Bản án số 09/2025/DS ngày 14/01/2025 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 09/2025/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 09/2025/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 09/2025/DS
Tên Bản án: | Bản án số 09/2025/DS ngày 14/01/2025 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Quảng Nam |
Số hiệu: | 09/2025/DS |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 14/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn ông Nguyễn Văn T với bị đơn ông Nguyễn Xuân T2 |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NAM
Bản án số: 09/2025/DS – PT
Ngày 14 – 01 – 2025;
“Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
ông Nguyễn Văn Dũng.
ông Phạm Quốc Bảo;
ông Nguyễn Văn Thọ.
- Thư ký phiên tòa: bà Đỗ Thị Thu Thảo - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam tham gia phiên tòa: bà
Phạm Thị Ngọc Dung - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 12 năm 2024 và ngày 14 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Nam, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số
127/2024/TLPT-DS ngày 28 tháng 11 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất”;
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 47/2024/DS-ST ngày 09/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện N, tỉnh Quảng Nam bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 141/2024/QĐ - PT ngày
02 tháng 12 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1958; địa chỉ: thôn Đ, xã T,
huyện N, tỉnh Quảng Nam. Người đại diện theo ủy quyền: bà Huỳnh Thị T1, sinh
năm 1992; địa chỉ: Tổ A, thôn C, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam (văn bản uỷ
quyền ngày 14/6/2024 – BL200).
- Bị đơn: ông Nguyễn Xuân T2, sinh năm 1957; địa chỉ: thôn Đ, xã T, huyện
N, tỉnh Quảng Nam. Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp: ông Võ Thành T3, sinh
năm 2002; địa chỉ: Số A L, trị trấn N, huyện N, tỉnh Quảng Nam.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Võ Thị B, sinh năm 1969; địa chỉ: thôn Đ, xã T, huyện N, tỉnh Quảng
Nam.
2. Ông Nguyễn Quang T4, sinh năm 1984; địa chỉ: thôn Đ, xã T, huyện N,
tỉnh Quảng Nam.
3. Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1964; địa chỉ: thôn Đ, xã T, huyện N, tỉnh
Quảng Nam. Người đại diện theo ủy quyền: bà Huỳnh Thị T1, sinh năm 1992; địa
chỉ: Tổ A, thôn C, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam (văn bản uỷ quyền ngày
14/6/2024 – BL200).
4. Bà Nguyễn Thị T5, sinh năm 1990 và ông Phạm Quốc V, sinh năm 2008;
cùng địa chỉ: thôn Đ, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam.
- Người kháng cáo: nguyên đơn Nguyễn Văn T và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan Nguyễn Thị S.
2
Các ông, bà T1, T2, T3, B có mặt. Người tham gia tố tụng khác vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Phía nguyên đơn trình bày: ngày 25 tháng 7 năm 2010, ông Nguyễn Xuân
T2, bà Võ Thị B và con trai Nguyễn Quang T4 đã thỏa thuận chuyển nhượng cho vợ
chồng nguyên đơn một mảnh đất “chiều rộng 5m dài từ đường bê tông đến vườn
ông Phạm K” (tứ cận: Đông giáp đất ông Phạm K, Tây giáp đường bê tông, Nam
giáp đất ông Đinh D, Bắc giáp vườn còn lại), giá 40.000.000 đồng; ông T2 viết giấy
chuyển nhượng, ông T đã đưa trước 5.000.000 đồng, thỏa thuận sau khi xong giấy
tờ sẽ giao đủ tiền; sau đó ông T4 đến lấy thêm 8.000.000 đồng, tổng cộng số tiền vợ
chồng nguyên đơn đã thanh toán là 13.000.000 đồng. Sau đó, do bên chuyển
nhượng tranh chấp nội bộ nên không làm thủ tục chuyển nhượng được. Đến tháng
11 năm 2018, ông T2 yêu cầu ông T trả thêm 150.000.000 đồng để hoàn thành thủ
tục, nâng tổng giá lên 163.000.000 đồng. Tuy nhiên, khi gặp nhau để giao tiền và
công chứng, ông T2 chỉ đồng ý nhận tiền mà chưa thực hiện chuyển quyền sử dụng
đất, vợ chồng ông T không đồng ý nên ông T2 và bà B không bán đất cho vợ chồng
ông nữa. Ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên “Giấy chuyển nhượng đất” ngày
25/7/2010 có hiệu lực pháp luật; buộc ông T2, bà B xử lý tài sản trên đất, khôi phục
lại tình trạng ban đầu và tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, ông đồng ý trả
thêm 150.000.000 đồng; nếu ông T2, bà B không đồng ý chuyển nhượng phải bồi
thường 1/3 giá trị mảnh đất (theo giá hiện tại).
Phía bị đơn không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cho rằng:
ngày 25 tháng 7 năm 2010, ông T2 đã ký giấy tay chuyển nhượng cho ông T, bà S
diện tích đất tại thửa số 801, tờ bản đồ Số 3, tại thôn Đ, xã T, huyện N với giá
40.000.000 đồng, đã nhận trước 13.000.000 đồng, số tiền còn lại khi nào xong thủ
tục giấy tờ thì giao đủ. Do tranh chấp trong gia đình ông T2 nên việc tách thửa
không được tiến hành. Năm 2018, hai bên thống nhất lại giá đất là 163.000.000
đồng và thỏa thuận ông T sẽ thanh toán đủ số tiền còn lại để hoàn tất thủ tục tách
thửa và công chứng hợp đồng. Tuy nhiên, gia đình ông T không đến UBND xã T để
thực hiện thủ tục như đã hẹn nên ông T2 không đồng ý chuyển nhượng đất nữa và
vì đất đó gia đình ông đã làm nhà. Phía bị đơn đồng ý trả lại cho nguyên đơn số tiền
đã nhận là 13.000.000 đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có ý kiến như sau:
- Bà Võ Thị B thống nhất với trình bày của bị đơn.
- Bà Nguyễn Thị S thống nhất với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Ông Nguyễn Quang T4 cho rằng: năm 2010, ông nhận 8.000.000 đồng từ
ông T, bà S, là số tiền chuyển nhượng đất mà cha ông đã bán. Khi nhận tiền ông có
viết và ký tên vào giấy chuyển nhượng đất ngày 25/7/2010. Hiện nay, ông T và bà S
khởi kiện yêu cầu tiếp tục chuyển nhượng đất hoặc bồi thường theo giá trị hiện tại
thì ông không có ý kiến vì đất không thuộc quyền sử dụng của ông.
Với nội dung như trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 47/2024/DS-ST ngày
09/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Quảng Nam đã căn cứ Điều 26, 35,
39, 147, 273, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Điều 121, 122, 124,
127, 134, 137, khoản 2 Điều 689, 697 Bộ luật Dân sự 2005; điểm b khoản 1 Điều
127 Luật Đất đai năm 2003; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử: chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của
3
ông Nguyễn Văn T. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
25/7/2010 giữa ông Nguyễn Văn T và ông Nguyễn Xuân T2 vô hiệu. Buộc ông
Nguyễn Xuân T2 phải trả cho ông Nguyễn Văn T số tiền 13.000.000 đồng.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định án phí, chi phí tố tụng, nghĩa vụ thi
hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 20/9/2024 nguyên đơn Nguyễn Văn T và người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị S kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị đơn cho rằng: hợp
đồng chuyển nhượng vi phạm điều kiện về hình thức, đất chuyển nhượng là nhiều
người nhưng chỉ mình ông T2 ký hợp đồng; bên nhận chuyển nhượng đã vi phạm
thỏa thuận chuyển nhượng nên phía bị đơn không tiếp tục thực hiện hợp đồng là
đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên
bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam
phát biểu ý kiến: Toà án, người tiến hành tố tụng, các đương sự đã thực hiện đúng
các quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong việc thụ lý, xét xử vụ án; đề nghị
Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, hủy
toàn bộ bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện N giải quyết lại
vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét
xử phúc thẩm nhận định:
[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn không rút đơn khởi kiện; ông T và
bà S giữ nguyên nội dung kháng cáo; các đương sự không thỏa thuận được với nhau
về việc giải quyết vụ án.
[2]. Xét kháng cáo của đương sự
[2.1]. Về thủ tục tố tụng
[2.1.1]. Việc kháng cáo của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan được thụ lý đúng điều kiện, thủ tục và thẩm quyền theo quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015, nên kháng cáo của ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị
S là hợp pháp.
[2.1.2]. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 294 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,
xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[2.2]. Về nội dung
[2.2.1]. Về thủ tục tố tụng tại cấp sơ thẩm
Thứ nhất, nguyên đơn đưa ra yêu cầu bồi thường thiệt hại 1/3 giá trị quyền sử
dụng đất nếu thuộc trường hợp không tiếp tục thực hiện hợp đồng. Tòa án cấp sơ
thẩm định giá, xác định giá thị trường 01m
2
đất tranh chấp là 850.000 đồng từ tháng
7 năm 2020 (BL 106). Tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm, kết quả định giá đã được
thực hiện hơn 4 năm, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành định giá lại là thực
hiện không đúng quy định tại Điều 7 Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam (Ban
hành kèm theo Thông tư số 30/2024/TT-BTC ngày 16/5/2024 của Bộ T6). Mặt khác,
Hội đồng xét xử không làm rõ thỏa thuận của các bên về giá quyền sử dụng đất tại
phiên tòa mà chỉ dựa vào “đơn đề nghị” của nguyên đơn về “không yêu cầu tiến
hành định giá thị trương”, để nhận định: “Tòa án không thể giải quyết yêu cầu của
4
ông T” và quyết định “không chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại của ông
Nguyễn Văn T” là thuộc trường hợp thu thập chứng cứ và chứng minh chưa được
thực hiện đầy đủ.
Thứ hai, diện tích đất tranh chấp thuộc một phần thửa đất số 788, tờ bản đồ số
01, tại xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam, được cấp Giấy chứng nhận cho ông Nguyễn
Xuân T2, bà Võ Thị B ngày 12 tháng 9 năm 2008. Theo Bản án sơ thẩm đang có
hiệu lực thi hành số 12A/2013/DSST ngày 12 tháng 3 năm 2013 của Tòa án nhân
dân huyện N thì thửa đất số 788, tờ bản đồ số 01 thuộc quyền sở hữu chung của các
đồng thừa kế là các ông bà: Nguyễn Xuân T2, Nguyễn Quang T4, Nguyễn Thị Q,
Nguyễn Thị T5 (BL 132 – 140). Tại phiên tòa, các bị đơn khai bà Nguyễn Thị Q đã
chết, có chồng là ông Phạm Quốc V1, con là Phạm Quốc V sinh năm 2008. Tuy
nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm không xác minh, thu
thập chứng cứ để xem xét, xác định ông Phạm Quốc V1 tham gia tố tụng, đảm bảo
người đại diện hợp pháp của cháu Phạm Quốc V, là bỏ sót người tham gia tố tụng,
không thu thập chứng cứ đầy đủ, vi phạm thủ tục tố tụng.
Thứ ba, kết quả tranh tụng tại phiên tòa cho thấy: bà B biết việc chuyển
nhượng đất giữa ông T2 với phía nguyên đơn khi xảy ra tranh chấp đất trong gia
đình ông T2, nhưng bà không phản đối, số tiền nhận của phía nguyên đơn được sử
dụng vào việc san lấp đất của vợ chồng ông T2, bà B, và bà B có tham gia vào việc
thỏa thuận tăng giá chuyển nhượng lên 163.000.000 đồng. Theo đó, có chứng cứ thể
hiện bà B biết, hưởng quyền lợi từ việc chuyển nhượng đất và không phản đối việc
ông T2 ký giao dịch chuyển nhượng đất với ông T. Mặt khác, tại phiên tòa, ông T2
thừa nhận bên chuyển nhượng có nghĩa vụ làm thủ tục tách thửa, hoàn thiện giấy tờ
theo thỏa thuận trong “Giấy chuyển nhượng đất” lập ngày 25 tháng 7 năm 2010, và
tại phiên hòa giải ở xã ngày 13 tháng 12 năm 2018 (BL 04 – 07), dù đủ điều kiện để
lập thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho phía nguyên đơn theo giá thỏa
thuận lại vào năm 2018 nhưng ông T2 đã không đồng ý tiếp tục chuyển nhượng cho
phía nguyên đơn vì “phía nguyên đơn lôi thôi”. Như vậy, có chứng cứ thể hiện thỏa
thuận về hoàn thành hình thức hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các
bên theo hợp đồng phụ thuộc điều kiện “khi xong giấy tờ” - là trách nhiệm của bên
chuyển nhượng (ông T2); tại phiên tòa, ông T2 thừa nhận đã không tiến hành các
phần việc hoàn thành xong thủ tục giấy tờ và đã đơn phương chấp dứt thực hiện
thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, xây nhà trên diện tích đất đã ký thỏa
thuận chuyển nhượng nên không thể bàn giao đất được. Theo đó, Tòa án cấp sơ
thẩm chưa xác minh, làm rõ các tình tiết, chứng cứ này nhưng đã nhận định lỗi dẫn
đến hợp đồng vô hiệu là của hai bên, không chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại
của phía nguyên đơn là thuộc trường hợp thu thập chứng cứ, chứng minh chưa đầy
đủ, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của đương sự.
Từ các nhận định trên, Hội đồng xét xử kết luận: Tòa án cấp sơ thẩm bỏ sót
người tham gia tố tụng, vi phạm thủ tục tố tụng, thu thập chứng cứ, chứng minh
chưa đầy đủ mà không thể khắc phục được tại cấp phúc thẩm, thuộc trường hợp quy
định tại Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nên Hội đồng xét xử chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn Văn T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Nguyễn Thị S, hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm số 47/2024/DS-ST ngày 09/9/2024 của
Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Quảng Nam, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân
dân huyện N giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
5
Bản án sơ thẩm bị hủy toàn bộ nên Hội đồng xét xử không xét kháng cáo của
nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về nội dung giải quyết yêu cầu
khởi kiện.
[2.2.2]. Án phí dân sự phúc thẩm: do kháng cáo được chấp nhận, bản án sơ
thẩm bị hủy nên người kháng cáo không chịu án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308, các điều 294, 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội. Tuyên xử:
1. Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn Văn T, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị S, hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm số 47/2024/DS-ST
ngày 09/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Quảng Nam, chuyển hồ sơ vụ
án cho Tòa án nhân dân huyện N giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
2. Án phí dân sự phúc thẩm: người kháng cáo không chịu.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 14/01/2024).
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Quảng Nam;
- TAND huyện N;
- THADS huyện N;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
(Đã ký)
Nguyễn Văn Dũng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Bản án số 152/2025/DS-PT ngày 10/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 09/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Bản án số 144/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm