
2015 quy định “Chủ sở hữu bất động sản chỉ được dựng cột mốc, hàng rào…ngăn
trên phần đất thuộc quyền sử dụng của mình…”.
Đối chiếu các nhận định trên với pháp luật đã viện dẫn thì thấy: không có
chứng cứ để chứng minh các bên có thỏa thuận về ranh giới hoặc ranh giới đã được
tồn tại từ 30 năm trở lên mà không có tranh chấp; Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, kết quả đo đạt, lồng ghép và văn bản trả lời của Ủy ban nhân dân xã T) và hiện
trạng sử dụng đất thực tế của các bên, kết luận diện tích đất tranh chấp 31,3m
2
thuộc
thửa đất số 37, tờ bản đồ số 33 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho
nguyên đơn năm 1995 là đảm bảo quy định tại khoản 1 Điều 175, Điều 176 Bộ luật
Dân sự năm 2015. Tại cấp phúc thẩm không phát sinh tình tiết mới làm thay đổi kết
quả xét xử sơ thẩm nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ
nguyên Bản án sơ thẩm số 217/2024/DS - ST ngày 14 tháng 8 năm 2024 của Tòa án
nhân dân thành phố T, tỉnh Quảng Nam.
[2.3]. Về án phí dân sự phúc thẩm: bị đơn được miễn án phí do là người cao
tuổi và có đơn xin miễn.
[2.4]. Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị và Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét có hiệu lực thi hành kể từ ngày
hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, các điều 294, 296, 26, 35, 39, 147, 157, 158, 165,
166 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các điều 7, 166, 170, 203 Luật Đất đai năm
2013; các điều 8, 235 Luật Đất đai năm 2024; các điều 175, 176 Bộ luật Dân sự
năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Phan Thế K, giữ nguyên Bản án
dân sự sơ thẩm số 217/2024/DS - ST ngày 14 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân
dân thành phố T, tỉnh Quảng Nam.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Phan
Thế K, bà Huỳnh Thị X, ông Phan Thế P, ông Phan Thế V, ông Phan Thế L, bà
Phan Thị Như H1 phải tháo dỡ trụ bê tông, hàng rào lưới B40, trả lại diện tích đất
31,3 m
2
, thuộc một phần thửa số 137, tờ bản đồ số 33, tại khối phố P, phường A,
thành phố T, đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà
Nguyễn Thị H số E709750 ngày 24/01/1995.
3. Án phí dân sự phúc thẩm: ông Phan Thế K được miễn.
6
4. Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị và Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết
thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 16 tháng
01 năm 2025).
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Quảng Nam;
- TAND thành phố T;
- Chi cục THADS thành phố T;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Văn Dũng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm