Bản án số 02/2024/LĐ-PT ngày 12/09/2024 của TAND tỉnh Gia Lai về tranh chấp về xử lý kỷ luật, sa thải, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 02/2024/LĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 02/2024/LĐ-PT ngày 12/09/2024 của TAND tỉnh Gia Lai về tranh chấp về xử lý kỷ luật, sa thải, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về xử lý kỷ luật, sa thải, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Gia Lai
Số hiệu: 02/2024/LĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 12/09/2024
Lĩnh vực: Lao động
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Lê Văn V khởi kiện Công ty Vận tải và Thi công cơ giới, thuộc Tổng Công ty Xây dựng L để đòi tiền lương và các chế độ khác do bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH GIA LAI
Bản án số: 02/2024/-PT
Ngày 12/9/2024
V/v tranh chấp đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao
động
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Đặng Chí Công
Các Thẩm phán:
Ông Trần Văn Thưởng;
Bà Cao Thị Thanh Huyền
- Thư ký phiên toà: Nguyễn Thị Kim Liên, Thư Toà án nhân dân tỉnh
Gia Lai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai: Trịnh Thị Mỹ Hiền -
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 12 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử
phúc thẩm công khai vụ án lao động thụ số 01/2024/TLPT-DS ngày 17 tháng
6 năm 2024 về “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
Do Bản án lao động sơ thẩm s01/2024/LĐ-ST ngày 09 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 111/2024/-PT ngày
08 tháng 8 năm 2024 Quyết định hoãn phiên tòa số 75/2024/QĐ-PT ngày 29
tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Lê Văn V; địa chỉ: tổ dân phố 1, thị trấn x, huyện Chư
Păh, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
2. Bị đơn: Công ty vận tải và Thi công cơ giới - Tổng công ty xây dựng L;
địa chỉ: 81C L, phường K, quận N, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Tống Thanh P - Chức vụ: Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Khắc Đ - Chức vụ: TP Chính
trị (theo Giấy ủy quyền số 56/GUQ-CG ngày 06/9/2024); địa chỉ: 81C L, phường
K, quận Nx, thành phố Đà Nẵng.
3. Người làm chứng:
2
3.1. Ông Đặng Quang S; địa chỉ: Tổ dân phố 1, thị trấn Ia L, huyện Chư
Păh, tỉnh Gia Lai.
3.2. Ông Nguyễn Văn T; địa chỉ: Tdân phố 2, thị trấn Ia L, huyện Chư
Păh, tỉnh Gia Lai.
3.3. Ông Nguyễn Quốc T; địa chỉ: Tổ dân phố 2, thị trấn Ia L, huyện Chư
Păh, tỉnh Gia Lai.
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Lê Văn V và bị đơn Chi nhánh
Công ty vận tải và thi công cơ giới - Tổng Công ty xây dựng L.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Nguyên đơn ông Văn V trình bày: Tháng 8/2021, Công ty vận tải
Thi công giới - Tổng công ty xây dựng L (gọi tắt là Công ty) tuyển dụng, ông
vào làm thmáy, đến ngày 28/8/2021 ông nộp hồ sơ, trên thương lượng miệng
thời gian thử việc 01 tháng, với mức lương 10.000.000 đồng, sau thời gian
thử việc thì Công ty strả mức lương từ 15.000.000 đồng đến trên 15.000.000
đồng, các chế độ theo luật Bộ Lao động quy định, tiền ăn thì Công ty hỗ trợ
2.000.000 đồng/tháng (Công ty nấu). Sau đó ông làm hồ sơ nộp cho Công ty.
Công ty Đà Nẵng nên ông vào làm thử việc từ ngày 04/9/2021 làm tại Công
trường thủy điện Ia L mở rộng, ông lái máy xe xúc lật. Trong thời gian thử việc
ông yêu cầu Công ty ký Hợp đồng lao động, nhưng họ nói hồ sơ của ông chuyển
ra Đà Đẵng, sau thời gian thử việc Công ty sẽ gửi hợp đồng cho ông. Khi đó chỉ
nói miệng với nhau, ông làm máy xúc lật theo ca, mỗi ca 08 tiếng, công việc
do Công ty bố trí. Ông không ký Hợp đồng lao động với Công ty, vì trong thời
gian thử việc và sau thời gian thử việc ông đều yêu cầu Công ty ký hợp đồng lao
động, nhưng Công ty cho rằng đang Covid, đang bị cách ly, họ nói ông cứ làm đi.
Đến khi Công ty cho ông thôi việc thì ông yêu cầu Công ty giao nộp cho ông các
tài liệu liên quan đến ông thì Công ty gửi cho ông Hợp đồng lao động.
Quá trình làm việc do máy xúc đào bị phun nước do máy lâu ngày (trước đó
máy đã bị rồi, ông có báo cho lãnh đạo Công ty và cả kỹ thuật để sửa, khắc phục
nhưng Công ty bảo đang khó khăn, chưa máy thay thế, cố gắng làm, từ từ sửa).
Khi máy bị như vậy ông dùng 01 bình nước để chế mục đích để máy được mát,
hạn chế phun nước để bảo đảm an toàn cho máy, ông làm liên tục được 04 - 05
ngày thì đến ngày 25/02/2022 lại tiếp tục bị hiện tượng như vậy, ông yêu cầu kỹ
thuật quản lý vào xả nước hộ để máy và ông làm việc, do máy bị chết nên ông xử
lý cho máy nổ để ông đánh máy ra ngoài để cho khâu khác làm việc. Sau đó, ông
nghe lãnh đạo nói ông m lâu thế. Ông vẫn làm việc bình thường, đến cuối
tháng 02/2022 thì ông Nguyễn Văn Tiến nói miệng “mày không làm được thì
nghỉ đi”, ông cũng giải trình do máy móc hư, mấy hôm sau ông Tiến thay
người khác làm việc. Ông yêu cầu Công ty nếu cho ông nghỉ việc thì phải quyết
định thanh toán chế độ tiền lương cho ông. Tuy nhiên, mãi đến tháng 4/2022
sau khi ông yêu cầu nhiều lần thì Công ty mới gửi quyết định cho thôi việc, cùng
với quyết định thử việc và hợp đồng cộng tác viên.
Do đó, ông cho rằng Quyết định số 01.03/QĐ –GĐ ngày 01/3/2022 về việc
3
cho ông thôi việc trái pháp luật, sau thời gian thử việc thì Công ty phải
nghĩa vụ hợp đồng lao động với ông, trong đó tất cả các khoản theo quy
định để cho ông biết được để xác định có làm hay không làm, nhằm mục đích để
bảo vệ quyền lợi nghĩa vụ cho cả hai bên. Tuy nhiên ông yêu cầu nhiều lần
nhưng Công ty viện nhiều lý do trên, việc Công ty tiếp tục nhận ông làm là đã thể
hiện ý thức đã hợp đồng lao động theo thỏa thuận miệng trước đó theo Bộ Luật
lao động 2019. Quyết định này không thuộc trường hợp người lao động bị sa thải
theo quy định. Quyết định này không thể hiện người lao động vi phạm kỷ luật,
thể hiện cho thôi việc với do không nhu cầu không thỏa đáng theo quy
định pháp luật, vì Công ty vẫn đang hoạt động bình thường, Công ty cho ông thôi
việc làm ảnh hưởng đến danh dự của ông, vì vậy ông yêu cầu:
- Hủy Quyết định số 01.03/QĐ-ngày 01/3/2022 vviệc cho thôi việc,
yêu cầu Công ty nhận ông lại làm việc.
- Tại đơn khởi kiện ông V yêu cầu Công ty thanh toán cho ông thêm số tiền
59.000.000 đồng, tuy nhiên quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ông V yêu
cầu bị đơn phải thanh toán cho ông gồm các khoản:
+ Tiền lương từ tháng 09/2021 đến tháng 02/2022 (trong đó tháng 9/2021 là
10.000.000 đồng/tháng, từ tháng 10/2021 đến tháng 02/2022 là 05 tháng x
15.000.000 đồng/tháng) tổng cộng 85.000.000 đồng, Công ty trả đến nay
45.000.000 đồng, còn nợ lại 40.000.000 đồng.
+ Tiền làm thêm giờ từ tháng 09/2021 đến tháng 02/2022, tạm tính mỗi tháng
15 ngày x 06 tháng = 90 ngày, mỗi ngày 500.000 đồng thành tiền là 45.000.000
đồng (ông yêu cầu tòa án thu thập tại Công ty các giấy nhật trình máy để lãm
thêm kể từ tháng 8/2021 đến tháng 02/2022 của máy xúc lật, 930H và máy xúc
đào Koo mát su 03).
+ Khoản tiền lãi của 10.000.000 đồng lương tháng thử việc, vì đến tháng
4/2022 Công ty mới trả cho ông, tiền lãi là 500.000 đồng.
+ Khoản tiền lãi của tiền lương ttháng 10/2021 đến tháng 02/2022 (05
tháng x 15.000.000đ/tháng = 75.000.000 đồng) tiền lãi là 2.000.000 đồng.
- Đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế và chế độ nghỉ
phép năm theo quy định Bộ luật lao động.
- Yêu cầu công ty trả tiền lương từ ngày 01/3/2022 đến khi nào Công ty nhận
ông làm việc lại tại Công ty, mỗi tháng là 15.000.000 đồng.
- Tiền ăn mỗi ngày là 75.000 đồng tính từ ngày 01/3/2022 đến khi nào Công
ty nhận ông làm việc lại tại Công ty.
- Ngoài ra yêu cầu Công ty bồi thường thêm 02 tháng tiền lương về việc cho
thôi việc trái pháp luật theo Điều 41 của Bộ Luật lao động.
* Đại diện bị đơn trình bày: Cuối tháng 8/2021 ông V có nộp hồ sơ xin việc
vào Công Ty, Công ty thỏa thuận với ông V để ông V làm thử tay nghề từ ngày
06/9/2021 Công ty không trả lương, đến ngày 15/9/2021 Công ty mới nhận
ông V vào làm thử việc bắt đầu từ ngày 15/9/2021 đến ngày 15/10/2021 theo
Quyết định số: 10.9/QĐ - ngày 10/9/2021. Ngày 15/9/2021, Công ty tiến hành
ký Hợp đồng cộng tác viên số 15.9.21 với ông Lê Văn V, trong thời gian thử việc
thời gian làm việc theo Hợp đồng cộng tác viên, Công ty thỏa thuận mức lương
cơ bản mà ông V được nhận là 10.000.000 đồng/tháng và hưởng 100% tổng mức
4
lương nêu trên.
Quá trình thử việc, do trình độ năng lực hạn chế, kinh nghiệm chuyên môn
yếu kém nên Công ty không tiến hành các thủ tục để trình Tổng công ty ký Hợp
đồng lao động không xác định thời hạn tiếp tục hợp đồng với ông V dưới dạng
Hợp đồng cộng tác viên. Đến thời điểm tháng 02/2022, do vi phạm kỷ luật nghiêm
trọng nên công trường trực tiếp quản sdụng ông V đã tiến hành lập biên
bản vụ việc. Căn cứ mục 2 Điều 5; mục b Điều 7 của Hợp đồng cộng tác viên số
15.9.21 quy định bên sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng
nếu cộng tác viên vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ. Ngày 01/3/2022, công ty đã
ban hành Quyết định số 01.03/QĐ -GĐ ngày 01/3/2022 về việc cho thôi việc đối
với ông Lê Văn V. Trong quá trình làm việc, Công ty đã chi trả đầy đủ 5,5 tháng
tiền lương, tương đương số tiền 55.000.000 đồng cho ông V. Căn cứ vào các
chứng từ liên quan thì Công ty không phải chi trả bất cứ khoản tiền lương, khoản
tiền bồi thường nào cho ông V theo Hợp đồng cộng tác viên số 15.9.21. Do đó
ông V khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết không sở. Ngoài ra, bị đơn
không có ý kiến gì khác.
* Tại bản án số 01/2024/DS-ST ngày 09/5/2024 của Tòa án nhân dân huyện
Chư Păh đã quyết định:
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 32 điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 40,
Điều 91, khoản 1 Điều 147, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Ttụng dân sự; Điều
13, Điều 14, Điều 15, điểm b khoản 1 Điều 20, Điều 21, Điều 34, Điều 36, Điều
39, Điều 41 của Bộ luật lao động 2019; Khoản 4 Điều 85 Luật bảo hiểm hội;
Điều 43 Luật Việc làm 2013, Khoản 1 Điều 42 Quyết định: 595/QĐ-BHXH ngày
14/4/2017; Điều 12, Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn V đối với Công ty
vận tải Thi công giới Tổng công ty xây dựng L.
Xác định Quyết định số 01.03/QĐ- ngày 01/3/2022 của Công ty vận
tải Thi công giới Tổng công ty xây dựng L vviệc cho ông Văn V thôi
việc là trái pháp luật.
Buộc Công ty vận tải Thi công giới Tổng công ty xây dựng L phải
thanh toán cho ông V các khoản:
- Tiền lương trong những ngày ông V không làm việc theo hợp đồng đồng
cộng tác viên số 15.9.21, tính từ ngày 01/3/2022 đến ngày 15/9/2022 (6,5 tháng)
với mức lương thỏa thuận trong hợp đồng là 10.000.000 đồng/tháng là 6,5 tháng
x 10.000.000 đồng/tháng = 65.000.000 đồng.
- 02 tháng tiền lương về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái
pháp luật là: 02 tháng x 10.000.000 đồng/tháng = 20.000.000 đồng.
Tổng cộng là 85.000.000 đồng.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Văn V về việc:
- Yêu cầu Công ty vận tải Thi công giới Tổng công ty xây dựng L
phải nhận ông V trở lại Công ty làm việc.
- Yêu cầu Công ty phải trả tiền lương còn thiếu trong thời gian ông V làm
việc 40.000.000 đồng khoản tiền lãi của 10.000.000 đồng lương tháng thử
5
việc 500.000 đồng, khoản tiền lãi của tiền lương từ tháng 10/2021 đến tháng
02/2022 là 2.000.000 đồng.
- Tiền làm thêm giờ từ tháng 09/2021 đến tháng 02/2022, mỗi tháng 15 ngày
x 06 tháng = 90 ngày, mỗi ngày 500.000 đồng thành tiền là 45.000.000 đồng.
- Đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế và chế độ nghỉ
phép năm. Tiền ăn mỗi ngày là 75.000 đồng tính từ ngày 01/3/2022 đến khi nào
Công ty nhận ông làm việc lại tại Công ty.
Ngoài ra Tòa án cấp thẩm còn tuyên nghĩa vụ chịu án plao động
thẩm; tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.
* Kháng cáo:
Ngày 23/5/2024, Công ty Vận tải và thi công cơ giới đơn kháng cáo đề
nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm.
Ngày 27/5/2024, ông Văn V đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc
thẩm sửa bản án sơ thẩm.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện; các bên vẫn giữ nguyên nội dung
kháng cáo.
Kiểm sát viên phát biểu quan điểm: Về tố tụng trong quá trình giải quyết vụ
án Thẩm phán đã tuân thủ đầy đủ các thủ tục tố tụng cần thiết theo quy định của
pháp luật; tại phiên tòa Hội đồng xét xử cũng đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố
tụng kể từ khi bắt đầu phiên tòa cho đến trước khi nghị án. Về nội dung Kiểm sát
viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự,
chấp nhận một phần kháng cáo của các đương sự, hủy toàn bộ Bản án lao động
thẩm, giao hồ sơ về cho Tòa án nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai giải quyết
lại theo thủ tục sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Ông Văn V khởi kiện Công ty Vận tải Thi công giới, thuộc
Tổng Công ty Xây dựng L để đòi tiền lương các chế độ khác do bị đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động.
[2]. Điều ltổ chức và hoạt động của Tổng Công ty xây dựng L được ban
hành tại Quyết định số 3796/QĐ-BQP ngày 19/6/2015 Quyết định 3372/QĐ-
LCC ngày 27/12/2019 về việc ban hành “Quy chế tổ chức và hoạt động sản xuất
kinh doanh của đơn vị hạch toán phụ thuộc trong Tổng công ty xây dựng Lsửa
đổi lần 1 thể hiện: Công ty Vn tải và Thi công giới là đơn vị trực thuộc Tổng
Công ty Xây dựng L, đơn vị hạch toán phụ thuộc Tổng Công ty Xây dựng L,
trụ sở, con dấu riêng được mở tài khoản tại ngân hàng, kết các hợp
đồng kinh tế theo ủy quyền của Tổng công ty; thực hiện các nhiệm vụ quyền
hạn theo đúng chức năng ngành nghề hoạt động đã được đăng kinh doanh
cho Đơn vị hạch toán phụ thuộc theo sự ủy quyền, chỉ định của Tổng công ty.
[3]. Như vậy Tổng Công ty Xây dựng L một doanh nghiệp tư cách pháp
nhân, còn Công ty Vận tải Thi công cơ giới một chi nhánh của Tổng Công
6
ty xây dựng L, đơn vị hạch toán phụ thuộc, không cách pháp nhân, hoạt
động theo ủy quyền của Tổng Công ty Xây dựng L. Theo quy định tại các Điều
74, 75, khoản 1 6 Điều 84 Bộ luật Dân sự, thì Tổng Công ty Xây dựng L
quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do Công ty Vận tảiThi công cơ giới
xác lập và thực hiện.
[4]. Điều 24 Quy chế tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị
hạch toán phụ thuộc trong Tổng công ty xây dựng L quy định "...Tổng giám đốc
ủy quyền cho Giám đốc Đơn vi hạch toán phụ thuộc tuyển dụng, chấm dứt hợp
đồng đối với các đối tượng là lao động thời vụ cộng tác viên, giải quyết chế độ
đối với các đối tượng trên phù hợp với các quy định của pháp luật về lao động".
Tại Điều 10 của Điều lệ Tổ chức hoạt động của Công ty mẹ- Tổng Công ty xây
dựng L quy định: Tổng Công ty Xây dựng L quyền "Khiếu nại, tham gia tố
tụng theo quy định của Nhà nước Bộ Quốc phòng". Tại phiên tòa phúc thẩm,
đại diện Chi nhánh Công ty Vận tải Thi công giới thừa nhận: Mặc Chi
nhánh Công ty Vận tải Thi công giới được hợp đồng cộng tác viên, bố
trí công việc cho ông Văn V theo sự ủy quyền của Tổng Công ty, nhưng mọi
chế độ về tiền lương, việc làm, lao động của ông Văn V đều phải được Chi
nhánh báo cáo về Công ty mẹ - Tổng Công ty Xây dựng L quyết định. Tổng giám
đốc Tổng Công ty Xây dựng L không quyết định hoặc văn bản ủy quyền cho
Giám đốc Chi nhánh Công ty Vận tải và Thi công cơ giới tham gia tố tụng trong
vụ án này. Theo quy định tại khoản 1 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 74,
75 Bộ luật Dân sự tTổng Công ty Xây dựng L mới là đương sự trong vụ án. L
ra khi nhận đơn khởi kiện, Tòa án cấp thẩm phải yêu cầu ông Văn V sửa
đổi, bổ sung đơn khởi kiện, xác định Tổng Công ty Xây dựng L bị đơn mới
đúng quy định của pháp luật. Tòa án cấp thẩm xác định Chi nhánh Công ty
Vận tải và Thi công giới là bị đơn trong vụ án này vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của Tổng Công ty Xây
dựng L. Do vậy cần chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Gia Lai, hủy bản án thẩm, giao hồ cho Tòa án cấp thẩm giải quyết
lại theo quy định của pháp luật. Khi thụ lý, giải quyết lại, Tòa án cấp sơ thẩm cần
xác định chính xác cách tham gia tố tụng của đương sự mới đảm bảo giải quyết
vụ án đúng quy định của pháp luật.
[4]. Do án sơ thẩm bị hủy nên các nội dung kháng cáo của các đương sự sẽ
được xem xét trong quá trình giải quyết lại vụ án.
[5]. Người kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308, khoản 2 Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự:
Chấp nhận kháng cáo của ông Lê Văn V Công ty vận tải và Thi công
giới - Tổng công ty Xây dựng L;
7
1. Hủy toàn bộ Bản án lao động sơ thẩm số 01/2024/LĐ-ST ngày 09 tháng
5 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai về "Tranh chấp về
tiền lương và đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động".
2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai giải
quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
3. Về án phí: Căn cứ khoản 3 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản
3 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban
Thường vQuốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Hoàn trả cho Công ty Vận tải và thi công cơ giới, thuộc Tổng công ty xây
dựng L 300.000đ tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai thu số 0008256 ngày
28 tháng 5 năm 2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Gia Lai; THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND huyện Chư Păh;
- Chi cục THADS huyện Chư Păh;
- Người TGTT;
- Lưu HSVA, TDS, VT.
Đặng Chí Công
Tải về
Bản án số 02/2024/LĐ-PT Bản án số 02/2024/LĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 02/2024/LĐ-PT Bản án số 02/2024/LĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất