Bản án số 01/2025/DSST ngày 07/01/2025 của TAND huyện Cư M'Gar, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 01/2025/DSST

Tên Bản án: Bản án số 01/2025/DSST ngày 07/01/2025 của TAND huyện Cư M'Gar, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Cư M'Gar (TAND tỉnh Đắk Lắk)
Số hiệu: 01/2025/DSST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 07/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ngày 29/3/2022, giữa ông Võ Xuân Sơn, ông Y Jon Mlô và ông Y Kăp Hwing ký “Hợp đồng đặt cọc V/v Chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất), đối với thửa đất số 62, tờ bản đồ số 10, tại buôn Sah A, xã Ea Tul, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk (thực tế là thửa 69, tờ bản đồ số 10 đã được cấp GCNQSDĐ và đăng kí biến động mang tên H Lý Niê), với diện tích toàn bộ đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũ và mới (phần đất liền kề mà gia đình ông Y Kăp Hwing đang quản lý, sử dụng chưa được cấp GCNQSDĐ), giá chuyển nhượng 3.400.000.000 đồng.Khi đã quá 90 ngày, ông Sơn có xin gia hạn thêm ngày làm GCNQSDĐ, tuy nhiên chỉ mới cấp đổi được GCNQSDĐ đối với thửa đất số 69, tờ bản đồ số 10, còn phần thửa đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không làm được, vì đất có nguồn gốc từ công ty, nông lâm trường; vì vậy, không thực hiện được việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với 2 thửa đất nói trên. Bị đơn cho rằng ông Sơn và ông Y Jon đã vi phạm thời hạn nên hai ông phải chịu mất tiền cọc. Hiện nay bìa cũ ông Sơn đã làm cấp đổi bìa mới cho H Lý Niê, nhưng còn một phần đất bên cạnh thửa đất số 69 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên việc cấp đổi bìa chỉ hoàn thành được một phần. Tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn rút một phần đơn khởi kiện về phần phạt cọc 200.000.000 đồng. Chỉ yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đặt cọc vô hiệu và buộc bị đơn trả lại 200.000.000 đồng tiền cọc.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CƯ M’GAR
TỈNH ĐẮK LẮK
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 01/2025/DS-ST
Ngày 07 01 2025
V/v: T/c hợp đồng đặt cọc”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ M’GAR, TỈNH ĐẮK LẮK
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Đỗ Văn Tha.
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Hoàng Duy Thanh
2. Ông Trương Minh Mẫn
Thư ký phiên toà: Ông Nguyễn Văn Trung Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư M’gar tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Thùy Trang Kiểm sát viên.
Ngày 07 tháng 01 năm 2025, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện
M’gar xét xử thẩm công khai vụ án thụ lý số: 91/2024/TLST-DS ngày 26 tháng
4 năm 2024 vviệc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc” theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử số: 96/2024/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn:
- Ông Võ Xuân S, sinh năm 1977
Địa chỉ: Tổ dân phố Ea N, thị trấn Pơng D, huyện Krông B, tỉnh Đắk Lắk.
- Ông Y J M, sinh năm 1984
Địa chỉ: Buôn T 2, phường An L, thị xã Buôn H, tỉnh Đắk Lắk
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Đinh Thị V, sinh năm 1993
Có mặt.
Địa chỉ: 79 Tây S, phường Tân T, thành phố Buôn Ma T, tỉnh Đắk Lắk
(Giấy ủy quyền ngày 10/4/2024)
* Bị đơn: Ông Y K HWing, sinh năm 1946
Địa chỉ: Buôn S A, xã Ea T, huyện C, tỉnh Đăk Lăk.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Kpă T, sinh năm 1979
mặt
Địa chỉ: Buôn S A, xã Ea T, huyện C, tỉnh Đăk Lăk.
(Giấy ủy quyền ngày 16/7/2024)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị H L N, sinh năm 1991
mặt
Địa chỉ: Buôn S A, xã Ea T, huyện C, tỉnh Đăk Lăk.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Kpă T, sinh năm 1979 – mặt
Địa chỉ: Buôn S A, xã Ea T, huyện C, tỉnh Đăk Lăk.
(Giấy ủy quyền ngày 25/7/2024).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện qtrình tiến hành tố tụng đại diện theo ủy của nguyên
đơn Đinh Thị V trình bày:
Ngày 29/3/2022, ông Võ Xuân S, ông Y J M lập Hợp đồng đặt cc với ông Y
K HWing để mua thửa đất số 62, tờ bản đồ số 10, địa chỉ thửa đất tại Buôn S A,
Ea T, huyện C, tỉnh Đắk Lắk với giá 3.400.000.000 đồng (Ba tỷ bốn trăm triệu đồng),
diện tích theo bìa + diện tích mới theo hồ mới không ghi cụ thể phải đợi cấp
đổi bìa mới mới ra diện tích cụ thể. Ông S ông Y J đặt cọc cho ông Y K
200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng). Thời hạn đặt cọc kể từ ngày 29/3/2022 đến
khi xong bìa 90 ngày, hai bên thống nhất với nhau 90 ngày sau phía ông Y K sẽ
hoàn tất thủ tục pháp lý cần thiết để đi công chứng Hợp đồng chuyển nhượng sang
tên cho ông S và ông Y J. Sau khi công chứng giấy tờ ông S ông Y J trách
nhiệm giao 2.000.000.000 đồng (Hai tỷ đồng) cho ông Y K. Và sau khi hoàn tất các
thủ tục đăng ký biến động sang tên cho bên nguyên đơn trên Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất (GCNQSDĐ) ông S, ông Y J sẽ giao đủ số tiền còn lại là 1.200.000.000
đồng (Một tỷ hai trăm triệu đồng). Đồng thời thỏa thuận nếu người bán không bán
hoặc không chuyển nhượng tài sản đặt cọc trên cho người khác thì phạt cọc gấp 05
lần số tiền đã đặt cọc. Ông Y K đã đồng ý và ký vào Hợp đồng đặt cọc.
Tuy nhiên, sau 90 ngày đặt cọc như đã thỏa thuận phía ông Y K vẫn chưa hoàn
tất thủ tục pháp cần thiết để đi công chứng giấy tờ như đã thỏa thuận trước đó.
Qua tìm hiểu chúng tôi được biết: Ngoài mua toàn bộ diện tích thửa đất 62 ra hai
bên có thỏa thuận với nhau mua thêm một thửa đấtt bên thửa đất 62, có chiều dài
mặt đường 70m, chiều dài hết đất (thửa đất này chưa được cấp GCNQSDĐ). Trong
Hợp đồng đặt cọc có ghi “Diện tích theo bìa cũ + Diện tích mới theo hồ sơ mới”
bao gồm cả thửa đất này. Phía bên bán có trách nhiệm đi làm hồ sơ cấp GCNQSDĐ
còn phía bên mua trách nhiệm chi trả chi phí làm bìa (chúng tôi đã đưa 14.000.000
đồng để cấp đổi bìa mới đối với thửa 62, còn thửa đất chưa được cấp GCNQSDĐ
phía bên ông Y K hứa hẹn với nguyên đơn đang làm. Sau khi cấp đổi bìa mới đối
với thửa 62 phía ông Y K cũng không thông báo hay gọi chúng tôi đi công chứng
giấy tờ và bảo chúng tôi đợi, khi nào thửa đất còn lại được cấp GCNQSDĐ rồi đi
Hợp đồng chuyển nhượng luôn một lần. Nhưng sau đó, chúng tôi liên hệ địa chính
được biết thửa đất này không cấp GCNQSDĐ được do đất của Nông trường.
Việc giao dịch của chúng tôi có giá 3.400.000.000 đồng không thể chỉ để mua thửa
đất tại buôn, xa xôi diện tích 1.470m
2
được; diện tích thực tế của giao dịch trên
rất lớn. Như vậy, phía ông Y K đã vi phạm nghiêm trọng các thỏa thuận trong
Hợp đồng đặt cọc ngày 29/3/2022, xâm phạm nghiêm trọng quyền lợi ích hợp
pháp của nguyên đơn.
vậy, tại phiên tòa hôm nay, tôi xin rút một phần đơn khởi kiện về phần tiền
phạt cọc là: 200.000.000 đồng; đề nghị Tòa án giải quyết: Tuyên bố “Hợp đồng đặt
cọc” ngày 29/3/2022 giữa ông Y K HWing với ông Võ Xuân S, ông Y J M vô hiệu.
Buộc ông Y K phải trả cho nguyên đơn ông S ông Y J tiền đã nhận cọc
200.000.000 đồng.
Ông Kpă T là người đại diện theo ủy quyền bị đơn trình bày:
Tôi con rể ông Y K HWing. Ngày 29/3/2022 ông Y K HWing ông Y J
M, ông Võ Xuân S kết hợp đồng đặt cọc, nội dung bố tôi chuyển nhượng thửa
đất số 62, tờ bản đồ 10, tại Buôn S A, Ea T, huyện C (thực tế thửa 69, tờ bản
đồ số 10) với diện tích toàn bộ đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới và
cũ, giá chuyển nhượng 3.400.000.000 đồng. Ngoài ra, hai bên còn thỏa thuận bố tôi
được quyền tách thửa cho con gái H D Niê diện tích như sau: Rộng mặt trước: 13,5m,
mặt sau: 11,7m; Dài hết đất; Đất thổ cư 100m
2
.
Ông Y J M ông Xuân S đã đặt cọc cho bố tôi số tiền 200.000.000
đồng. Số tiền còn lại là 3.200.000.000 đồng hai bên thỏa thuận trong thời hạn 90
ngày, hai bên làm thủ tục công chứng tại quan thẩm quyền, khi hoàn tất thủ
tục công chứng bên nguyên đơn giao đ số tiền n lại cho bố tôi. Tôi xác nhận chữ
ký, chữ viết trong hợp đồng đặt cọc ngày 29/3/2022 là do bố tôi ký, xác nhận. Ông
Sơn là người có trách nhiệm m thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Khi đã quá 90 ngày, ông S đến nhà tôi xin gia hạn thêm ngày làm bìa
gia đình tôi vẫn đồng ý. Sau khi được cấp lại bìa mới thì ông S ông Y J đến
nhà tôi và xin chụp bìa mới lưu vào điện thoại, sau đó hai ông không liên hệ với gia
đình tôi nữa. Như vậy, phía ông S và ông Y J đã vi phạm thời hạn nên hai ông phải
chịu mất tiền cọc. Đến nay toàn bộ bìa cũ ông S đã làm cấp đổi bìa mới cho gia đình
tôi nhưng còn một phần thửa đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
được nên việc cấp đổi bìa chỉ hoàn thành được một phần.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, phía bị đơn đồng ý hủy hợp đồng
đặt cọc, nhưng không phải trả tiền cọc, không phải trả tiền phạt cọc nguyên đơn
đã vi phạm thời hạn đặt cọc trên 90 ngày.
Ông Kpă T người đại diện theo ủy quyền của H L Niê người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trình bày:
H L Niê là con gái ông Y K HWing. Ngày 29/3/2022 ông Y K HWing, bố vợ
tôi ông Y J M ông Xuân S kết hợp đồng đặt cọc, nội dung bố tôi
chuyển nhượng thửa đất số 62 (thực tế thửa 69), tờ bản đồ 10, tại Buôn S A,
Ea T, huyện C với diện tích toàn bộ đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
mới cũ, giá chuyển nhượng 3.400.000.000 đồng. Ngoài ra, hai bên còn thỏa thuận
bố tôi được quyền tách thửa cho con gái H D Niê diện ch như sau: Rộng mặt trước:
13,5m, mặt sau: 11,7m; Dài hết đất; Đất thổ cư 100m
2
. Hai bên có đi đo đạc cụ thể
nhưng phía ông S Y J không tên trong biên bản cam kết ngày 29/3/2022 về
việc tách đất cho con gái H D Niê.
Tại thời điểm chuyển nhượng thửa đất số 69, ông Y K đã làm hợp đồng tặng
cho con gái H L Niê đã được Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện
M’gar đăng ký biến động tên H L N. H Lý biết việc đặt cọc giữa hai bên nhưng
không ký tên trong hợp đồng.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn phía H đồng ý hủy hợp đồng
đặt cọc, không phải trả tiền cc, không phải trả tiền phạt cọc.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố
tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa của người tham gia tố
tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ cho đến trước thời điểm Hội
đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Đối với Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Nguyên đơn người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đã thực hiện đúng
đầy đủ các quyền, nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân
sự.
Bị đơn; người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chưa thực hiện đúng đầy đủ
các quyền, nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72, 73 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ các Điều 117; Điều 123; Điều 131;
Điều 408 B luật dân sự; Điều 168 Luật đất đai 2013.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Xuân S
ông Y J M.
Tuyên bố “Hợp đồng đặt cọc V/v Chuyển nhượng quyền sdụng đất tài
sản gắn liền với đất lập ngày 29/3/2022 giữa ông Xuân S, ông Y J M ông Y
K HWing vô hiệu.
Buộc ông Y K HWing trách nhiệm trả cho ông Xuân S ông Y J M
số tiền 200.000.000 đồng.
Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với phần tiền
phạt cọc 200.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Vthẩm quyền giải quyết và quan hệ pháp luật: Nguyên đơn yêu cầu Tòa
án giải quyết về tranh chấp hợp đồng đặt cọc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án nhân dân cấp huyện.
[2]. Vê nội dung vụ án: Ngày 29/3/2022, giữa ông Võ Xuân S, ông Y J M và
ông Y K HWing “Hợp đồng đặt cọc V/v Chuyển nhượng quyền sử dụng đất
tài sản gắn liền với đất), đối với thửa đất số 62, tờ bản đồ số 10, tại buôn Sah A, xã
Ea T, huyện C, tỉnh Đắk Lắk (thực tế thửa 69, tờ bản đồ số 10 đã được cấp
GCNQSDĐ và đăng kí biến động mang tên H L Niê), với diện tích toàn bộ đất theo
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũ và mới (phần đất liền kề mà gia đình ông Y
K HWing đang quản lý, sử dụng chưa được cấp GCNQSDĐ), gchuyển nhượng
3.400.000.000 đồng. Ngoài ra, hai bên còn thỏa thuận ông Y K HWing được tách
thửa cho con gái H D Niê diện tích như sau: Rộng mặt trước: 13,5m, mặt sau: 11,7m;
Dài hết đất; Đất thổ cư 100m
2
. Ông Y J M và ông Võ Xuân S đã đặt cọc cho ông Y
K số tiền 200.000.000 đồng. Số tiền còn lại 3.200.000.000 đồng hai bên thỏa
thuận trong thời hạn 90 ngày, hai bên làm thủ tục công chứng tại quan thẩm
quyền, khi hoàn tất thủ tục công chứng bên nguyên đơn giao đủ số tiền còn lại.
Khi đã quá 90 ngày, ông S xin gia hạn thêm ngày làm GCNQSDĐ, tuy
nhiên chỉ mới cấp đổi được GCNQSDĐ đối với thửa đất số 69, tờ bản đồ số 10, còn
phần thửa đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không làm được,
vì đất có nguồn gốc từ công ty, nông lâm trường; vì vậy, không thực hiện được việc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với 2 thửa đất nói trên. Bị đơn cho rằng ông
S và ông Y J đã vi phạm thời hạn nên hai ông phải chịu mất tiền cọc. Hiện nay bìa
cũ ông Sơn đã làm cấp đổi bìa mới cho H L Niê, nhưng còn một phần đất bên cạnh
thửa đất số 69 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên việc cấp đổi
bìa chỉ hoàn thành được một phần.
Tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn rút một phần đơn khởi
kiện về phần phạt cọc 200.000.000 đồng. Chỉ yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đặt
cọc vô hiệu và buộc bị đơn trả lại 200.000.000 đồng tiền cọc.
[2.1]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Đối với thửa đất số 62, tbản
đồ số 10, tại buôn S A, xã Ea T, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, tại bn bản đối chất ngày
07/11/2024 các bên đều thừa nhận thực tế đặt cọc là thửa đất số 69, tờ bản đồ số 10,
người nhận tiền cc là ông Y K HWing có sự đồng ý của chị H L Nlà người đứng
tên trên GCNQSDĐ và các bên thỏa thuận tách cho con gái ông Y K một phần diện
tích đất nằm trong phần đất sau khi cấp đổi GCNQS.
Đối với thửa đất liền kề gia đình ông Y K HWing đang quản lý, sử dụng
thửa đất số 533, tờ bản đồ số 63 tại buôn S A, Ea T, huyện C, chưa được cấp
GCNQSDĐ; thửa đất này nguồn gốc thu hồi về từ công ty, lâm nông trường trước
đây nhà nước giao đất để sử dụng, sau đó không có nhu cầu sử dụng đã bàn giao về
cho địa phương qua các thời kỳ chờ lập phương án sử dụng đất, theo công văn số
553/STNMT-CCQLĐĐ ngày 19/3/2019 của Sở TN&MT tỉnh Đắk Lắk về việc cấp
GCNQSDĐ cho hộ gia đình, cá nhân có nguồn gốc nông, lâm trường lấn chiếm đất
nông nghiệp, đất rừng; Công văn số 831/ STNMT-CCQLĐĐ ngày 16/4/2019 của
Sở TN&MT tỉnh Đắk Lắk về việc hướng dẫn bổ sung công văn số 553 STNMT-
CCQLĐĐ ngày 19/3/2019 của Sở TN&MT tỉnh Đắk Lắk về việc cấp GCNQSDĐ
cho hộ gia đình, cá nhân có nguồn gốc nông, lâm trường lấn chiếm đất nông nghiệp,
đất rừng; ng n số 4549/UBND- TNMT, ngày 20/12/2023 của UBND huyện
CưM’gar. Tại khoản 1 của công văn 4549/UBND- TNMT, ngày 20/12/2023 thể
hiện: “Tạm thời chưa xem xét cấp giấy CNQSDĐ cho hộ gia đình, nhân nguồn
gốc nhận bàn giao từ các công ty, nông lâm trường các tổ chức khác trước đây
được nhà nước giao đất để sử dụng, sau đó do không nhu cầu sử dụng đã bàn giao
về cho địa phương qua các thời kỳ (trừ các khu vực đã phương án sử dụng đất)
chờ lập phương án sử dụng đất, như vậy thửa đất số 533, tờ bản đồ số 63 tại buôn S
A, Ea T chưa được xem xét công nhận QSDĐ, chưa xem xét cấp GCNQSDĐ.
Như vậy Hợp đồng đặt cọc ngày 29/3/2022 giữa ông Võ Xuân S, ông Y J M và ông
Y K HWing, đối với thửa đất số 69, tờ bản đồ số 10, tại buôn S, xã Ea T, huyện C,
tỉnh Đắk Lắk phần đất liền kề gia đình ông Y K HWing đang quản lý, sử dụng
thửa đất số 533, tờ bản đồ số 63 tại buôn S, Ea T, huyện C, chưa được cấp
GCNQSDĐ nên không thể thực hiện được không đủ điều kiện để thực hiện việc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 1 Điều 168, khoản 1 Điều
188 Luật đất đai 2013 và Điều 408 Bộ luật dân sự. vậy, Hợp đồng đặt cọc lập
ngày 29/3/2022 giữa ông Xuân S, ông Y J M ông Y K HWing đã vi phạm
điều cấm của pháp luật nên vô hiệu.
Về hậu quả pháp của hợp đồng hiệu: Không làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quyền nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
Khi hợp đồng hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả
cho nhau những gì đã nhận.
[2.2]. Bị đơn cho rằng phía nguyên đơn (bên mua) có trách nhiệm cấp đổi bìa
đối với thửa đất 69, tờ bản đồ số 10 làm thủ tục cấp mới phần đất liền kề chưa
được cấp, đến nay phần đất chuyển nhượng thêm này vẫn chưa được cấp GCNQSDĐ
đã gia hạn để cho nguyên đơn đi làm, nhưng nguyên đơn không làm được, lỗi này
do phía nguyên đơn. Bị đơn đồng ý hủy hợp đồng đặt cọc nhưng không phải trả
tiền cọc và phạt cọc là không có căn cứ như đã phân tích ở mục [3.1].
Vì vậy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đề nghị Tòa án tuyên bố hợp đồng
đặt cọc lập ngày 29/3/2022 giữa ông Võ Xuân S, ông Y J M và ông Y K HWing
hiệu và buộc bị đơn phải trả lại cho nguyên đơn 200.000.000 đồng tiền cọc là có căn
cứ.
[3]. Nguyên đơn rút một phần đơn khởi kiện đối với khoản tiền phạt cọc
200.000.000 đồng tự nguyện, phù hợp với pháp luật nên cần đình chỉ một phần vụ
án đối với yêu cầu này.
[4]. Ván phí: Ông Y K HWing được miễn nộp án phí dân sự thẩm do
người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí dân sự sơ thẩm.
[5]. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn được Tòa án chấp nhận nên bị đơn ông Y K HWing phải chịu 1.500.000 đồng.
Ông Xuân S, ông Y J M được nhận lại số tiền này khi thu được từ ông Y K
HWing.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 147; khoản 1 Điều 157; Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản
2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí,
lệ phí Tòa án.
Áp dụng các Điều 117; Điều 123; Điều 131; Điều 408 Bộ luật dân sự; Điều
168; Điều 188 Luật đất đai 2013.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Xuân S
ông Y J M
Tuyên bố Hợp đồng đặt cọc V/v Chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất lập ngày 29/3/2022 giữa ông Xuân S, ông Y J M ông Y K
HWing vô hiệu.
Buộc ông Y K HWing trách nhiệm trả cho ông Xuân S ông Y J M
số tiền 200.000.000 đồng.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, bên phải
thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi
suất tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với phần tiền
phạt cọc 200.000.000 đồng.
Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Bị đơn ông Y K HWing phải chịu
1.500.000 đồng tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ. Ông Võ Xuân S và ông Y J
M được nhận lại 1.500.000 đồng tiền tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ sau
khi thu được từ ông Y K HWing.
Về án phí: Ông Y K HWing được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Xuân S được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 10.000.000
đồng theo biên lai thu số AA/2023/007520 ngày 15/4/2024 tại Chi cục thi hành án
dân sự huyện CưM’gar.
Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày
kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành
án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận
thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bcưỡng chế thi
hành án theo qui định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành
án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Đăk Lăk; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đăk Lăk;
- VKSND huyện Cư M’gar;
- Chi cục THADS huyện Cư M’gar;
- Đương sự;
- Lưu HS, VPCQ. Đỗ Văn Tha
Tải về
Bản án số 01/2025/DSST Bản án số 01/2025/DSST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất