Bản án số 128/2025/DS-ST ngày 12/05/2025 của TAND TP. Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 128/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 128/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 128/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 128/2025/DS-ST ngày 12/05/2025 của TAND TP. Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Thủ Dầu Một (TAND tỉnh Bình Dương) |
Số hiệu: | 128/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 12/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | CHẤP NHẬN YÊU CẦU KHỞI KIỆN |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒ A Á N NHÂ N DÂ N
THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 128/2025/DS-ST
Ngày: 12 - 5 - 2025
V/v Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂ N DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Duy Nhân.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Đặng Minh Lý
2. Bà Nguyễn Thị Hồng Thanh
- Thư ký phiên tòa: Ông Hoàng Văn Quyết – Thư ký Tòa án nhân dân
thành phố Thủ Dầu Một.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một tham gia
phiên toà: Bà Lê Thị Thủy – Kiểm sát viên.
Trong ngày 12 tháng 05 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố
Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án
dân sự thụ lý số 1040/2024/TLST-DS ngày 28 tháng 11 năm 2024 về việc
“Tranh chấp hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất” theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số 49/2025/QĐXXST-DS ngày 19 tháng 02 năm 2025
giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ô ng Lê Xuân T, sinh năm 1979; Nơi cư trú: 3 G, phường
T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Có đơn xét xử vắng mặt.
2. Bị đơn: Công ty Cổ phần Đ; Trụ sở: I22- B L, phường H, thành phố T,
tỉnh Bình Dương. Địa chỉ liên lạc: Khu A, Ô Khu phố G, phường H, thành phố
T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 11/9/2024, bản tự khai nguyên đơn ông Lê Xuân T
trình bày: Ô ng Lê Xuân T và Công ty Cổ phần Đ ký kết Hợp đồng nguyên tắc
số….Lô 37, Ô16 ngày 12/11/2020 (Dự án Khu đô thị A, huyện P, tỉnh Bình
Dương) Phụ lục 01 và Phụ lục 02 ngày 12/11/2020 do chính ông Trần Phú T1 -
người đại diện theo pháp luật của Công ty Cổ phần Đ và ông Lê Xuân T ký kết
để thực hiện đặt cọc chuyển nhượng nền đất thuộc Ô16 Lô 37, diện tích là 80m²
với giá là 540.000.000đồng. Thực hiện hợp đồng, ông T đã thanh toán tổng cộng
cho Công ty Đ là 450.000.000đồng như sau:
2
Lần 1: Theo Giấy biên nhận đặt cọc ngày 05/9/2020 số tiền
50.000.000đồng, mặc dù giấy biên nhận thể hiện bên nhận cọc là ông Trần Kim
H nhưng thực tế ông Trần Phú T1 mới là người nhận tiền;
Lần 2: Thanh toán cho Công ty Cổ phần Đ 300.000.000đồng theo Phiếu
Thu ngày 06/11/2020 nhưng Phiếu thu thể hiện 350.000.000đồng là bao gồm
50.000.000đồng của Giấy biên nhận đặt cọc ngày 05/9/2020;
Lần 3: Thanh toán Công ty Cổ phần Đ 100.000.000đồng theo Phiếu Thu
ngày 23/01/2021.
Tuy nhiên, sau khi nhận tiền thì Công ty Đ không giao đất mà tự ý gửi biên
bản thanh lý hợp đồng với lý do “Do chậm tiến độ về pháp lý, không tiến hành
việc bàn giao đất và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T và cũng
không trao đổi với ông T. Ô ng Trần Phú T1 là người đại diện theo pháp luật
Công ty C hứa hẹn nhiều lần nhưng vẫn không thực hiện hợp đồng và cũng
không hoàn trả lại tiền cho ông T. Do đó, ông T đã làm Đơn tố cáo gửi Công an
tỉnh B đề nghị can thiệp, xử lý hành vi của Công ty Đ. Sau khi được Cơ quan
Công an mời lên giải quyết thì ngày 06/11/2023, ông Trần Phú T1 – đại diện
Công ty Đ và ông T đã lập Biên bản cam kết về việc hoàn trả tiền nợ. Cụ thể, tại
Biên bản ngày 06/11/2023, ông T1 cam kết còn nợ lại ông T số tiền:
250.000.000đồng (Hai trăm năm mươi triệu đồng) và cam kết hoàn trả lại cho
ông T trong vòng 70 ngày kể từ ngày ký Biên bản. Tuy nhiên, ông T không lưu
giữ biên bản mà ông chỉ có Biên bản do Công ty gửi file qua tin nhắn cho ông T
nên không có chữ ký của các bên. Đối với Biên bản thanh lý ngày 02/9/2022 của
Công ty Đ có chữ ký ông Trần Phú T1 và con dấu Công ty Đ thể hiện Công ty
có nhận của ông T tổng cộng 450.000.000đồng và đồng ý hoàn trả cho ông T
theo hai đợt nhưng thực tế Công ty đã không thực hiện đúng như nội dung trên.
Sau đó, Công ty Đ có chuyển cho ông T thêm số tiền 65.000.000đồng (Sáu
mươi lăm triệu đồng) nhưng ông T không có lưu giữ chứng từ. Do đó, tổng số
tiền phía Công ty còn nợ lại ông T là 185.000.000đồng (Một trăm tám mươi lăm
triệu đồng).
Ngày 25/6/2024, ông T đã làm thông báo đòi tiền đề nghị phía ông T1 và
Công ty Cổ phần Đ hoàn trả lại cho ông số tiền là 185.000.000đồng nhưng Công
ty không thực hiện nên ông T khởi kiện yêu cầu Công ty phải thanh toán số tiền
còn nợ 185.000.000đồng và lãi suất quá hạn. Sau đó, ông T1 giám đốc Công ty
có chuyển trả cho ông T 20.000.000đồng. Vì vậy, nay ông T xác định hiện tại
Công ty Đ còn nợ ông 165.000.000đồng và ông chỉ yêu cầu công ty trả số tiền
trên không yêu cầu tính lãi.
Chứng cứ nguyên đơn cung cấp: Hợp đồng nguyên tắc số….Lô 37, Ô 16
ngày 12/11/2020 ( Dự án Khu đô thị A), Phụ lục 01 và Phụ lục 02 ngày
12/11/2020 giữa Công ty Cổ phần Đ và ông Lê Xuân T; Giấy biên nhận đặt cọc
ngày 05/9/2020; Phiếu Thu ngày 06/11/2020; Phiếu Thu ngày 23/01/2021; Biên
bản thanh lý hợp đồng ngày 02/9/2022.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một không tống
đạt được các văn bản tố tụng cho bị đơn Công ty Cổ phần Đ do công ty T2 đóng
cửa, không có người nhận thay văn bản tố tụng. Căn cứ kết quả cung cấp thông
3
tin của Sở kế hoạch và Đầu tư tỉnh B tại Công văn số 2822/ĐKKD ngày
31/12/2024, thể hiện Công ty Cổ phần Đ có trụ sở đăng ký kinh doanh tại I- B L,
phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương đến nay Công ty chưa đăng ký thay
đổi nội dung đăng ký giấy chứng nhận doanh nghiệp, chưa đăng ký chấm dứt
hoạt động doanh nghiệp. Do vậy, Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các
văn bản tố tụng tại địa chỉ trụ sở của bị đơn, Ủy ban nhân dân phường H và Trụ
sở Tòa án theo quy định tại Điều 179 Bộ luật Tố tụng Dân sự nhưng bị đơn
không đến Tòa án làm việc và cũng không có ý kiến phản đối yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn, bị đơn phải chịu hậu quả cho việc không cung cấp được chứng
cứ để phản đối yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Căn cứ vào các tài liệu có tại
hồ sơ vụ án, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp
luật.
Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một tham
gia phiên tòa: Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm
phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đầy đủ, đúng các quy định pháp
luật Tố tụng dân sự và người tham gia tố tụng là nguyên đơn đã chấp hành đúng
theo quy định pháp luật, riêng bị đơn đã được Tòa án triệu tập, tống đạt hợp lệ
nhưng vẫn không tham gia phiên tòa là không chấp hành đúng pháp luật. Đại
diện Viện kiểm sát không có ý kiến cũng như kiến nghị sửa chữa, bổ sung gì
thêm về phần thủ tục. Về nội dung, nhận thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
là có cơ sở đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được
xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét
xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn khởi kiện tranh chấp hợp đồng đặt cọc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất. Bị đơn Công ty Cổ phần Đ có trụ sở tại phường H,
thành phố T, tỉnh Bình Dương. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một theo quy định tại khoản 3 Điều 26,
điểm a khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Bị đơn Công ty Cổ phần Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên
tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Nguyên đơn ông Lê Xuân T có
đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt
nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại Điều 227, Điều 228 và Điều 238 của Bộ
luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung, căn cứ Hợp đồng nguyên tắc số….Lô 37, Ô16 ngày
12/11/2020 giữa Công ty Cổ phần Đ và ông T, Giấy Biên nhận đặt cọc ngày
05/9/2020, Phiếu Thu ngày 06/11/2020 và Phiếu Thu ngày 23/01/2021 thể hiện
giữa ông Lê Xuân T và Công ty Đ có giao kết hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng
quyền sử dụng đất. Đồng thời, căn cứ Biên bản thanh lý hợp đồng ngày
02/9/2022 có chữ ký ông Trần Phú T1 – đại diện theo pháp luật của Công ty Đ
thể hiện Công ty có nhận của ông T tổng cộng 450.000.000đồng để ký kết và
4
thực hiện hợp đồng nguyên tắc trên. Đồng thời, Công ty đồng ý hoàn trả cho ông
T số tiền trên theo hai đợt. Như vậy, giao kết hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa hai bên đã được xác lập và thỏa thuận chấm dứt theo
Biên bản thanh lý ngày 02/9/2022. Nay, Công ty Đ không thực hiện nghĩa vụ trả
tiền theo thỏa thuận nên ông T khởi kiện yêu cầu hoàn trả số tiền còn nợ theo
Biên bản thanh lý là có cơ sở xem xét theo quy định tại Điều 280 Bộ luật dân sự
2015.
[3] Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông T xác định ông Trần Phú
T1 – đại diện theo pháp luật của Công ty Đ đã thanh toán nhiều lần cho ông T
nên hiện tại Công ty chỉ còn nợ ông T tổng cộng 165.000.000đồng. Do đó, ông
xác định chỉ yêu cầu Công ty Đ1 số tiền gốc còn nợ là 165.000.000đồng, không
yêu cầu tính lãi đối với số tiền trên. Xét đây là ý chí tự nguyện của nguyên đơn
nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[4] Quá trình tố tụng, bị đơn Công ty Cổ phần Đ đã được tống đạt hợp lệ
các văn bản tố tụng nhưng bị đơn không đến Tòa án làm việc và không cung cấp
tài liệu chứng cứ hay phản đối yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên phải chịu
hậu quả cho việc không cung cấp được chứng cứ để phản đối yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn
Do đó căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án có căn cứ chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[5] Quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành
phố Thủ Dầu Một là có cơ sở.
[6] Về án phí sơ thẩm: Bị đơn Công ty Cổ phần Đ phải chịu theo quy định
pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các
Điều 91, 147, 228, 266, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
Căn cứ các Điều 280 Bộ luật Dân sự 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 do Ủy ban
thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Xuân T đối với bị
đơn Công ty Cổ phần Đ về việc tranh chấp hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng
quyền sử dụng đất.
Buộc Công ty Cổ phần Đ phải trả cho ông Lê Xuân T số tiền gốc còn nợ là
165.000.000đồng (Một trăm sáu mươi lăm triệu đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi
hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người
được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng
5
tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Lê Xuân T về việc không yêu cầu tính lãi
đối với số tiền trên.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Nguyên đơn ông Lê Xuân T không phải chịu án phí, được nhận lại số tiền
tạm ứng án phí đã nộp 600.000đồng (Sáu trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm
ứng án phí số 0008533 ngày 18/11/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành
phố Thủ Dầu Một.
Công ty Cổ phần Đ phải nộp số tiền 8.250.000 đồng (Tám triệu hai trăm
năm mươi nghìn đồng).
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
thi hành án dân sự.
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án
mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án
hoặc được tống đạt hợp lệ./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Bình Dương;
- VKSND TP. Thủ Dầu Một;
- CCTHADS TP. Thủ Dầu Một;
- Đương sự;
- Lưu: HSVA, VT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Duy Nhân
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 27/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm