Bản án số 11/2025/DS-PT ngày 07/05/2025 của TAND tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 11/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 11/2025/DS-PT ngày 07/05/2025 của TAND tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Quảng Ngãi
Số hiệu: 11/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 07/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Hủy bản án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NGÃI
Bản án số: 11/2025/DS-PT
Ngày: 07-5-2025
V/v tranh chấp hợp đồng đặt cọc
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Huỳnh Thị Hồng Hoa
Các Thẩm phán: Bà Trịnh Thị Thu Lan
Bà Trần Thị Túc
- Thư ký phiên tòa: Bà Trà Thảo Vân Linh - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi: Nguyễn Thị
Kim Yến - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 18 tháng 3, ngày 28 tháng 4 và ngày 07 tháng 5 năm 2025
tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử phúc thẩm công khai vụ án
thụ số 69/2024/TLPT-DS ngày 28 tháng 11 năm 2024, về việc: Tranh chấp
hợp đồng đặt cọc”.
Do bản án dân sự thẩm số 93/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 13/2025/QĐ-PT ngày
24 tháng 01 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đình Q - sinh năm 1964; địa chỉ: Số A đường
N, tổ B, phường Q, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Anh Mai Hùng C - sinh
năm 1994; địa chỉ: Thôn V, xã P, thị Đ, tỉnh Quảng Ngãi (theo văn bản ủy
quyền ngày 27/8/2024).
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn V - sinh năm 1976 và bà Nguyễn Thị H - sinh
năm 1978; cùng địa chỉ: Đường số C, khu công nghiệp Q, tổ A, phường Q,
thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
2
Người bảo vệ quyền li ích hợp pháp của bị đơn: Ông Đỗ Đình N -
sinh năm 1984; Luật sư của Công ty L2; địa chỉ: Số A đường V, phường B, quận
B, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người quyền li, nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Văn M - sinh năm
1959; địa chỉ: Tổ A, phường Q, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn V Nguyễn Thị H là bị đơn.
(Anh C, bà H, ông N và ông M có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện đề ngày 22/4/2024; đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung
ngày 08/7/2024; các tài liệu trong hồ vụ án tại phiên tòa, người đại
diện theo uỷ quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 24/6/2022, nguyên đơn ông Nguyễn Đình Q Hp đồng đặt
cc v vic chuyn nhượng quyn s dng đất tài sn gn lin vi đất vi b
đơn ông Nguyễn Văn V Nguyễn Thị H (sau đây gi là Hp đồng đặt cc).
Nguyên đơn đồng ý nhn chuyn nhượng quyn s dng tha đất s 88, t bn
đồ s 12, din tích 570,9m
2
, mc đích s dng: đất trng cây lâu năm, ta lc ti
phường Q, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi vi giá 295.000.000 đồng. Thc hin
tha thun ti Hp đồng đặt cc, nguyên đơn đã đặt cc cho ông V, bà H s tin
280.000.000 đồng, nguyên đơn đã giao tiền và ông V, H đã nhn đủ tin cc.
Hai bên hn 30 (ba mươi) ngày k t ngày ký Hp đồng đặt cc thì v chng
ông V, H phi làm th tc chuyn nhượng quyn s dng đất nêu trên ti t
chc hành ngh công chng cho nguyên đơn.
Tuy nhiên đến nay, đã rt nhiu ln nguyên đơn liên h yêu cu ông V, bà
H thc hin nghĩa v chuyn nhượng tha đất s 88 như tha thun nhưng ông
V, bà H vin nhiu lý do để tránh thc hin các nghĩa v đối vi nguyên đơn.
Sau đó, nguyên đơn được biết tha đất s 88, t bn đồ s 12, din tích 570,9m
2
,
mc đích s dng: đất trng cây lâu năm, đất ta lc ti phường Q, thành phố Q,
tỉnh Quảng Ngãi được Sở Tài nguyên i trường tỉnh Q cp cho h ông
Phạm Văn M ngày 30/12/2017.
Khi biết v chng ông V, H chưa xác lp quyn s dng đất đối vi
tha đất nêu trên ông V, bà H không có quyn chuyn nhượng tài sn trên
cho bt c ai nên nguyên đơn đã liên h để yêu cu v chng ông V, bà H tr li
cho nguyên đơn s tin 280.000.000 đồng đã đặt cc và yêu cu hy Hp đồng
đặt cc ngày 24/6/2022 nhưng ông V, H không thc hin. Nay, ngun đơn
yêu cu Toà án nhân dân thành ph Qung Ngãi, tnh Qung Ngãi gii quyết:
3
1. Tuyên b Hp đồng đặt cc v vic chuyn nhượng quyn s dng đất
tài sn gn lin vi đất ngày 24/6/2022 gia ông Nguyễn Đình Q ông
Nguyễn n V, Nguyễn Thị H đối vi tha đất s 88, t bn đồ s 12
phường Q, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi là vô hiu.
2. Buc ông Nguyễn Văn V, Nguyễn Thị H liên đới chu trách nhim
tr li cho ông Nguyễn Đình Q s tin đặt cc 280.000.000 đồng.
* Bị đơn ông Nguyễn Văn V, bà Nguyễn Thị H trình bày:
Ngày 17/4/2019, ông Nguyễn Văn V đã đặt cọc số tiền 170.000.000 đồng
cho ông Phạm Văn M, sinh năm 1959; địa chỉ: Tổ A, phường Q, thành phố Q để
nhận chuyển nhượng thửa đất số 88, tờ bản đồ số 12, diện tích 570,9m
2
, phường
Q, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi (sau đây viết tắt thửa đất số 88) theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với
đất số CL577157 đng tên hộ ông Phạm Văn M. Giữa ông V, H với ông M
thỏa thuận shợp đồng chuyển nhượng thực hiện thủ tục sang tên ông V,
H. Tuy nhiên, khi ông V H muốn thực hiện việc chuyển nhượng thửa
đất nêu trên thì ông Nguyễn n V bị liệt ½ người nên việc sang tên bị trì hoãn.
cần tiền đchữa bệnh cho ông V qua tìm hiểu biết ông Nguyễn Đình Q
cũng đang nhu cầu nhận chuyển nhượng quyền sdụng đất nên vào ngày
24/6/2022 ông V, H đồng ý chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản
khác gắn liền với thửa đất số 88 cho ông Nguyễn Đình Q với số tiền
295.000.000 đồng, ông Q s đặt cọc trước stiền 280.000.000 đồng, còn lại
15.000.000 đồng sẽ thanh toán khi hoàn tất thủ tục sang tên cho ông Q theo Điều
4 Hợp đồng đặt cọc, ông V và bà H thống nhất sẽ trích ra 8.000.000 đồng để ông
Q liên hệ với ông M thực hiện thủ tục sang tên. Số tiền còn lại ông Q phải
thanh toán cho ông V, H 7.000.000 đồng. Ông Q trình bày không biết ông
Phạm Văn M đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hoàn toàn
không đúng sự thật. Vì khi ký hợp đồng đặt cọc, bị đơn đã trình bày toàn bộ tình
trạng pháp lý của thửa đất số 88 cho ông Q biết và ông Q đã đồng ý đặt cọc. Khi
ông Q liên hệ ông Phạm Văn M để làm thủ tục sang tên thì được biết thửa đất s
88 cấp cho hộ ông M, hộ ông M tên ông Đ hiện sống Thành phố Hồ Chí
Minh (không biết họ tên, địa chỉ cụ thể); ông Đ đòi ông Q phải đưa số tiền
30.000.000 đồng cho ông Đ, ông Đ mới đồng ý ký thủ tục sang tên nhưng ông Q
không đồng ý (bị đơn cũng chỉ nghe nói ông Đ có tên trong hộ của ông M). Nay,
bị đơn không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
* Lun c Luật sư bảo v quyn và li ích hp pháp ca b đơn: Vic ông
Q khi kin yêu cu tuyên Hp đồng đặt cc v vic chuyn nhượng quyn s
dng đất và tài sn gn lin vi đất ngày 24/6/2022 gia ông Q và v chng ông
4
V, H hiu. Buc v chng ông V, bà H phi liên đới chu trách nhim
tr li cho ông Q s tin 280.000.000 đồng hoàn toàn không căn c, nh
hưởng đến quyn li ích hp pháp ca b đơn. do: Hp đồng đặt cc v
vic chuyn nhượng quyn s dng đất và tài sn gn lin vi đất ngày
24/6/2022 gia ông Q và b đơn được lp trên tinh thn t nguyn, th hin ý
chí, nguyn vng ca các bên, không s la di, ni dung giao dch không vi
phm điu cm pháp lut, không trái đạo đức hi, hoàn toàn đáp ng theo
quy định pháp lut phía ông Q đã thanh toán cho b đơn hơn hai phn ba giá
tr chuyn nhượng, b đơn cũng đã giao Giy chng nhn quyn s dng đất cho
ông Q bàn giao din ch đất nêu trên cho ông Q s dng thì giao dch này
phi được công nhn. B đơn t nguyn h tr cho ông Q 15.000.000 đồng để
ông Q thc hin th tc sang tên cho ông Q.
* Người quyền li nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn M trình bày:
Thửa đất số 88 được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q cấp đứng tên hộ Phạm
Văn M, số phát hành CL577157, số vào sổ cấp GCN CS14263 vào ngày
30/12/2017 và đã được ông chuyển nhượng cho vợ chồng ông V, bà H vào ngày
17/4/2019; ông đã nhận đủ tiền, không làm thủ tục công chứng vì hai bên có mối
quan hthân thiết đã giao bản chính quyền sử dụng đất bàn giao thửa đất
nêu trên cho vợ chồng ông V, bà H nên ông không còn liên quan đến thửa đất số
88.
* Bản án số 93/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Quảng Ngãi đã tuyên xử:
1. Chp nhn yêu cu khi kin ca nguyên đơn ông Nguyễn Đình Q.
1.1. Tuyên b Hp đồng đặt cc v vic chuyn nhượng quyn s dng
đất và tài sn gn lin vi đất ngày 24/6/2022 gia ông Nguyễn Đình Q vi ông
Nguyễn Văn V, bà Nguyễn Thị H đối vi tha đất s 88, t bn đồ s 12,
phường Q, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi là vô hiu.
1.2. Buc ông Nguyễn Văn V, Nguyễn Thị H cùng nghĩa v tr cho
ông Nguyễn Đình Q s tin đặt cc 280.000.000 đồng.
1.3. Ghi nhn s t nguyn ca nguyên đơn ông Nguyễn Đình Q v vic
tr li cho b đơn ông Nguyễn Văn V, Nguyễn Thị H bn chính Giy chng
nhn quyn s dng đất, quyn s hu nhà và tài sn khác gn lin vi đất ca
tha đất s 88, t bn đồ 12, phường Q, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi, din tích
570,9m
2
, đất trng cây lâu năm được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Q cp
đứng tên h Phạm Văn M, sinh năm 1959, địa ch tổ B, phường Q, thành phố Q,
5
tỉnh Quảng Ngãi, s phát hành CL577157, s vào s cp GCN CS14263 o
ngày 30/12/2017.
Ngoài ra, bn án sơ thm n tuyên v án phí, nghĩa vụ thi hành án và
quyn kháng cáo ca các đương s.
* Ngày 07/10/2024, ông Nguyễn Văn V Nguyễn Thị H Đơn
kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm: Sửa bản án sơ thẩm số 93/2024/DS-
ST ngày 27 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh
Quảng Ngãi theo hướng công nhận Hợp đồng đặt cọc về việc chuyển nhượng
quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất ngày 24/6/2022 hiệu lực pháp
luật. Tại phiên tòa, bị đơn thay đổi nội dung kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc
thẩm hủy bản án sơ thẩm số 93/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.
* Tại phiên tòa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn đề nghị
Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 2 Điều 310 của Bộ luật tố tụng dân sự
hủy bản án thẩm số 93/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Quảng Ngãi.
* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi phát
biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng kể
từ khi Tòa án cấp phúc thẩm thụ vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét
xử nghị án đều chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Văn V Nguyễn Thị H đảm bảo về
thời hạn, chủ thể và nội dung kháng cáo theo quy định tại Điều 271, 272, 273 Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015.
Về nội dung: Căn cứ khoản 3 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự chấp
nhận kháng cáo của bị đơn về việc yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ
thẩm số 93/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành
phố Quảng Ngãi. Đương sự không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra xem xét kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, sau khi đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng
Ngãi phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Ngày 27/9/2024, Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi xét xử vụ án.
Ngày 07/10/2024, bị đơn ông Nguyễn Văn VNguyễn Thị H đơn kháng
6
cáo là còn trong thời hạn theo quy định tại khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng
dân sự nên được chấp nhận.
[2] Xét kháng cáo của bị đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.1] Về nguồn gốc thửa đất:
Theo các tài liệu do Văn phòng đăng đất đai tỉnh Q - Chi nhánh thành
phố Q cung cấp: Nguồn gốc thửa đất số 88, tờ bản đồ số 12, phường Q, thành
phố Q, tỉnh Quảng Ngãi (viết tắt thửa 88) do Uỷ ban nhân dân (viết tắt
UBND) thị Q cấp cho hộ ông Phạm Văn M theo Nghị định 64/CP vào ngày
27/01/2000. Đến ngày 30/12/2017, hộ ông Phạm Văn M được Sở T cấp đổi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt là GCNQSDĐ) đối với thửa 88 nêu trên.
Ngày 17/4/2019, ông M chuyển nhượng thửa 88 cho ông V, H với số
tiền 200.000.000 đồng. Giữa ông V, H với ông M không lập Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tuy nhiên ông M nhận đủ tiền, giao bản
chính GCNQSDĐ thửa 88 và bàn giao thửa 88 cho ông V, H quản lý, sử
dụng.
Năm 2022, ông V, bà H chuyển nhượng thửa 88 cho ông Nguyễn Đình Q.
Thời điểm ông V, bà H ký kết Hợp đồng đặt cọc với ông Q thì thửa 88 vẫn đứng
tên hộ ông Phạm Văn M.
Tại Công văn số 4148/CATP (QLHC) ngày 02/12/2024 của Công an
thành phố Q cung cấp tại thời điểm ngày 27/01/2000, hộ ông Phạm Văn M có 08
nhân khẩu gồm cụ Nguyễn Thị N1 (chủ hộ), ông Phạm Văn M, Phạm Thị L,
ông Phạm Văn Đ, Đinh Thị L1, anh Phạm Viết K, anh Phạm Viết H1 anh
Phạm Viết T.
Tại giai đoạn cấp thẩm, bị đơn yêu cầu công nhận giao dịch chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn với bị đơn. Tuy nhiên, Toà án cấp
sơ thẩm không thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định hộ gia đình ông M tại thời
điểm cân đối đất theo Nghị định 64/CP bao nhiêu thành viên không đưa
vào tham gia tố tụng là chưa giải quyết triệt để vụ án.
[2.2] Quá trình ký kết, thực hiện giao dịch dân sự:
Tại Hợp đồng đặt cọc về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất đề ngày 24/6/2022 thể hiện nội dung: Bên bán ông
Nguyễn Văn V, Nguyễn Thị H (Bên A) với bên mua ông Nguyễn Đình Q (Bên
B) thống nhất Bên A đồng ý bán cho bên B nhà-đất tại thửa đất 88, tờ bản đồ số
12, địa chỉ thửa đất tổ B, phường Q, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi, diện tích
570,9m
2
, kèm giấy chứng nhận QSH-QSD đất số CL577157 với tổng số tiền
295.000.000 đồng, bên B đặt cọc trước số tiền 280.000.000 đồng, số tiền cọc
7
còn lại là 15.000.000 đồng; Thời hạn đặt cọc kể từ ngày 24/6/2022; Bên A nhận
đủ tiền cọc sẽ cùng với bên B làm thủ tục công chứng, chuyển nhượng tại
quan nhà nước thẩm quyền. Khi thủ tục công chứng hoàn tất. Bên B phải
giao đủ số tiền còn lại cho bên A. Thỏa thuận khác: trong 15.000.000 đồng còn
lại, bên B trích ra 8.000.000 đồng (lo giấy tờ) trả cho bên A 7.000.000 đồng
còn lại.
Tại Điều 328 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Đặt cọc là việc một
bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị
khác trong một thời hạn để đảm bảo giao kết hoặc thực hiện hợp đồng”. Do đó,
hợp đồng đặt cọc đề ngày 24/6/2022 không thỏa thuận thời hạn đcác bên
kết hoặc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên không thoả
mãn quy định về đặt cọc.
[2.3] Sau khi xét xử thẩm, tại bản tự thuật kiến nghị đề ngày
29/9/2024 tại phiên tòa phúc thẩm, Nguyễn Thị H ông Nguyễn Văn V
trình bày: Hợp đồng đặt cọc đề ngày 24/6/2022 nhưng thực tế hai bên ký kết vào
ngày 09/12/2023. Nguyên đơn nhờ bị đơn ký xác nhận hợp đồng là để làm hồ sơ
vay, do tin tưởng nên bị đơn đã ký, nay nguyên đơn lại sử dụng hợp đồng này để
khởi kiện bị đơn. Thực tế vào khoảng ngày 12/01/2022, bị đơn đã nhận tiền
đặt cọc của nguyên đơn với số tiền 30.000.000 đồng nhưng không viết giấy. Sau
khi nhận tiền đặt cọc, bị đơn đã bàn giao thửa 88 cho nguyên đơn sử dụng. Đến
tháng 06/2022, nguyên đơn thanh toán số tiền 250.000.000 đồng cho bị đơn, cụ
thể ngày 24/6/2022 chuyển khoản 02 lần, mỗi lần 100.000.000 đồng vào số tài
khoản 0271001070637 đứng tên Nguyễn Thị H tại Ngân hàng TMCP N2
ngày 25/6/2022 chuyển khoản 50.000.000 đồng. Việc chuyển tiền ghi nội
dung “Be Tuyen chuyen tien mua đat”.
[2.4] Tại phiên toà phúc thẩm, nguyên đơn không thừa nhận đã chuyển
khoản cho bị đơn vào ngày 24 25/6/2022 nguyên đơn cho rằng đưa tiền
mặt cho bị đơn vào ngày 24/6/2022. Tuy nhiên, nguyên đơn thừa nhận đã nhận
thửa đất trồng cây keo từ đầu năm 2022, hiện nguyên đơn vẫn đang quản
thửa đất; điều đó chứng tỏ việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã thực hiện
như bị đơn trình bày, nên cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp hợp đồng đặt
cọc là không phù hợp với thực tế.
Qua kiểm tra hiện trạng tài sản ngày 26/3/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi thì trên đất có cây keo, được trồng khoảng đầu năm 2022. Như vậy,
tại cấp sơ thẩm chưa xem xét, giải quyết đối với tài sản trên đất. Tại phiên toà
phúc thẩm, nguyên đơn xác định cho bị đơn toàn bộ tài sản trên đất, nhưng bị
8
đơn không nhận. Mặt khác, cấp sơ thẩm chưa tuyên buộc nguyên đơn phải trả lại
đất cho ai.
Xét thấy tại cấp phúc thẩm đã phát sinh thêm một số tình tiết mới làm ảnh
hưởng đến nội dung giải quyết vụ án; những nội dung mới phát sinh này, cấp
phúc thẩm không thể bổ sung, khắc phục được. Do đó, Hội đồng xét xử cấp
phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn V và Nguyễn Thị H;
hủy bản án thẩm, chuyển hồ vụ án về cho Tòa án cấp thẩm giải quyết
lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
[3] Nghĩa vụ chịu án phí dân sự thẩm được xác định lại khi giải quyết
lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
[4] Về án phí phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn V và bà Nguyễn Thị H không
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho ông V H số tiền 300.000
đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ
phí Tòa án số 0003697 ngày 30 tháng 10 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân
sự thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.
[5] Đề nghị của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn phù
hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận.
[6] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi phù hợp
với nhận định của Hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 148, khoản 3 Điều 296, khoản 3 Điều 308, Điều
310, Điều 312 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 3 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí Tòa
án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn V và bà Nguyễn Thị H, hủy
bản án dân sự sơ thẩm số 93/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Quảng Ngãi. Chuyển hồ vụ án cho Tòa án cấp thẩm
giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
2. Tiền tạm ứng án phí dân sự thẩm sẽ được Tòa án xem xét khi giải
quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
9
3. Về án phí phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn V và Nguyễn Thị H không
phải chịu án phí dân sphúc thẩm. Hoàn trả cho Ông Nguyễn Văn V
Nguyễn Thị H số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí
phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án s0003697
ngày 30 tháng 10 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quảng
Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Quảng Ngãi;
- TAND TP Quảng Ngãi;
- VKSND TP Quảng Ngãi;
- Chi cục THADS TP Quảng Ngãi;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ, lưu Tòa DS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Thị Hồng Hoa
Tải về
Bản án số 11/2025/DS-PT Bản án số 11/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 11/2025/DS-PT Bản án số 11/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất