Bản án số 04/2025 ngày 06/01/2025 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
  • Bản án số 04/2025

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

  • Bản án số 04/2025

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 04/2025

Tên Bản án: Bản án số 04/2025 ngày 06/01/2025 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Quảng Nam
Số hiệu: 04/2025
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 06/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyễn Thị L - Phạm Thị M
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NAM
Bản án số: 04/2025/DS-PT.
Ngày: 06-01-2025.
V/v tranh chấp về thừa kế tài sản
là quyền sử dụng đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
ông Phạm Quốc Bảo.
ông Nguyễn Văn Dũng;
Lê Thị Anh Đào.
- Thư phiên tòa: Trần Thị Mẫn - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam: Phạm Thị
Ngọc Dung - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 06 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 80/2024/TLPT-DS ngày 17 tháng
10 năm 2024 về việc “Tranh chấp về thừa kế tài sản là quyền sử dụng đất.
Do Bản án dân sự thẩm số: 143/2024/DS-ST ngày 22 tháng 7 năm
2024 của Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 123/2024/QĐXXPT-
DS ngày 25 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1965.
Địa chỉ: Tổ C, thôn H, xã Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: ông Nguyễn
Thành Q Luật của Văn phòng L3 Cộng sự, thuộc Đoàn Luật tỉnh Q.
Có mặt.
2. Bị đơn: bà Phạm Thị M (Phạm Thị T), sinh năm 1927.
Địa chỉ: Số D S, phường H, quận N, thành phố Đà Nẵng (nơi đăng
thường trú: Số G Đ, phường K, quận N, thành phố Đà Nẵng).
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Phạm Thị T1, sinh năm
1960; địa chỉ: Số D S, phường H, quận N, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1964.
Địa chỉ: thôn H, Đ, thị Đ, tỉnh Quảng Nam. đơn yêu cầu giải
quyết vắng mặt.
2
- Bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1954.
Địa chỉ: thôn H, xã Đ, thị Đ, tỉnh Quảng Nam. đơn yêu cầu giải
quyết vắng mặt.
- Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1964.
Địa chỉ: Tổ B, thôn Y, H, huyện H, thành phố Đà Nẵng. đơn yêu
cầu giải quyết vắng mặt.
- Ông Nguyễn S, sinh năm 1965.
Địa chỉ: thôn H, xã Đ, thị Đ, tỉnh Quảng Nam. đơn yêu cầu giải
quyết vắng mặt.
- Bà Nguyễn Thị T3, sinh năm 1969.
Địa chỉ: Tổ E, thôn D, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
- Ông Nguyễn Như T4, sinh năm 1983;
- Ông Nguyễn Duy H, sinh năm 1989.
Cùng địa chỉ: Số D S, phường H, quận N, thành phố Đà Nẵng (cùng đăng
ký thường trú tại: Số G Đ, phường K, quận N, thành phố Đà Nẵng). Có đơn yêu
cầu giải quyết vắng mặt.
- Bà Phạm Thị M (M), sinh năm 1942.
Địa chỉ: thôn H, xã Đ, thị Đ, tỉnh Quảng Nam. đơn yêu cầu giải
quyết vắng mặt.
4. Người kháng cáo: nguyên đơn Nguyễn Thị L người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị C.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, c lời khai trong hồ vụ án tại phiên tòa,
nguyên đơn là bà Nguyễn Thị L trình bày:
Ông, nội Nguyễn Thị L ông Nguyễn H1 (chết năm 2010)
Nguyễn Thị T5 (chết năm 1954) 07 người con, gồm: ông Nguyễn T2 (chết
năm 1968), ông Nguyễn Q1 (chết năm 1970) các ông, bà: Nguyễn T6,
Nguyễn Thị X, Nguyễn Thị X1, Nguyễn G, Nguyễn Thị L1 đều chết lúc nhỏ,
không vợ (hoặc chồng), con. Ngoài ra, ông, nội L không con nuôi,
con riêng nào khác.
Ông Nguyễn T2 (chết năm 1968) vợ Phạm Thị M (Phạm Thị T,
sau đây gọi là Phạm Thị T) 08 người con, gồm: Nguyễn Thị T2, ông
Nguyễn T7 (chết ngày 19/6/2014, có vợ là bà Phạm Thị T1 và 02 con là Nguyễn
Như T4Nguyễn Duy H), Nguyễn Thị N, ông Nguyễn S, bà Nguyễn Thị T3
và các ông: Nguyễn T8, Nguyễn T9, Nguyễn M1 đều chết lúc nhỏ, không có vợ,
con.
Ông Nguyễn Q1 (chết năm 1970) vợ bà Phạm Thị M (Mực Lùn)
03 người con, gồm: Nguyễn Thị C, Nguyễn Thị L ông Nguyễn Văn
K (chết khi còn nhỏ).
Nguồn gốc thửa đất số 140, tờ bản đồ số 4, tại thôn H, xã Đ, thị xã Đ, tỉnh
Quảng Nam do ông nội L ông Nguyễn Hứa tạo L2 từ trước năm 1975.
3
Mặc dù, ông nội L 07 người con nhưng chỉ ông Nguyễn T2 ông
Nguyễn Q1 (cha L) còn sống, lập gia đình, sinh con sinh sống tại khu
vườn này.
Sau khi ông Nguyễn T2 vợ Phạm Thị T tdọn ra m nhà
riêng nhưng vẫn cùng trong một khu vườn với ông Nguyễn H1 (ngôi nhà của
vợ chồng ông T hiện nay vẫn còn tồn tại).
Cha mẹ L ông Nguyễn Q1 và Phạm Thị M (Mực Lùn) cưới nhau
chung sống cùng với ông Nguyễn Hứa . Đến năm 1970 thì cha L chết, m
L cùng với các con vẫn tiếp tục sống với ông Nguyễn Hứa . Sau năm 1975,
ông H1 đã khai, đăng khu vườn gia đình đang sinh sống theo Ch thị
299/TTg tại thửa đất số 312, tờ bản đồ số 01, diện tích 2.840m
2
tại Xóm L thôn
H, xã Đ và sống cùng mẹ con bà Nguyễn Thị L.
Năm 1987, hưởng ứng chủ trương xây dựng trại chăn nuôi của Hợp tác xã
N2 (HTXNN I) Đ, hộ ông Nguyễn Hứa C1Phạm Thị M, bà Nguyễn Thị L, bà
Nguyễn Thị C (H2) đã dọn lên Xóm Rẫy sinh sống để nhường đất lại cho HTX
N3 làm trại chăn nuôi được Nhà nước cấp đất để làm nhà tại đây. Khi Nhà
nước làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Nghị định 64/CP
cho người dân thì mẹ bà L là bà Phạm Thị M người đại diện hộ gia đình đng
tên khai, đăng thửa đất được cấp mới thuộc thửa số 239, tờ bản đồ số 2,
diện tích 1.474m
2
tại Xóm R, thôn H, xã Đ và hiện nay bà Phạm Thị M đã được
Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất này.
Lúc đó, Phạm Thị T không di dời theo ông Nguyễn H1 mẹ con
Phạm Thị M T các con vẫn sinh sống tại khu vườn cũ. Đến khi Nhà
nước yêu cầu kê khai, đăng ký theo Nghị định 64/CP thì bà Phạm Thị T đã đứng
ra khai thửa đất ông Nguyễn H1 đã khai theo Chỉ thị 299/TTg đã
được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 140,
tờ bản đsố 4, diện tích 1.688m
2
, tại thôn H, Đ, thị Đ, tỉnh Quảng Nam
cho hộ bà Phạm Thị T .
Thời điểm bà Phạm Thị M dọn đến nơi mới thì trên thửa đất cũ vẫn còn
một số cây cối, hiện nay trên thửa đất này còn có 02 cây mít do mẹ bà L trồng
một ngôi nhà cấp 4, 01 giếng nước của T. Mặc dù, mẹ L dọn đến nơi
mới nhưng vẫn canh tác và thực hiện nộp thuế cho Nhà nước đối với thửa đất số
140 này.
Từ năm 1975, trong hộ ông Nguyễn Hứa G1 04 người ông Nguyễn
H1 (chủ hộ), bà Phạm Thị M (dâu), Nguyễn Thị H2 (Chúc, cháu nội)Nguyễn
Thị L (Bé). Ông Hứa C2 sống cùng mL đến năm 2009 thì ông Nguyễn T7
đưa ông H1 ra Đà Nẵng sinh sống và chết vào năm 2010. Bà L xác định thửa đất
140, tờ bản đồ số 4, diện tích 1.688m
2
tại thôn H, Đ, thị Đ, tỉnh Quảng
Nam là di sản do ông Nguyễn Hứa Đ lại.
Nay, nguyên đơn yêu cầu Tòa án chia đôi phần di sản của ông Nguyễn
Hứa Đ lại quyền sử dụng đất tại thửa đất 140, t bản đồ số 4, diện tích
1.688m
2
, tại thôn H, xã Đ, thị Đ, tỉnh Quảng Nam thành 02 phần cho ông
Nguyễn Q1 ông Nguyễn T2, mỗi người được một phần diện tích đất
4
844m
2
. Nguyễn Thị L bà Nguyễn Thị C là người thừa kế thế vị theo pháp
luật của ông Nguyễn Q1 nên L C được nhận phần diện tích đất 844m
2
này. Bà Nguyễn Thị L và bà C sẽ nhận phần diện tích đất là 600m
2
và để lại diện
tích đất 244m
2
đlàm nhà thờ cho ông giao lại cho con cháu nhà ông
Nguyễn T2 quản lý, sử dụng.
Đối với ngôi nhà cấp 4 01 giếng nước bi tròn tông trên thửa đất s
140 tài sản của vợ chồng bà Phạm Thị T, không phải di sản của ông
Nguyễn Hứa N1 bà L không có tranh chấp và không có yêu cầu gì.
Tại lời khai có trong hồ sơ vụ án, bị đơn bà Phạm Thị M (Phạm Thị T)
người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn trình bày:
Về quan hệ huyết thống của gia đình ông Nguyễn H1 và hàng thừa kế như
lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn thống nhất và không bổ sung gì thêm.
Trước giải phóng, ông Nguyễn H1, Phạm Thị M Phạm Thị T
sống tại khu vườn hiện nay đang tranh chấp, thửa đất số 140, tờ bản đồ số 4,
thôn H, Đ, thị Đ, tỉnh Quảng Nam. Tuy nhiên, thời gian sau, hộ ông
Nguyễn Hứa G1 ông Nguyễn H1 03 mẹ con Phạm Thị M đã dọn lên
Xóm R sinh sống được Nhà nước cấp đất thửa đất s239, tờ bản đồ số 2,
diện tích 1.474m
2
tại thôn H, Đ, thị Đ, tỉnh Quảng Nam và hiện nay bà
Phạm Thị M đã được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
thửa đất này.
Riêng bà Phạm Thị T không di dời theo ông Nguyễn H1 Phạm Thị
M mà T vẫn sinh sống tại thửa đất này và đã được Nhà nước cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo Nghị định 64/CP tại thửa số 140, tờ bản đồ số 4,
diện tích 1.688m
2
, thôn H, xã Đ, thị Đ, tỉnh Quảng Nam. Từ khi ông Nguyễn
H1 mẹ con Phạm Thị M dọn lên nơi mới, gia đình T đã quản lý, sử
dụng thửa đất này cho đến nay.
Nay, bà Nguyễn Thị L yêu cầu chia di sản thừa kế do ông Nguyễn Hứa Đ
lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 140, tbản đồ số 4, diện tích 1.688m
2
,
địa chỉ: thôn H, Đ, thị Đ, tỉnh Quảng Nam thì Phạm Thị T không đồng
ý, hộ ông Nguyễn H1 03 mcon Phạm Thị M đã di dời đến nơi khác
sinh sống đã được Nhà nước cấp đất riêng, M ông Nguyễn H1 không
liên quan đến thửa đất số 140, tờ bản đồ số 4 thửa đất này Phạm Thị T
đã đứng ra khai, đăng ký thực hiện các nghĩa vụ thuế được Nhà nước
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất riêng.
Tại lời khai trong hvụ án, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Nguyễn Thị C thống nhất với ý kiến và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại lời khai có trong hồ sơ vụ án, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan Nguyễn Thị T2 (Tiến con), Nguyễn Thị N, ông Nguyễn S, bà
Nguyễn Thị T3, bà Phạm Thị T1, ông Nguyễn NT4 ông Nguyễn Duy H
cùng ý kiến trình bày: về quan hệ huyết thống trong gia đình, các ông,
thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn và bị đơn.
Về nguồn gốc thửa đất hiện nay đang tranh chấp: sau giải phóng ông
Nguyễn Hứa C3 hai người con dâu Phạm Thị T Phạm Thị M cùng các
5
cháu nội sinh sống trên thửa đất số 312, tờ bản đồ số 01, diện tích 2.840m
2
tại
Xóm L, thôn H, Đ ông H1 đã kê khai, đăng theo Chỉ thị 299/TTg. Đến
năm 1980, HTX N3 có chủ trương xây dựng trại chăn nuôi tại khu V, thôn H, xã
Đ nên ông Nguyễn H1 Phạm Thị M đã dọn lên Xóm Rẫy sinh sống
được Nhà nước cấp đất mới thửa đất số 239, tờ bản đồ số 2, diện tích
1.474m
2
tại thôn H, Đ hiện nay Phạm Thị M đã được Nhà nước cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất này.
Riêng Phạm Thị T không di dời theo hộ ông Nguyễn H1 mẹ con
Phạm Thị M mà vẫn tiếp tục sinh sống tại thửa đất này và đã được Nhà nước cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 140, tờ bản đồ số 4, diện
tích 1.688m
2
, địa chỉ thôn H, Đ. Gia đình T đã sử dụng thửa đất này từ
trước đến nay.
Nay, bà Nguyễn Thị L yêu cầu chia di sản thừa kế do ông Nguyễn Hứa Đ
lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 140, tbản đồ số 4, diện tích 1.688m
2
,
tại thôn H, Đ, thị Đ, tỉnh Quảng Nam thì các ông, không đồng ý, hộ
ông Nguyễn H1 đã di dời đến nơi khác sinh sống và đã được Nhà nước cấp đất
riêng, ông Nguyễn Hứa K1 còn liên quan đến thửa đất số 140, tờ bản đồ số 4
thửa đất này Phạm Thị T đã đng ra khai, đăng được Nhà nước cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất riêng.
Với nội dung vụ án như trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 143/2024/DS-
ST ngày 22 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng
Nam đã căn cứ các Điều 26, 35, 39, 157 235 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 623 Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tuyên xử: bác toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của Nguyễn Thị L đối với Phạm Thị M (Phạm Thị T) vviệc
“Yêu cầu chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất” đối với thửa đất số 140, t
bản đồ số 04, diện tích đất 1.688m
2
, tại thôn H, Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam
theo Giấy chứng nhận quyền sdụng đất số Đ 903292763075 ngày 28/6/2004
do UBND huyện Đ (nay UBND thị Đ) cấp cho hộ Phạm Thị M (Phạm
Thị T).
Ngoài ra, bản án thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng, nghĩa
vụ thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 24/7/2024, nguyên đơn Nguyễn Thị L
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị C đơn kháng cáo toàn
bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng
Nam phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai
đoạn phúc thẩm: Thẩm phán được phân công trực tiếp giải quyết vụ án đã thực
hiện đúng các quy định của pháp luật về việc thụ lý vụ án, về thời hạn giải quyết
vụ án, về việc chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu để tham gia xét
xử. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự,
6
thủ tục theo quy định của pháp luật. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền,
nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
- Về việc giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều
308 và Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự, hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ
án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng
xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện,
người kháng cáo giữ nguyên kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được
với nhau về việc giải quyết vụ án.
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn Thị L người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị C thì thấy: Tòa án cấp thẩm vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, cụ thể như sau:
[2.1] Xác định thiếu người tham gia tố tụng: nguyên đơn khởi kiện yêu
cầu Tòa án giải quyết chia di sản thừa kế do ông Nguyễn Hứa Đ lại theo pháp
luật. Ông Nguyễn H1 (chết năm 2010) có 02 người con là: ông Nguyễn T2 (chết
năm 1968), ông Nguyễn Q1 (chết năm 1970) và những người con khác đều chết
lúc còn nhỏ, không có vợ hoặc chồng, con.
Ông Nguyễn T2 vợ Phạm Thị M (Phạm Thị T) 08 người con,
trong đó ông Nguyễn Thống .1 Ông Nguyễn T7 (chết năm 2014) vợ
Phạm Thị T1 và 02 người con là ông Nguyễn Như T4, ông Nguyễn Duy H. Năm
2010, ông Nguyễn Hứa C4 nên ông Nguyễn T7 một trong những người thừa
kế thế vị đối với phần di sản mà ông Nguyễn T2 được hưởng nếu còn sống. Năm
2014, ông Nguyễn T7 chết (không để lại di chúc) nên những người thuộc ng
thừa kế thứ nhất của ông T7 (gồm vợ các con) được hưởng di sản thừa kế do
ông T7 để lại. Tuy nhiên, Tòa án cấp thẩm không đưa Phạm Thị T1 (vợ
ông T7) vào tham gia tố tụng với tư cách người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan xác định thiếu người tham gia tố tụng, ảnh ởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của T1. Tại phiên tòa phúc thẩm, T1 yêu cầu được tham gia tố
tụng khi giải quyết vụ án tgiai đoạn thẩm để đảm bảo quyền lợi ích hợp
pháp của bà.
[2.2] Ngày 04/7/2024, Tòa án cấp sơ thẩm mphiên tòa xét xử vụ án
ban hành Quyết định tạm ngừng phiên tòa, ấn định thời gian mở lại phiên tòa
vào lúc 13 giờ 30 phút, ngày 16/7/2024. Tuy nhiên, vào ngày 16/7/2024, Tòa án
cấp sơ thẩm không tiến hành mở lại phiên tòa cũng không ban hành văn bản
nào thể hiện việc thay đổi thời gian mở lại phiên tòa, nhưng đến ngày 22/7/2024
mới mở lại phiên tòa xét xử vụ án. Hơn nữa, ngày 22/7/2024, Tòa án cấp
thẩm mở phiên tòa xét xử tuyên án nhưng Biên bản nghị án lại thể hiện thời
gian nghị án ngày 04/7/2024 văn bản phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên
ghi ngày 16/7/2024.
7
[2.3] Do Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh
hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của đương sự nên Hội đồng xét xử phúc
thẩm căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn Thị
L người quyền lợi, nghĩa vliên quan bà Nguyễn Thị C, hủy bản án
thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ
tục sơ thẩm.
[2.4] Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án thẩm chuyển hồ vụ
án cho Tòa án cấp thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục thẩm nên không
đề cập giải quyết đối với kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn Thị L người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị C về phần nội dung vụ án.
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: nguyên đơn Nguyễn Thị L người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị C không phải chịu (bà Nguyễn
Thị L Nguyễn Thị C đã được Tòa án cấp thẩm cho miễn nộp tiền tạm
ứng án phí phúc thẩm).
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 308 Điều 310 của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015; khoản 3 Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn Thị L và
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị C, hủy Bản án dân sự
thẩm số: 143/2024/DS-ST ngày 22/7/2024 của Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn,
tỉnh Quảng Nam chuyển hồ vụ án cho Tòa án nhân dân thị Điện n,
tỉnh Quảng Nam giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Án phí dân s phúc thẩm: nguyên đơn Nguyễn Thị L người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị C không phải chịu.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (06/01/2025).
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Quảng Nam;
- TAND thị xã Điện Bàn;
- Chi cục THADS thị xã Điện Bàn;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Phạm Quốc Bảo
Tải về
Bản án số 04/2025 Bản án số 04/2025

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 04/2025 Bản án số 04/2025

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất