Bản án số 56/2025/DS-ST ngày 25/04/2025 của TAND huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 56/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 56/2025/DS-ST ngày 25/04/2025 của TAND huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Bình Đại (TAND tỉnh Bến Tre)
Số hiệu: 56/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị P về việc “Tranh chấp Hợp đồng đặt cọc”. 2. Hủy hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo “giấy đặt cọc ngày 26/7/2023” giữa bà Nguyễn Thị P và ông Trần Văn R và Hủy hợp đồng đặt cọc mua bán nhà ở theo “tờ bán nhà ngày 26/7/2023” được ký kết giữa bà Nguyễn Thị P đối với ông Bùi Văn T, bà Huỳnh Thị S, anh Huỳnh Văn H, chị Bùi Thị T1.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 56/2024/DS-ST
Ngày: 25 4 2025.
V/v tranh chấp: “Hợp đồng
đặt cọc”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN , TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Phạm Quốc Duy.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Trần Thanh Phong
Ông Đặng Hoàng Mích.
- Thư ký phiên Tòa: Bà Lê Thị Kim Tuyết –Thư ký Tòa án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện tham gia phiên tòa: Ông
Phan Hoàng Quí- Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 4 năm 2025, ti TrsTòa án nhân n huyện , tỉnh Bến
Tre xét xử thẩm công khai vụ án thụ lý số: 228/2024/TLST DS ngày 31 tháng 5
năm 2024 về việc “ Tranh chấp hp đng đặt cọc” theo Quyết đnh đưa vụ án ra xét
xsố 57/2025/QĐXXST-DS ny 13 tng 3 năm 2025, Quyết định hoãn phn tòa
số 64/2025/QĐST DS ngày 03/4/2025, giữa c đương s:
* Nguyên đơn:Nguyễn Thị P, sinh năm 1975 (Vắng mặt)
Địa chỉ: p HL, xã , huyện , tỉnh Bến Tre.
Bà P y quyn hn toàn cho ông Nguyễn Đình Long P1, sinhm 1990, địa
chỉ p PT, PT1, huyện , tỉnh Bến Tre tham gia ttụng.
* Bđơn: Ông Trần Văn R, sinh m 1958. (Có mặt)
Địa chỉ: p PT, xã PT1, huyện , tnh Bến Tre.
* Ni có quyền li, nghĩa v ln quan:
1/ Ông Bùi Văn T, sinh năm 1965. (Vắng mặt)
2/ Bà Huỳnh Thị S, sinh năm 1968. (Vắng mặt)
3/ Anh Huỳnh Văn H, sinh năm 1984. (Vắng mặt)
Cùng đa chỉ: p PT, PT1, huyn , tỉnh Bến Tre.
4/ Chị Bùi Thị T1, sinh năm 1993. (Vắng mặt)
Địa chỉ: p PT, PT1, huyện , tnh Bến Tre.
2
Địa chỉ đăng tng t hiện tại: Km 4, thị trn Càng Long, huyện ng
Long, tỉnh Trà Vinh.
5/ Ông Mai Hng T2, sinh m 1975 (Vắng mặt)
Địa chỉ: p HL, xã , huyện , tỉnh Bến Tre.
Ông T2 đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt đ ny 15/7/2024
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện đngày 08/08/2023 và trong quá trình giải quyết ván
cũng như tại phiên tòa, ông Nguyễn Đình Long P1 đại din theo ủy quyền ca
ngun đơn bà Nguyễn Thị P trình y:
Vào ngày 26/7/2023 P và ông Bùi Văn T vợ ông T là bà Huỳnh Thị
S giấy bán nhà đmua bán phần đất căn nhà gắn liền trên đất tại thửa
số 31, tờ bản đồ số 01, tại PT1, huyện . Hai bên thỏa thuận giá
450.000.000 đồng. P đã đặt cọc số tiền 50.000.000 đồng. Nhưng do phần đất
này ông T S mua từ ông Trần Văn R chưa thực hiện thủ tục sang tên
đất từ ông R sang cho ông T S vì vậy giữa P, ông R, ông T, S thống
nhất là ông R sẽ trực tiếp làm thủ tục sang tên sổ đỏ qua cho bà.
Để đảm bảo việc ông R sẽ thực hiện thủ tục sang tên thửa đất qua cho bà
P, nên giữa bà P và ông R có làm một hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng thửa đất
số 31, tờ bản đồ số 01, tại PT1 số tiền cọc là 50.000.000 đồng. Sau đó giữa
P và ông R có thỏa thuận miệng là P sẽ trả cho ông R thêm số tiền
85.000.000 đồng nữa (là số tiền ông T, S còn nợ ông R) để ông R thực
hiện việc tách thửa đất cho bà P.
Ngày 29/7/2023 ông R đi cùng với một người giới thiệu cán bộ đo
đạc tiến nh đo đạc tách thửa, nên ông yêu cầu bà trả số tiền 85.000.000
đồng như đã thỏa thuận. Nhưng do ông R đưa cho bà giấy chứng nhận Quyền sử
dụng đất bản sao y, trong đó thể hiện đất đang thế chấp tại ngân hàng, đồng
thời theo theo được biết thì thửa đất này đã tiến hành tách thửa, đồng thời
diện tích đất 120m2 thì không thể tách thửa đất để làm giấy chứng nhận
Quyền sử dụng đất cho bà được. Vì vậy bà P không đồng ý đưa số tiền
85.000.000 đồng cho ông R. Bà P đã nhiều lần yêu cầu ông R trả số tiền đặt cọc
50.000.000 đồng nhưng ông R không đồng ý.
P khởi kiện u cầu: Hủy hợp đồng đặt cọc (giấy đặt cọc) lp ngày
26/7/2023 được kết giữa P ông Trần Văn R và yêu cầu ông R trả lại
tiền đặt cọc là 50.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi suất.
* Tại đơn sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện ngày 03/01/2025, P yêu cầu
như sau:
- Hủy hợp đồng đặt cọc (giấy đặt cọc) lập ngày 26/7/2023 được kết
giữa bà và ông Trần Văn R.
- Hủy hợp đồng n nhà (tờ n nhà) ngày 26/7/2023 được kết giữa
các ông bà Bùi n T, Huỳnh Thị S, Huỳnh Văn H, Bùi Thị T1.
3
- Buộc ông Trần Văn R liên đới cùng các ông bà Bùi Văn T, Huỳnh Thị S,
Huỳnh Văn H, Bùi Thị T1 phải trả lại tiền đặt cọc 50.000.000 đồng (Năm
mươi triệu đồng), không yêu cầu tính lãi suất.
* Trong quá trình giải quyết v án cũng như tại phiên Tòa, bị đơn ông
Trần Văn R trình bày:
Ông người đứng tên giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất tại thửa 114,
tờ số 12 do ủy ban nhân dân huyện cấp ngày 06/7/2011 (thửa đất này ông R
cho rằng ông đã tách một phần thành thửa 31, tbản đồ số 01), vào năm 2022
ông bán cho ông Bùi Văn T Huỳnh ThS một phần đất tại thửa 31, tờ
bản đồ số 01 nhưng chưa làm thủ tục chuyển nhượng chỉ làm giấy tay s
đỏ ông đang thế chấp ngân hàng. Sau đó ông T và bà S đã cất nhà sinh sống trên
phần đất này, nhưng ông T bà S còn nợ lại ông số tiền mua bán đất
80.000.000 đồng đến nay chưa trả. Vào ngày 26/7/2023, ông T và S bán
phần đất tại thửa 31, tờ số 01 cho bà P, ông T2, lúc này thì hai bên có gặp ông để
hỏi về giấy tờ, lúc này ông ông T2, P cùng với ông T S làm một tờ
hợp đồng đặt cọc và tờ bán nhà với nội dung ông bán phần đất tại thửa 31, tờ 01
cho P, còn gia đình ông T và S (cùng với 02 người con Huỳnh Văn H,
Bùi Thị T1) cùng kí tên bán nhà. Sau đó ông T2, P có đưa tiền cọc
50.000.000 đồng cho con của ông T, sau khi đếm lại thì con ông T đưa số tiền
50.000.000 đồng lại cho ông T. Ông người chứng kiến sự việc này, hn
toàn không nhận số tiền 50.000.000 đồng từ ông T2 và bà P
Nay qua yêu cầu khởi kiện của P buộc ông liên đới cùng với gia đình
ông T trả số tiền đặt cọc là 50.000.000 đồng thì ông không đồng ý.
* Trong quá trình giải quyết vụ án, người quyền lợi nghĩa vụ liên
quan ông Bùi Văn T trình bày:
Vào ngày 27/06/2023 ông S bán 01 cái nhà 01 miếng đất
ngang 5 mét dài 25 mét với số tiền 400.000.000đ (Bốn tm triệu đồng) cho
Ông T2 P ngụ ấp PT, PT1, huyện , tỉnh Bến Tre. Ông T2 P
đồng ý mua và đặt cọc 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) ông và bà S có nhận
đủ số tiền cọc tại nhà ông và hai bên có thỏa thuận bên bán đổi ý thì đền cọc gấp
05 lần, bên mua đổi ý thì mất cọc. Bên mua ông T2 giao từ ngày đặt cọc
đến 04 ngày nữa sẽ giao đủ số tiền còn lại ông T2 cho ông thời gian 09
ngày tiếp theo tính từ ngày giao đủ toàn bộ số tiền còn lại để giao nhà và đất.
Khi đặt cọc xong đến ngày hẹn 04 ngày sau ông T2 không đến giao
đủ số tiền còn lại, và từ thời gian đó cho đến nay ông không gặp được ông T2 và
cũng không liên lạc được. Trong khi đó gia đình ông rất khó khăn rất cần số tin
bán đất đó để trang trải cuộc sống vậy mà từ lúc đặt cọc là ngày 27/06/2023 đến
nay ông vẫn không nhận được toàn bộ số tiền còn lại, đến tháng 12/2023 ông đã
bán lại cho người khác phần nhà và đất này.
Nay qua yêu cầu khởi kiện của P thì ông thừa nhận ông S
nhận 50.000.000 đồng tiền cọc từ ông T2 P, tuy nhiên do chính ông T2, P
4
vi phạm thỏa thuận trong hợp đồng hoàn cảnh gia đình ông hiện tại đang rất
khó khăn nên ông không đồng ý trả số tiền cọc này cho bà P.
* Đối với Huỳnh Thị S, chị Bùi Thị T1, anh Huỳnh Văn H vắng mặt
trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên không có lời trình bày.
* Trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Mai Hoàng T2 trình bày:
Ông P vợ chồng, ông đứng ra thay mặt P để thực hiện các
giao dịch mua bán đất với ông R cùng với gia đình ông T như vợ ông trình bày
trong vụ án, số tiền đặt cọc là do P bỏ ra, các giấy tờ đặt cọc, tờ bán nhà thì
ông R, cũng như gia đình ông T đều ký với bà P, nên ông không có yêu cầu khởi
kiện trong vụ án này, P được toàn quyền khởi kiện trong vụ án này, do đó
đề nghị Tòa án không đưa ông vào tham gia tố tụng trong vụ án với cách
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
* Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện , tỉnh Bến Tre tham gia
phiên Tòa phát biểu ý kiến:
- Về tuân theo pháp luật tổ tụng:
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng những người
tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ tuân theo đúng quy định
của pháp luật. Riêng người quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại
phiên Tòa không thực hiện theo quy định tại Điều 70, 73 của Bộ luật Tố tụng
dân sự.
- Về nội dung: Căn cứ các Điều 26, 35 Điều 39 BLTTDS, Điều 116,
117, 119, 131, 166, 328 BLDS 2015, Điều 166 Luật đất đai:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
+ Hủy hợp đồng mua bán nhà theo tờ bán nhà ngày 26/7/2023 và giấy đặt
cọc mua bán đất ngày 26/7/2023.
+ Buộc ông Bùi Văn T Huỳnh Thị S liên đới trả lại tiền cọc cho
P là 50.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu c tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên Tòa, ý kiến của Kiểm sát
viên, Hội đồng xét xử nhận định:
* Về tố tng:
[1]. Vquan hệ pháp luật tranh chấp:
Ngày 26/7/2023 giữa ông R P kết hợp đồng đặt cọc với nhau
về việc chuyển nhượng Quyền sử dụng đất, đồng thời cùng thời điểm nêu trên
gia đình ông T, bà S, anh H, chị T1 có ký tờ bán nhà trên đất này. Nội dung giấy
đặt cọc và tờ bán nhà cùng ngày 26/7/2023 đều thể hiện nguyên đơn đặt cọc
50.000.000 đồng đchuyển nhượng đất mua nhà trên đất, sở phải làm hai
5
giấy vì đất là do ông R đứng tên, còn nhà trên đất là của ông T cùng gia đình xây
dựng, về tiêu đề các bên ghi “tờ bán nhà” nhưng nội dung bên trong thể hiện
nhận cọc để bán nhà trên đất. Nay bà P khởi kiện yêu cầu hủy 02 giấy đặt cọc và
tờ bán nhà nêu trên đồng thời yêu cầu ông R, ông T, bà S, anh H, chị T1 liên đới
trả lại stiền đặt cọc 50.000.000, không tính lãi suất. Do đó quan hệ pháp
luật tranh chấp trong vụ án này được xác định Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”
theo quy định tại Điều 328 của Bộ luật n sự m 2015 và khoản 3 Điều 26 của
Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Theo Giấy xác nhận ngày 09 tháng 8
năm 2023 của Công an PT1, huyện , tỉnh Bến Tre xác nhận ông Trần Văn
R, Huỳnh Thị S, ông Bùi Văn T đăng thường trú và đang sinh sống tại
ấp PT, PT1, huyện , tỉnh Bến Tre. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35,
điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, thì vụ án thuộc thẩm quyền
giải quyết theo trình tự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện .
[3] Chị Bùi Thị T1 trước đây khi nguyên đơn khởi kiện đăng
thường trú tại p PT, PT1, huyện , tỉnh Bến Tre (chung hộ khẩu hộ gia
đình với các ông bà Bùi Văn T, Huỳnh Thị S, Huỳnh Văn H) tại thời điểm thụ lý
vụ án ngày 31/5/2024 nhưng trong qtrình giải quyết vụ án thì hiện tại đã cắt
hộ khẩu về đăng ký thường trú tại Khóm 4, thị trấnng Long, huyn Càng Long,
tỉnh T Vinh ngày 24/01/2025 (theo biên bản xác minh củaa án nhận dân huyện
ny 24/4/2025 tại Công an xã PT1) nng kng tng báo cho nguyên đơn và
Tòa án biết n được xem ctình giấu địa chỉ nên a án vẫn giải quyết ván
theo quy định của pháp lut p hợp quy định tại điểm e khon 1 Điều 192 Bộ lut
ttụng n s.
[4] Người quyền lợi nghĩa vụ ln quan là ông Mai Hoàng T2 trình
bày ý kiến tờ tự khai ngày 15/7/2024 ông không có yêu cầu gì trong vụ án này
yêu cầu Tòa án không đưa ông tham gia tố tụng với cách người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Tuy nhiên qua quá trình giải quyết vụ án xét
thấy khi giải quyết các vấn đề tranh chấp giữa các bên liên quan đến quyền
lợi, nghĩa vụ của ông nên Tòa án vẫn đưa ông vào tham gia tố tụng với cách
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phù hợp với quy định tại Khoản 4
Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự. Do ông đơn xin giải quyết vắng mặt
phần trình bày không tham gia tố tụng nên n cứ Điều 228 của Bộ luật Tố tụng
n sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông T2
[5]. Quá trình giải quyết vụ án, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan, ông Bùi Văn T, Huỳnh Thị S, chị i Thị T1, anh Huỳnh Văn H đã
được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để xét xử, nhưng đều vẫn vắng mặt
không có lý do. Do đó, Tòa án xét xử vắng mặt những người nêu trên là phù hp
quy định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.
* Về nội dung:
[5]. Quá trình giải quyết vụ án các bên đương sự đều thừa nhận giữa P
và ông R, cùng gia đình ông T, bà S, anh H, chị T1 giao kết hợp đồng đặt cọc
6
với nhau đchuyển nhượng thửa đất ghi trong hợp đồng đặt cọc thửa 31, tờ
bản đồ số 1 (không ghi tọa lạc tại đâu) tài sản căn nhà tường trên phần đất
này, các bên lập thành 02 giấy viết tay cùng đề ngày 26/7/2023, cụ thể:
- Giy đặt cọc được kết giữa Nguyễn Thị P ông Trn n R
- Tờ bán nhà được kết giữa Nguyễn Thị Phung ông Bùi Văn T,
Huỳnh Thị S, anh Huỳnh Văn H và chị Bùi Thị T1.
Thực chất thửa đất nêu trên cùng nhà trên đất đều do ông Bùi Văn T cùng
vợ Huỳnh Thị S quản sử dụng, tuy nhiên về phần đất thì ông T, S
mua của ông R nhưng chưa làm thủ tục sang tên còn nợ tiền ông R nên các
bên thống nhất làm 02 giấy nêu trên cho phù hợp về mặt giấy tờ chứ thực chất
chủ thể giao dịch để chuyển nhượng quyền sử dụng đất là giữa bà P và ông T,
S. Vì ông T còn nợ tiền ông R trong việc chuyển nhượng thửa đất này trước đây
nên ông R sẽ thực hiện các thủ tục chuyển nhượng để chuyển tên thẳng qua cho
bà P để khi ông T lấy tiền chuyển nhượng sẽ trả tiền cho ông.
[6]. Xét hợp đồng đặt cọc ngày 26/7/2023 có chữ của ông Trần Văn R
và tờ bán nhà ngày 26/7/2023.
- Về hình thức: Các bên tham gia kết hợp đồng đặt cọc quyền chuyển
nhượng quyền sử dụng đất (giấy đặt cọc ngày 26/7/2023) tài sản gắn liền với
đất (tờ bán nhà ngày 26/7/2023) đầy đủ năng lực pháp luật năng lực hành
vi dân sự, tự nguyện tham gia giao dịch. Nội dung mục đích của hợp đồng
không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Hình thức của hợp
đồng được lập thành văn bản, đầy đủ chữ của chủ sử dụng đất, không
công chứng, chứng thực. Tuy nhiên đối với hợp đồng đặt cọc, pháp luật không
yêu cầu phải công chứng, chứng thực nên không vi phạm quy định về hình thức
của hợp đồng. Như vậy, hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
tài sản gn liền với đất ngày 26/7/2023 được giao kết giữa các bên hợp pháp
theo quy định tại các điều 116, 117, 119 Điều 328 của Bộ luật dân sự
hiệu lực thi hành vi các bên.
- Về nội dung:
+ Giấy đặt cọc ngày 26/7/2023 (bút lục số 59):
Giấy đặt cọc thể hiện nội dung: Ông R bán cho P một miếng đất
thuộc thửa 31, tờ bản đồ số 1, không ghi thửa đất tọa lạc tại đâu, bên mua ông R
nhận cọc 50.000.000 đồng, bên bán đổi ý thì phải bồi thường gấp 05 lần cọc, bên
mua đổi ý thì mất cọc. Người bán ông Rtên, bên mua P không ký tên bên
mua, giấy đặt cọc này ông R viết, nhưng nội dung các bên thống nhất nên mặc
P không tên vào mục người mua nhưng giấy đặt cọc này vẫn giá trị
pháp lý để ràng buộc các bên.
Các bên trình bày thì số liệu thửa 31, tờ bản đồ số 1 do ông R cung cấp
viết vào giấy đặt cọc chứ nguyên đơn cũng không nắm thửa nào tại
thời điểm chuyển nhượng, giấy chứng nhận quyền sdụng đất ông R đang thế
chấp tại Ngân hàng.
7
Qua quá trình tố tụng tại phiên tòa, các tài liệu các bên cung cấp, lời trình
bày cũng như đối chất giữa các đương sự, Công văn trả lời số 3437 của Chi
nhánh văn phòng đăng đất đai huyện cũng như kết quả của việc xem xét
thẩm định tại chỗ phần đất các bên thực hiện hợp đồng đặt cọc ngày 23/01/2025
của Tòa án nhân dân huyện thì xác định được phần đất các bên dự định
chuyển nhượng khi hợp đồng đặt cọc thuộc 01 phần thửa số 114, tờ 12
PT1 do ông Trần Văn R đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thời điểm hiện tại phần đất này đã được tách thành 02 thửa thửa 258, tờ 12
cho ông Bùi Văn (nhận chuyển nhượng từ ông R) thửa 257, tờ 12 cho
Trần Thị Kim Nhanh (con ông R, thực tế thửa 257 ông R cũng đã bán cho nhiều
người nng chưa đủ diều kiện tách thửa, ông R để chị Nhanh đứng tên để sau
này đủ điều kiện thì chuyển lại cho những người này), theo số liệu hiện nay
thì thửa đất đặt cọc hiện 01 phần của thửa 257 do chNhanh đứng tên (tuy
nhiên ông T hiện cũng đã bán cho người khác).
Thực chất tại thời điểm chuyển nhượng ông R có 02 giấy chứng nhận nằm
giáp ranh với nhau thửa 114, tờ 12 thửa 31, t12 (cùng cấp giấy chứng
nhận ngày 06/7/2011, nay là thửa 255, tờ 12), nhưng lúc đó ông đang thế chấp
tại Ngân hàng do đó ông R có sự nhầm lẫn về thửa đất nên ông ghi vào giấy đặt
cọc thửa 31, tờ 01. Như vậy thể xác định rằng thửa đất các bên trong
hợp đồng đặt cọc thực tế một phần của thửa 114, tờ 12 PT1 được cấp cho
ông R ngày 06/7/2011
Trong giấy đặt cọc không nêu cụ thể diện tích chuyển nhượng bao
nhiêu (chiều dài chiều ngang đất), không quy định quyền nghĩa vụ ca các
bên đối với giấy đặt cọc này như thời điểm giao đủ tiền, thời điểm bàn giao đất,
thời điểm làm các thủ tục chuyển nhượng theo quy định.
+ Tờ bán nhà ngày 26/7/2023 (bút lục 60):
Tờ bán nhà này được lập để đính kèm với giấy đặt cọc nêu trên, tại vì thực
chất phát sinh giao dịch đặt cọc giữa hai chủ thể P ông T, S, tuy
nhiên do ông T chưa được cấp giấy (vẫn còn ông R đứng tên) nên các bên mới
lập 02 giấy là giấy đặt cọc (để chuyển nhượng đất) và tờ bán nhà (để bán tài sản
trên đất, mà cụ thể là nhà trên đất).
Tờ bán nhà ng thể hiện các nội dung trùng lập với giấy đặt cọc như
nhận cọc 50.000.000 đồng để bán n nhà đất (không ghi thửa, tờ bản đồ)
Nếu bên bán đổi ý thì bồi thường gấp 5 lần, bên mua đổi ý mất cọc, cũng không
ghi trách nhiệm cụ thể về quyền và trách nhiệm của các bên như giấy đặt cọc.
Giấy đặt cọc này do ông R viết, ông TS cùng các tnh viên gia
đình ký tên. Không ai có ý kiến gì về nội dung giấy này, ông T đồng ý có ký tên,
các thành viên của gia đình ông T như S, chị T1, anh H vắng mặt trong suốt
quá trình tố tụng của vụ án đã được ông T thông báo nên mặc nhiên thừa
nhận các chữ trong tờ bản nhà này của mình vậy nội dung trong giấy
này có giá trị ràng buộc đối với các bên.
[7] Quá trình thực hiện hợp đồng:
8
Tại thời điểm kết giấy đặt cọc, tờ bán nngày 26/7/2023 P trình
bày đã đưa số tiền đặt cọc 50.000.000 đồng cho ông R, sau đó ông R đưa li cho
ông T, trong khi đó ông T, và ông R trình bày chính ông T là người nhận số tiền
của bà P. Các bên đều thống nhất sau đặt cọc thì về đất không có thỏa thuận thời
điểm thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vì chờ hồ sơ đầy đủ
để hợp đồng chuyển nhượng, không ghi thời gian thực hiện vào giấy đặt
cọc, còn đối với nhà thì ông T trình bày các bên thỏa thuận miệng là trong vòng
04 ngày nguyên đơn phải giao đủ tiền chuyển nhượng 400.000.000 đồng, sau đó
09 ngày thì ông T sẽ giao nhà nhưng điều này không có ghi vào trong hợp đồng,
nguyên đơn bác bỏ phần trình bày này của ông T, ông T không căn cứ nào
chứng minh cho phần trình bày của mình.
Ba ngày sau khi giấy đặt cọc, ông R kêu đo đạc xuống đo phần đất
chuyển nhượng và đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bản sao) cho
nguyên đơn t thấy giấy này đang thế chấp tại Ngân hàng nông nghiệp chi
nhánh Hóc Môn, cũng như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đất lúa nên với
diện ch chuyển nhượng khoảng 5mx24m không đủ diện tích để tách thửa theo
quy định, ông R đảm bảo sẽ thực hiện được tuy nhiên nguyên đơn không đồng ý
nên không mua nữa, còn thông T cho rằng trách nhiệm của ông giao nhà khi
P giao đủ tiền chuyển nhượng trong vòng 04 ngày sau khi tờ bán nhà,
chuyện sang sổ trách nhiệm của P ông R, sau 04 ngày P không giao
đủ tiền nên mất cọc, và hiện tại ông đã bán phần nhà và đất này cho người khác
ông Ngô Văn Hải anh H cũng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất (do chưa lên đất thổ cư, không đủ diện ch tách thửa).
[8] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử xét thấy.
[8.1] Đối tượng thực hiện của hợp đồng đặt cọc đất nhà, cả đất
nhà lúc hợp đồng do ông T S đang quản sử dụng, như vậy ông T,
S chủ thể chính của giao dịch đặt cọc để chuyển nhượng các tài sản nêu
trên, tiền đặt cọc ông T người nhận cuối cùng (mặc sự khai không
thống nhất, nhưng người cuối cùng nhận tiền ông T), số tiền chuyển nhượng
sau này còn lại nếu chuyển nhượng hoàn thành thì ông T sẽ người nhận số
tiền này, còn đối với ông R giấy đặt cọc với P chỉ ông R người đứng
tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chứ thực chất giữa bà P và ông R không
phát sinh giao dịch đặt cc với nhau.
Đối tượng của hợp đồng đặt cọc giữa các bên tại thời điểm đặt cọc thì
phần đất đang thế chấp tại Ngân hàng, cũng như không đủ diện tích tách thửa
theo quy định của pháp luật, hiện tại phần đất này cũng đã chuyển nhượng cho
người khác. Do đó hợp đồng đặt cọc được giao kết ngày 26/7/2023 được giao
kết giữa các bên gồm giấy đặt cọc được kết giữa P ông R, tờ bán nhà
giữa P ông T, bà S, anh H, chị T1 về nội dung của hp đồng đối
tượng không thể thực hiện nên bị hiệu toàn bộ theo quy định tại khoản 1,
Điều 408 của Bộ Luật Dân sự.
[8.2] Về lỗi dẫn đến hợp đồng vô hiệu do cả 02 bên bởi lẽ:
9
Lỗi của hai bên là không thể hiện rõ cụ thể quyền và nghĩa vụ của mỗi bên
trong hợp đồng không ấn định thời gian thực hiện nghĩa vụ của mỗi bên để
thực hiện được việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên khi phát sinh tranh
chấp các bên đổ lỗi cho nhau người không thực hiện đúng cam kết, các bên
không căn cứ chứng minh cho việc lỗi của đối phương để dẫn đến hợp đồng
vô hiệu.
- Đối với bên đặt cọc P không tìm hiểu thông tin phần đất chuyển
nhượng loại đất gì, thửa đất nào, diện tích bao nhiêu, đất thế chấp đâu
hay không và với diện tích đất nhà cỡ 5mx24m so với vị trí thửa đất thì
nguyên đơn phải biết được đủ diện tích tách thửa hay không đã tiến
hành giao tiền cọc, không kêu ông R đưa bản gốc giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất để đối chiếu, xem xét c vấn đề trên.
- Ông R, ông T bên nhận đặt cọc kng cung cấp đầy đủ thông tin về
thửa đất cho bên P biết (cụ thể ông R còn ghi sai số thửa, tờ bản đồ đất
chuyển nhượng), cả hai ông đều biết với diện tích 5x24m sẽ không tách thửa
được mà vẫn tiến hành nhận đặt cọc để chuyển nhượng thửa đất này (vì trước đó
chính ông T mua của ông R cũng bị vướng vấn đề này nên chưa tách thửa
được), giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang thế chấp tại Ngân hàng Nông
nghiệp chi nhánh Hóc Môn nên sẽ chưa chuyển nhượng được, ông T cho rằng
trách nhiệm của ông giao nhà đất trên thực tế nhận tiền với thời hạn 04
ngày, còn việc làm giấy tờ, thủ tục chuyển nhượng do P, ông R tthực
hiện thể hiện sự thiếu trách nhiệm. Ông T chủ thể chính để thực hiện hợp
đồng đặt cọc nên ông phải trách nhiệm cùng với ông R trong việc thực hiện
các thủ tục chuyển nhượng cung cấp thông tin cho nguyên đơn nếu hoàn
thành việc chuyển nhượng ttiền cọc tiền chuyển nhượng ông nhận, còn
trách nhiệm giao kết hợp đồng đúng thủ tục quy định thì ông lại đẩy cho người
khác. Mặc khác khi phát sinh các giao dịch dân sự thì quyền nghĩa vụ của
mỗi bên sẽ đi đôi với nhau, ông T cho rằng thỏa thuận trong thời hạn 04 ngày
bên mua P không giao đủ tiền sẽ mất cọc không hp bởi lẽ việc hoàn
thành thủ tục chuyển nhượng để bên P được đứng tên sẽ mất nhiều thời gian
hơn không thể 04 ngày hoàn thành thủ tục được trường hợp này không
biết đến khi nào (đất đang thế chấp ngân hàng, không đủ diện tích tách thửa).
[8.3] Hậu quả của hợp đồng hiệu
Căn cứ Điều 131 Bộ luật Dân sự thì giao dịch dân sự hiệu không làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền nghĩa vụ dân scủa các bên kể từ thời
điểm giao dịch dân sự được xác lập. Khi hp đồng dân sự hiệu thì các bên
khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp nêu trên nguyên đơn chưa nhận đất của ông T nên không
trách nhiệm giao trả đất, n ai người nhận tiền cọc của nguyên đơn thì phải
trách nhiệm trả lại tiền cọc cho nguyên đơn. Số tiền 50.000.000 đồng ông T
người nhận cuối cùng sử dụng số tiền này, mặc khác thực chất giao dịch
trong hợp đồng giữa nguyên đơn ông T (tài sản nhà đất ông T đang
quản sử dụng), ông R không nhận tiền của P, cũng không có giao dịch
10
trên thực tế đối với P, ông đứng tên đất nên làm các thủ tục để hợp thức
hóa giấy tờ cho ông T, P nên ông R không có trách nhiệm liên đới với ông T
trả số tiền trên cho bà P.
Đối với bà S là vợ của ông T vợ chồng ông tuy không đăng kết
hôn nhưng thực chất sinh sống trên phần đất và nhà dự định chuyển nhượng cho
nguyên đơn, ông T trình bày lấy tiền đặt cọc để trị bệnh cho S, S cũng
ký tên vào tờ bán nhà nên bà S phải có trách nhiệm liên đới với ông T trong việc
trả lại số tiền nhận cọc của bà P.
Còn đối với anh H, chị T1 không có nhận tiền cọc của nguyên đơn, anh H,
chị T1 cũng không sinh sống tn phần đất dự định chuyển nhượng cho
nguyên đơn, nguyên đơn khi giao tiền cọc thấy anh H, chị T1 nhà nên kêu
tên nguyên đơn muốn đảm bảo đầy đủ các thành viên gia đình ông T
không khiếu nại về sau nên anh H, chị T1 không trách nhiệm liên đới
cùng ông T, bà S trả số tiền cọc lại cho nguyên đơn.
Từ những căn cứ nêu trên HĐXX chấp nhận 01 phần yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn buộc ông i Văn T Huỳnh Thị S liên đới trả lại tiền cọc
là 50.000.000 đồng cho bà P là phù hợp với quy định của pháp luật.
- Ghi nhận sự tự nguyện bà P không yêu cầunh lãi suất.
[8.4] Ông Mai Hoàng T2 chồng của P, cùng P thực hiện các giao
dịch đặt cọc với ông R, ông T, S tuy nhiên trong các giấy đặt cọc, tờ bán nhà
ông R, ông T, S đều thể hiện chỉ giao dịch với P, ông T2 xác định tiền đặt
cọc là của P, bà P được toàn quyền khởi kiện trong vụ án, ông không có tranh
chấp hay ý kiến trong vụ án này, do đó ông T, S chỉ trách nhiệm trả
lại số tiền cọc 50.000.000 đồng cho bà P.
[9] Trong suốt quá trình giải quyết vụ án các bên chỉ tranh chấp về hợp
đồng đặt cọc, không tranh chấp về đất, giữa ông R ông T tồn tại một hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trước đây nhưng không yêu cầu giải
quyết về hợp đồng này nên Hội đồng xét xử không xét đến. Mặc khác đối tượng
của hợp đồng chuyển nhượng hiện ông T cũng đã chuyển nhượng cho người
khác, tuy nhiên do các bên không tranh chấp về quyền sử dụng đất nên Tòa
án không đưa người này vào tham gia tố tụng với cách người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
[10]. Đối với lời trình bày của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện
v quan điểm giải quyết vụ án: phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử
nên được chấp nhận.
[11]. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26
của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.
- Do yêu cầu khởi kiện của P về việc Hủy hợp đồng đt cọc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất theo “giấy đặt cọc ngày 26/7/2023giữa Nguyễn
11
Thị P ông Trần Văn R được chấp nhận nên ông R phải chịu án pkhông
giá ngạch 300.000 đồng. Tuy nhiên do ông R người cao tuổi đơn xin
miễn án phí nên được miễn án phí.
- Do yêu cầu khởi kiện của P về việc Hủy hợp đồng đặt cọc mua bán
nhà theo “tờ bán nhà ngày 26/7/2023được kết giữa Nguyễn Thị P đối
với ông Bùi Văn T, Huỳnh Thị S, anh Huỳnh Văn H, chị Bùi Thị T1 được
chấp nhận nên ông T, S, anh H, chị T1 phải liên đới chịu án phí không có giá
ngạch là 300.000 đồng.
- Do ông T, S phải liên đới trả lại số tiền cọc 50.000.000 đồng cho
nguyên đơn nên ông T, S phải liên đới chịu án phí g ngạch là:
50.000.000 đồng x 5%=2.500.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 116, 117, 119, 131, 166, 328 Bluật dân s; Điều
166 Luật đất đai năm 2013;
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1
Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 147 của Bộ
luật Tố tụng dân sự.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí lệ phí Tòa án. Tuyên
xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị P về việc
“Tranh chấp Hợp đồng đặt cọc”.
2. Hủy hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo “giấy đặt
cọc ngày 26/7/2023 giữa Nguyễn Thị P ông Trần Văn R Hủy hợp
đồng đặt cọc mua bán n theo “tờ bán nhà ngày 26/7/2023” được kết giữa
Nguyễn Thị P đối với ông Bùi Văn T, bà Huỳnh Thị S, anh Huỳnh Văn H,
chị Bùi Thị T1.
3. Buộc ông Bùi Văn T, Huỳnh Thị S phải nghĩa vụ liên đới trả cho
Nguyễn Thị P số tiền đặt cc là 50.000.000 (Năm mươi triệu) đồng.
Ghi nhận sự tự nguyện ca Nguyễn Thị P không yêu cầu trả lãi suất
của số tiền nêu trên.
4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị P về việc u
cầu ông Trần Văn R, anh Huỳnh Văn H, chị Bùi Thị T1 trong việc liên đới cùng
ông Bùi Văn T, Huỳnh Thị S trả số tiền đặt cọc 50.000.000 (Năm mươi
triệu) đồng.
5. Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp
quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ny
đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền
phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi
12
hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức
lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.
6. Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch:
Ông Bùi Văn T, Huỳnh Thị S, anh Huỳnh Văn H chị Bùi Thị T1 phải
liên đới chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng.
Ông Trần Văn R được miễn án phí.
- Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:
Ông Bùi Văn T Huỳnh ThS phải liên đới chịu là 2.500.000 (Hai
triệu năm trăm nghìn) đồng.
Nguyễn Thị P được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp
1.550.000 (Một triệu năm trăm năm mươi nghìn) đồng theo biên lai thu tiền số
0001802 ngày 30 tháng 5 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện ,
tỉnh Bến Tre.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì
người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án,
quyền yêu cầu thi nh án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án
theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi
hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nguyễn Thị P, ông Trần Văn R có quyền kháng cáo bản án trong thời
hạn 15 (mười lăm ngày), kể từ ngày tuyên án. Đối với ông Bùi Văn T, bà Huỳnh
Thị S, anh Huỳnh Văn H, chị Bùi Thị T1, ông Mai Hoàng T2 vắng mặt tại phiên
tòa, quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày
nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
* Nơi nhận:
- TAND tỉnh Bến Tre (png KTNV THA);
- VKSND huyện ;
- Chi cục THADS huyện ;
- Các đương sự;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Phạm Quốc Duy
13
Tải về
Bản án số 56/2025/DS-ST Bản án số 56/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 56/2025/DS-ST Bản án số 56/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất