Bản án số 224/2025/DS-PT ngày 28/05/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 224/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 224/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 224/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 224/2025/DS-PT ngày 28/05/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 224/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ngày 28 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 38/2025/TLPT-DS ngày 05/03/2025 về việc “Yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 79/2024/DS-ST ngày 23 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam bị kháng cáo. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 224/2025/DS-PT
Ngày: 28/5/2025
V/v: “Yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở
quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Võ Thị Ngọc Dung
Các Thẩm phán: Ông Vũ Thanh Liêm
Bà Phan Thị Vân Hương
- Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Minh Hoàng, Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên tòa:
Ông Đỗ Xuân Ân - Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 38/2025/TLPT-DS ngày
05/03/2025 về việc “Yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất”. Do
Bản án dân sự sơ thẩm số 79/2024/DS-ST ngày 23 tháng 9 năm 2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Nam bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1337/2025/QĐ-PT
ngày 12 tháng 5 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1966; Địa chỉ: thôn H, xã T,
huyện N, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Phạm Xuân L, sinh
năm 1981; Địa chỉ: H Đ, phường T, thành phố H, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
- Bị đơn: Ông Bùi Ngọc A, sinh năm 1964; Địa chỉ: thôn H, xã T, huyện
N, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Trần Khánh
V - Công ty L3 thuộc Đoàn luật sư thành phố Đ. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/. Anh Nguyễn Thành L1, sinh năm 1986 (đã chết),
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ: Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1966;

2
2/. Chị Nguyễn Thị K, sinh năm 1988.
3. Ông Nguyễn Thành M, sinh năm 1965.
4. Bà Nguyễn Thị S1, sinh năm 1972.
Cùng địa chỉ tại thôn H, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam
5. Nguyễn Thị C, sinh năm 1975.
Địa chỉ: thôn 12, xã Khuê Ngọc Điền, huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk
6. Anh Nguyễn Thế C1, sinh năm 1989.
7. Anh Nguyễn Thành D, sinh năm 1983.
8. Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1986.
Cùng địa chỉ: thôn H, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam.
9. Bà Trần Thị T, sinh năm 1958.
10. Anh Bùi Ngọc T1.
11. Anh Bùi Ngọc L2.
Cùng địa chỉ: Thôn H, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam
12. Ủy ban nhân dân huyện N, tỉnh Quảng Nam.
Địa chỉ: Khối phố C, thị trấn N, huyện N, tỉnh Quảng Nam.
Đều vắng mặt.
Người kháng cáo: bị đơn ông Bùi Ngọc A.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm, bên nguyên đơn trình bày:
Gia đình ông Nguyễn Thành S2 quản lý sử dụng diện tích khoảng 500m2
đất tại thôn H, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam từ năm 1985, đã làm nhà ở, vật
kiến trúc và trồng cây cối, hoa màu trên đất. Ông Nguyễn Thành S2 đăng ký kê
khai theo hồ sơ 64/CP diện tích 510m2, loại đất ở và đất vườn, thuộc thửa đất số
473, tờ bản đồ số 4; theo hồ sơ đo mới cơ sở dữ liệu nay là thửa đất số 647, tờ bản
đồ số 23 diện tích thực tế 450m2. Sau khi ông S2 chết, bà S tiếp tục quản lý sử
dụng, không có ai tranh chấp.
Đến năm 2021, bà S làm thủ tục đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thuộc thửa đất nêu
trên. Lúc này ông Bùi Ngọc A là người sử dụng thửa đất liền kề với bà đã tranh
chấp diện tích đất thuộc thửa đất nêu trên và cho rằng thửa đất nêu trên là của ông
A sử dụng, năm 1983 cho vợ chồng ông S2 bà S mượn và yêu cầu bà trả lại toàn
bộ diện tích đất thuộc thửa đất số 473.
Ngày 11/11/2021, UBND xã T đã tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai
theo đơn của ông Bùi Ngọc A nhưng hòa giải không thành. Tuy nhiên, ông A

3
không thực hiện quyền khởi kiện tại Tòa án các cấp mà chỉ tranh chấp để cản trở
bà làm thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Xét thấy, ông Bùi Ngọc A tranh chấp quyền sử dụng đất đối với thửa đất
số 473, tờ bản đồ số 4 tại thôn H, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam đã cản trở
quyền sử dụng đất của bà, bà không thực hiện được các quyền của người sử dụng
đất, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà S. Do đó, bà S làm đơn khởi
kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Bùi Ngọc A phải chấm dứt hành vi tranh
chấp, cản trở quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 473, tờ bản đồ số 4 tại thôn
H, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam với bà theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình tố tụng, bị đơn không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn vì lý do:
Ông A cho rằng việc kê khai đăng ký của nguyên đơn đối với thửa đất số
473 theo sơ đồ 64/CP thì ông không có tranh chấp vì thửa đất này nằm ngoài diện
tích đất mà ông đã kê khai đăng ký và được cấp giấy chứng nhận. Đối với Quyết
định thừa nhận quyền sử dụng đất số 3507 ngày 01/7/2003 của Ủy ban nhân dân
huyện N về việc thừa nhận quyền sử dụng quyền sử dụng đất cho hộ ông S2 tại
thửa đất số 473, tờ bản đồ số 4: ông A không có ý kiến gì vì thửa đất 473 độc lập
với thửa đất của ông, phần đất của ai thì người đó sử dụng. Tuy nhiên thửa đất
ông S2 kê khai theo Nghị định 64/CP là thửa đất số 473, tờ bản đồ số 4, hiện nay
đã sạt lở. Vị trí đất hiện nay có nhà ở của bà S ở là do ông A kê khai đăng ký và
đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Chồng bà S có mượn đất của
ông A để ở nhờ trong quá trình biển sạt lở nên phần diện tích đất hiện bà S đang
sử dụng 450m2 có 300m2 thuộc thửa đất số 464, tờ bản đồ số 4 đã được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông A, không phải là phần đất của ông S2
kê khai đăng ký theo hồ sơ Nghị định 64/CP. Do đó ông A không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của bà S. Ông A đề nghị hủy Quyết định thừa nhận quyền sử dụng
đất số 3507 ngày 01/7/2003 của Ủy ban nhân dân huyện N vì căn cứ ban hành
quyết định không rõ ràng, không đúng quy định của pháp luật.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn xác định ông A không
tranh chấp toàn bộ diện tích với bà S mà ông A cũng chỉ tranh chấp 300m2 trong
tổng diện tích đất 450m2 bà S đang sử dụng. Ông A không tranh chấp đối với
thửa đất số 473 của hộ bà S. Về nguồn gốc đất chưa được xác định rõ ràng, ông
S2 khai là nhận chuyển nhượng đất của ông A. Ông S2 không kê khai theo Chỉ
thị 299. Ông S2 chỉ ở trên đất từ năm 1985 trở về sau. Kê khai theo Nghị định 64
thì mỗi bên kê khai hai thửa đất độc lập. Ông A đã được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nhưng hiện nay diện tích đất giảm và hình thể đã thay đổi, các
cạnh khác không thay đổi, chỉ có cạnh tiếp giáp với thửa đất bà S thay đổi. Thửa
đất của bà S đã bị biển xâm thực, gia đình bà S đã lùi vào ở nhờ trên phần đất của
ông A. Điều này thể hiện là có Vi bằng do ông A nộp tại phiên tòa. Đối với Quyết
định thừa nhận quyền sử dụng đất số 3507 ngày 01/7/2003 của Ủy ban nhân dân
huyện N là không hợp pháp vì căn cứ pháp lý không rõ ràng, việc niêm yết được

4
thực hiện trước khi công dân có đơn. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử tuyên hủy
Quyết định thừa nhận quyền sử dụng đất số 3507 ngày 01/7/2003 của Ủy ban
nhân dân huyện N và bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng với bên
nguyên đơn gồm các ông bà Nguyễn Thành L1, Nguyễn Thị K, Nguyễn Thành
M, Nguyễn Thị X, Nguyễn Thị C, Nguyễn Thị C2, Nguyễn Thành D, Nguyễn Thị
N thống nhất với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng với bên bị
đơn thống nhất với ý kiến của bị đơn.
- Ủy ban nhân dân huyện N xác định: việc cấp Quyết định thừa nhận quyền
sử dụng đất cho ông S2 đối với diện tích đất tranh chấp là đúng chủ trương, rõ về
nguồn gốc và có căn cứ pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận
yêu cầu hủy quyết định cá biệt của ông Bùi Ngọc A.
- Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 79/2024/DS-ST ngày 23 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã quyết định:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị S
đối với bị đơn Bùi Ngọc A về việc buộc ông Bùi Ngọc A chấm dứt hành vi cản
trở quyền sử dụng đất đối với 473, tờ bản đồ số 4, tại thôn H, xã T, huyện N, tỉnh
Quảng Nam (nay là thửa số 647, tờ bản đồ 23).
2. Không chấp nhận ý kiến của ông Bùi Ngọc A về việc hủy Quyết định
thừa nhận quyền sử dụng đất số 3507 ngày 01/7/2003 của Ủy ban nhân dân huyện
N về việc thừa nhận đất của ông Nguyễn Thành S2 và bà Nguyễn Thị S đối với
thửa đất số 473, tờ bản đồ số 4, tại thôn A (nay là thôn H), xã T, huyện N.
Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí, chi phí thẩm định, quyền kháng
cáo và quyền, nghĩa vụ thi hành án theo quy định của pháp luật.
*Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 02/10/2024, bị đơn ông Bùi Ngọc A kháng
cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
*Tại phiên tòa phúc thẩm:
Ý kiến của người kháng cáo: đề nghị HĐXX phúc thẩm không xem Quyết
định 3507 là chứng cứ, xem xét các chứng cứ bác yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn.
Ý kiến của nguyên đơn: giữ nguyên bản án sơ thẩm đã tuyên.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng:
- Về việc tuân theo pháp luật từ khi thụ lý vụ án, quá trình giải quyết vụ
án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện
đảm bảo đúng các quy định tố tụng.
- Về nội dung: Đề nghị HĐXX bác kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên Bản
án sơ thẩm.

5
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt những tham gia tố tụng theo
theo quy định của Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự.
[1.2] Tòa án cấp sơ thẩm xác định đúng quan hệ tranh chấp và thẩm quyền
giải quyết vụ án theo quy định tại các Điều 26, 34, 37, 39 Bộ luật tố tụng Dân sự;
khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng Hành chính.
[2] Về nội dung kháng cáo:
[2.1] Diện tích đất tranh chấp là 450m2 thuộc thửa đất số 647, tờ bản đồ
23, loại đất ở nông thôn và cây lâu năm, bà Nguyễn Thị S đang quản lý sử dụng,
yêu cầu bị đơn ông Bùi Ngọc A chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất đối
với thửa đất số 473, tờ bản đồ số 4. Ông Bùi Ngọc A cho rằng trong diện tích
450m2 đó thì có 300m2 đất hộ ông A được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất ngày 26/8/1998, Thửa đất của bà S đã bị nước biển xâm thực, bà S mượn đất
ông, lùi vào sử dụng 300m2 đất của ông, nên yêu cầu bà S trả lại.
[2.2] Tại hồ sơ kê khai đăng ký theo Nghị định 64/CP, nguồn gốc thửa đất
số 473, tờ bản đồ số 4 (thửa đất số 647, tờ bản đồ 23), diện tích 510m2 tại thôn H,
xã T, huyện N do ông Nguyễn Thành S2 (chồng của bà Nguyễn Thị S) kê khai
đăng ký.
[2.3] Cũng tại hồ sơ kê khai đăng ký theo Nghị định 64/CP, ông Bùi Ngọc
A đứng tên kê khai, đăng ký đối với thửa đất số 464, tờ bản đồ số 4, diện tích
3.807m2 và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1998; diện
tích thực tế ông A sử dụng là 3.338,6m2, ít hơn diện tích được cấp theo Giấy
CNQSD đất, nguyên nhân diện tích chênh lệch là do sự thay đổi ranh giới trong
quá trình sử dụng đất (theo công văn số 307/CNVPĐKĐĐ ngày 04/8/2023 của
Chi nhánh Văn phòng Đ).
[2.4] Tại Văn bản số 450/CNVPĐK ngày 17/10/2023 của Chi nhánh văn
phòng Đăng ký Đất đai huyện Đ về việc cung cấp thông tin đất đai, thể hiện tại
mục 3: “Diện tích tranh chấp 450m2 , thửa đất số 647, tờ bản đố số 23 (theo
CSDL) không thuộc phạm vi diện tích 2.848m2 thửa đất số 648, tờ bản đồ số 23
do ông Bùi Ngọc A kê khai đăng ký theo hồ sơ Cơ sở dữ liệu”. Như vậy, thể hiện
diện tích đất tranh chấp và diện tích đất ông A kê khai thuộc hai thửa đất riêng
biệt.
[2.5] Thửa đất số 473, tờ bản đồ số 4 có diện tích 510 m2 gia đình bà S là
xây nhà ở, vật kiến trúc, trồng cây cối và sử dụng ổn định từ trước năm 1993 đến
nay. Toàn bộ tài sản trên Thửa đất 647 là của nguyên đơn bà Nguyễn Thị S theo

6
biên bản thẩm định tại chỗ ngày 07/10/2022. Từ đó, có căn cứ xác định thời điểm
sử dụng ổn định Thửa đất này của hộ bà S kể từ trước năm 1993 đến nay, theo
quy định tại Điều 21 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngay 15/5/2014 của Chính phủ
về quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật Đất đai năm 2013. Riêng ông
A thừa nhận tại phiên tòa thực tế không có sử dụng thửa đất này.
[2.6] Kết quả xác minh tại UBND xã T thì Thửa đất số 472 cùng Thửa đất
473 nằm dọc bờ biển của ông S2 và bà S không hề bị xâm thực mà hiện nay vẫn
còn và thuộc thửa đất 578, tờ bản đồ số 23 (CSDL). Do đó, việc khai nại của bên
bị đơn và cung cấp tài liệu danh sách cho rằng diện tích đất của hộ bà S bị nước
biển xâm lấn là không phù hợp.
[2.7] Từ các mục phân tích nêu trên, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị S về việc buộc ông Bùi
Ngọc A phải chấm dứt hành vi tranh chấp, cản trở quyền sử dụng đất đối với diện
tích đất tranh chấp 450m2, thửa đất số 647, tờ bản đồ số 23 tại thôn L, xã T, huyện
N, tỉnh Quảng Nam là có căn cứ.
[2.8] Đối với Quyết định thừa nhận quyền sử dụng đất số 3507 của UBND
huyện N, tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn không yêu cầu xem xét nên HĐXX phúc
thẩm không để cập.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo ông Bùi Ngọc A không cung
cấp được tài liệu chứng cứ nào mới làm thay đổi bản chất vụ việc nên HĐXX
phúc thẩm không có căn cứ chấp yêu cầu kháng cáo của ông.
[4] Chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Đà Nẵng tại phiên tòa.
[5] Về án phí: bị đơn kháng cáo không được chấp nhận phải chịu án phí
phúc thẩm, tuy nhiên được xét miễn do tuổi già.
[6] Các phần quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo,
kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng Dân sự; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy
định về mức thu, miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Bùi Ngọc A, giữ nguyên
Bản án Dân sự sơ thẩm số 79/2024/DS-ST ngày 23 tháng 9 năm 2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Nam.
2. Án phí phúc thẩm: ông Bùi Ngọc A được miễn theo quy định.
7
3. Các phần quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo,
kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN THÀNH VIÊN THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Thanh Liêm Phan Thị Vân Hương Võ Thị Ngọc Dung
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 21/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm