Bản án số 04/2018/HSST ngày 23/01/2018 của TAND huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 04/2018/HSST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 04/2018/HSST
Tên Bản án: | Bản án số 04/2018/HSST ngày 23/01/2018 của TAND huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa |
---|---|
Tội danh: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Hoằng Hóa (TAND tỉnh Thanh Hóa) |
Số hiệu: | 04/2018/HSST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 23/01/2018 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 04/2018/HSST NGÀY 23/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 23 tháng 11 năm 2016, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 02/2018/HSST ngày 05 tháng 1 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 1 năm 2018 đối với bị cáo:
Nguyễn Minh H - Sinh năm 1986; STQ: Thôn 7, xã Q, huyện H, tỉnh T; Trình độ văn hóa: 11/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Hoành T và bà Lê Thị L. Có vợ: Nguyễn Thị N, sinh năm 1993, có 01 con sinh năm 2015.
Tiền án: Ngày 17/5/2016 bị TAND huyện Hoằng Hóa xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”
Nhân thân: Ngày 24/5/2012 bị TAND huyện Hoằng Hóa xử phạt 09 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Bị cáo bị bắt để tạm giam từ ngày 20/10/2017 hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ công an huyện Hoằng Hóa, có mặt.
Người bị hại: Anh Lê Đăng T - sinh năm 1974.
Địa chỉ: Thôn 7, xã Q, huyện H, tỉnh T. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20h ngày 17/10/2017 Nguyễn Minh H đi bộ qua nhà anh Lê Đăng T SN 1974 ở cùng thôn 7, xã Q; thấy gia đình anh T đã đóng cửa, có 02 chiếc xe đạp đang dựng ngoài sân H nảy sinh ý định chiếm đoạt. Sau khi quan sát thấy không có người H trèo qua hàng rào sắt phía Đông (nơi hàng rào sắt bị gẫy các chông nhọn) đột nhập vào trong khu vực sân nhà anh T lấy trộm 01 xe đạp (loại xe địa hình mi ni nhãn hiệu GALAXY màu xanh, đen) đem đến khu vực hàng rào (nơi vị trí đột nhập) đặt ngang xe lên, trèo ra ngoài nhấc xe xuống điều khiển đi về phía UBND xã Hoằng Quý, trên đường đi H điện thoại cho Lê Như T SN 1992 ở cùng xã ra cổng UBND để đi chơi. T đi bộ ra gặp H và H rủ đi bán chiếc xe đạp. Nguyễn Minh H đạp xe đi trước, còn T đi bộ phía sau, H đạp xe đến nhà anh Nguyễn Văn C SN 1981 ở thôn T, xã P, huyện H gạ bán nhưng anh C không mua, T đứng ở ngoài chờ H; cùng lúc này có anh Trịnh Văn M SN 1971 ở thôn 6, xã Q đang ở nhà anh C hỏi bao nhiêu, H nói 600.000đ nên anh M đồng ý mua. Sau đó ra đường cùng với T về xã Q. Trên đường về đến khu vực giáp ranh giữa xã P và xã Q thì H nói là mất chiếc điện thoại và tiền bán xe chỗ anh M, cả H và T quay lại tìm nhưng không thấy và H nói T đứng đợi để H về nhà. Lúc này khoảng 21h cùng ngày Nguyễn Minh H tiếp tục quay lại nhà anh Lê Đăng T đột nhập vào sân theo vị trí cũ lấy nốt chiếc xe còn lại (loại xe địa hình mi ni nhãn hiệu STICH màu trắng, đỏ). Trên đường đi tìm nơi tiêu thụ thì gặp anh Trịnh Văn T SN 1979 ở cùng xã Q. H nhờ T chở đi có việc cá nhân, H ngồi sau vác xe mang ra khu vực Thị trấn H. Đến nơi H bảo anh T đứng chờ còn H đạp xe một mình đến nhà anh Nguyễn Văn Q SN 1975 ở tiểu khu 3, Thị trấn Hà, huyện H hỏi vay anh Q 400.000đ. H để lại chiếc xe đạp làm tin hẹn đến sáng hôm sau đến trả tiền và lấy xe đạp, do quen biết nên anh Q đồng ý đưa tiền cho H. Nhận được tiền H ra mua của một người đàn ông không rõ danh tính, địa chỉ 400.000đ được 01 gói ma túy về sử dụng cá nhân hết. H quay ra chỗ anh T đứng nhờ chở về nhà.
Sáng ngày 18/10/2017 anh Lê Đăng T đã đến công an xã Q trình báo sự việc. Nhận được tố giác Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hoằng Hóa đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu thập các tài liệu và ra thông báo truy tìm vật chứng.
Trịnh Văn M và anh Nguyễn Văn Q biết được chiếc xe đạp là do Nguyễn Minh H trộm cắp. Nên đến ngày 19/10/2017 anh M và anh Q đã báo với Cơ quan điều tra và tự giao nộp 02 chiếc xe đạp.
Biết sự việc đã bị phát giác, đến 11h ngày 19/10/2017 Nguyễn Minh H đã đến Công an xã trình diện và khai nhận hành vi phạm tội của mình.
Theo báo cáo của bị hại 02 chiếc xe đạp mua vào cuối tháng 9 năm 2017; chiếc xe nhãn hiệu GALAXY mua với giá 2.800.000; chiếc xe nhãn hiệu STICH mua với giá 2.300.000đ.
Tại kết luận định giá tài sản số: 179/KL-HĐĐG ngày 07/11/2017 của hội đồng định giá trong tố tụng hình sự UBND huyện Hoằng Hóa kết luận: Giá trị chiếc xe đạp địa hình nhãn hiệu GALAXY là 2.800.000đ, Giá trị chiếc xe đạp địa hình nhãn hiệu STICH là 2.300.000đ. Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 5.100.000đ.
Sau khi định giá cơ quan CSĐT Công an huyện Hoằng Hóa đã trả lại cho bị hại
Bản cáo trạng số 15 CTr/VKSHH ngày 02/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hóa truy tố bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên duy trì công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật nêu trên. Mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng cho bị cáo là từ 24 đến 30 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: Đã thu hồi và trả lại cho người bị hại nên miễn xét.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo;
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hoằng Hóa, Điều tra viên, VKSND huyện Hoằng Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; Các bị cáo và người bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp
Về chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Minh H đã thành khẩn khai nhận: Vào khoảng 20g ngày 17/10/2017, bị cáo đã đi bộ ra ngoài làng thôn 7, xã Q chơi, qua nhà anh Lê Đăng T là người cùng thôn, thấy hai chiếc xe đạp địa hình đang dựng trong sân bị cáo nảy sinh ý đồ trộm cắp. Bị cáo trèo tường vào nhà bê một chiếc dựng lên tường rào, rồi ra ngoài đường vác xuống đem đi bán. Bị cáo nói dối là xe của bạn nên bán cho anh Trịnh Văn M - sinh năm 1971 ở thôn 6, xã Q mua với giá 600.000đ. Trên đường về nhà bị cáo đánh rơi mất tiền vừa bán xe nên nhớ ra nhà anh T còn một chiếc xe nữa, bị cáo quay lại lấy nốt chiếc còn lại và đem đi bán được 400.000đ cho anh Nguyễn Văn Q sinh năm 1975 ở Thị trấn H, huyện H, tỉnh T.
Hai chiếc xe mà bị cáo trộm cắp được định giá = 5.100.000đ.
Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ từ người làm chứng, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thống nhất nội dung bản cáo trạng của VKSND Huyện Hoằng Hóa nên HĐXX đã đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 điều 138 của BLHS 1999.
Xét tính chất của vụ án: Nguyễn Minh H đã từng có nhân thân xấu về nhóm tội xâm phạm sở hữu, vừa có tiền án về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 34/HSST ngày 17/5/2016 của TAND huyện Hoằng Hóa, nhưng bản tính của bị cáo “ăn cắp quen tay”, tài sản của bị cáo chiếm đoạt đều là của bà con lối xóm, lợi dụng sơ hở là thực hiện ngay hành vi phạm tội. Do vậy, lần xét xử này cần nên cho bị cáo mức án nghiêm khắc hơn, để vừa giáo dục, vừa trừng trị, làm gương trong xã hội đồng thời góp phần đẩy lùi tệ nạn ma túy, vì trộm cắp tài sản là mục đích để bị cáo thỏa mãn cơn nghiện ma túy.
Xét các tình tiết tăng nặng: Bị cáo chịu hai tình tiết tăng nặng là “tái phạm” và “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS 1999.
Xét các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có bố đẻ được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng 3 nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 điều 46 Bộ luật hình sự 1999.
Trong vụ án này có anh Nguyễn Văn Q, anh Trịnh Văn M là người không biết hai chiếc xe bị cáo trộm cắp nên đã mua, hai anh tự nguyện giao nộp xe và không yêu cầu bị cáo hoàn trả lại số tiền đã mua, nên không có căn cứ xử lý là đúng với các quy định của pháp luật;
Về trách nhiệm dân sự: Hai chiếc xe đạp đã được trả lại cho người bị hại, người bị hại không yêu cầu gì nên không xem xét.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1 khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 33 Bộ luật hình sự 1999;
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Minh H: 30 (ba mươi tháng tù). Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/10/2017.
Về án phí: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điểm a, điểm c khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Minh H phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao nhận bản án hoặc niêm yết bản án.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!