Bản án số 01/2025/KDTM-PT ngày 08/01/2025 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp về mua bán hàng hóa
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 01/2025/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 01/2025/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 01/2025/KDTM-PT
Tên Bản án: | Bản án số 01/2025/KDTM-PT ngày 08/01/2025 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp về mua bán hàng hóa |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về mua bán hàng hóa |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Sóc Trăng |
Số hiệu: | 01/2025/KDTM-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 08/01/2025 |
Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | BAPT KDTM 03 công ty NĐ- Công ty ADEC |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH SÓC TRĂNG
Bản án số 01/2025/KDTM-PT
Ngày 08-01-2025
V/v tranh chấp hợp đồng
mua bán hàng hóa
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:Ông Hồ Văn Phụng.
Các Thẩm phán:Ông Nguyễn Hoàng Thành.
Bà Tôn Thị Thanh Thúy.
- Thư ký phiên tòa: Ông Đinh Quốc Thanh – Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân tỉnh Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng: Ông Bùi Văn Bảo-
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 02 và ngày 08/01/2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sóc
Trăng xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 10/2024/TLPT-KDTM ngày
17 tháng 10 năm 2024 về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2024/KDTM-ST, ngày 01 tháng 8 năm
2024 của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 09/2024/QĐ-PT ngày
08 tháng 11 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 12/2024/QĐ-PT
ngày 04 tháng 12 năm 2024 và Thông báo dời phiên tòa số 473/2024/TB-TA ngày
16/12/2024, giữa các đương sự:
1. Các nguyên đơn:
1.1. Công ty TNHH MTV T6.Trụ sở: Số C đường P, phường B, thành phố
S, tỉnh Sóc Trăng.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị Thanh N – Chức vụ: Giám
đốc. (vắng mặt)
1.2. Công ty TNHH H5. Trụ sở: Số E đường L, phường D, thành phố S,
tỉnh Sóc Trăng.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Công H – Chức vụ: Giám đốc.
(vắng mặt)
2
1.3. Công ty TNHH S. Địa chỉ: Quốc lộ A, khu V, phường B, quận C, thành
phố Cần Thơ
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Ngọc C – Chức vụ: Giám đốc.
(vắng mặt)
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Quốc H1 – Đại diện chi nhánh
Công ty TNHH S tại Sóc Trăng. Địa chỉ: Ấp T, xã Đ, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
(vắng mặt)
Người đại diện theo ủy quyền của các nguyên đơn: Công ty TNHH MTV
T6; Công ty TNHH H5; Công ty TNHH S: Bà Huỳnh Thị Diệu O. Địa chỉ: Số I
đường T, khóm A, phường A, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)
2. Bị đơn: Công ty TNHH A1. Trụ sở: SAV8-19.12 The Sun A, 28 đường
M, phường A, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Mai Duy T – Chức vụ: Tổng Giám đốc.
(có mặt)
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Trần Thị Thủy T1 (vắng mặt) và ông
Trần Văn D (có mặt). Cùng địa chỉ: P, số I P, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ
Chí Minh (văn bản ủy quyền ngày 25/6/2024).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Đinh Thị
Quỳnh N1– là luật sư của Công ty L1. Địa chỉ: P, số I P, phường Đ, Quận A,
Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)
3. Các người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
3.1. Tổng Công ty B2. Địa chỉ: Số E đường P, phường M, quận N, Thành
phố Hà Nội. (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Ngọc T2– Chức vụ: Phó Giám
đốc Bưu điện tỉnh A1. Địa chỉ: Số A đường T, phường C, thành phố S, tỉnh Sóc
Trăng theo văn bản ủy quyền đề ngày 16/12/2024. (có mặt)
3.2. Công ty Trách nhiệm hữu hạn X. Địa chỉ: Số D đường T, Khu phố T,
phường L, Quận I (nay là thành phố T), Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đoàn Quốc T3 – Chức vụ Giám đốc
(vắng mặt).
4. Những người làm chứng:
4.1. Ông Nguyễn Tấn P, sinh năm: 1970 (vắng mặt, có đơn xin vắng mặt).
Địa chỉ: Số E đường L, khóm D, phường F, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
4.2. Ông Nguyễn Anh D1, sinh năm: 1985. Địa chỉ: Số A ấp P, xã H, huyện
M, tỉnh Sóc Trăng. Địa chỉ nơi làm việc: Số D đường L, phường D, thành phố S,
tỉnh Sóc Trăng. (có mặt).
4.3. Ông Nguyễn Văn P1, sinh năm: 1988 (vắng mặt). Địa chỉ: Khu phố D,
H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên. Chỗ ở hiện nay: Đường N, ấp T, xã T, huyện M, tỉnh
Bến Tre.
3
- Người kháng cáo: Ông Trần Văn D là người đại diện theo ủy quyền của
bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nội
dung vụ án được tóm tắt như sau:
* Theo đơn khởi kiện ngày 19/12/2022 và đơn khởi kiện bổ sung đề ngày
11 tháng 8 năm 2023 của các nguyên đơn, quá trình giải quyết vụ án cũng như
tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của các nguyên đơn, bà Huỳnh
Thị Diệu O trình bày:
Công ty TNHH MTV T6 (gọi tắt là Công ty T6) kinh doanh vật liệu xây
dựng và thiết bị lắp đặt trong xây dựng.
Công ty TNHH H5 (gọi tắt là Công ty H5) kinh doanh vật liệu xây dựng và
thiết bị lắp đặt trong xây dựng.
Công ty TNHH S (gọi tắt là Công ty S) sản xuất, kinh doanh sắt thép, phân
phối trần thạch cao các loại.
Trong quá trình kinh doanh Công ty T6, Công ty H5 và Công ty S có biết
Công ty TNHH A1 (gọi tắt là Công ty A1) do ông Mai Duy T làm người đại diện
theo pháp luật trúng thầu và thi công dự án cải tạo, nâng cấp Bưu điện tỉnh A1.
Sau đó phía Công ty A1 có liên hệ với Công ty T6 để yêu cầu cung ứng hàng hóa
là các vật liệu xây dựng và vật liệu trang trí để thi công công trình nêu trên. Trong
khoảng thời gian từ tháng 12/2021 đến tháng 4/2022 Công ty T6 có giao hàng cho
Công ty A1 nhiều lần tại địa chỉ thi công công trình (số A đường T, phường C,
thành phố S, tỉnh Sóc Trăng) tổng cộng số tiền là 756.656.767 đồng. Sau đó Công
ty A1 đã thanh toán cho Công ty T6 320.000.000 đồng, số tiền còn nợ lại là
436.656.767đồng (có bảng kê kèm theo).
Khi Công ty T6 tiến hành giao hàng, mỗi đợt giao hàng tại công trình do
bên Công ty TNHH A1 thi công đều có lập phiếu giao hàng, phía Công ty A1 có
người đại diện ký nhận. Trong quá trình mua hàng, đại diện Công ty TNHH A1
có đưa người đại diện của Bưu điện tỉnh A1 đến Công ty T6 nhiều lần để lựa chọn
mẫu vật liệu trang trí và các sản phẩm lắp đặt khác. Phía Công ty TNHH A1 hẹn
sau khi kết thúc công trình, họ nhận tiền từ phía Bưu điện tỉnh A1 sẽ thanh toán
số tiền còn lại cho Công ty T6.
Đồng thời Công ty TNHH A1 có liên hệ với Công ty H5 để yêu cầu cung
ứng hàng hóa là các vật liệu xây dựng và vật liệu trang trí để thi công công trình
nêu trên. Trong khoảng thời gian từ tháng 01/2022 đến tháng 4/2022 Công ty H5
có giao hàng cho Công ty A1 E&C nhiều lần tại địa chỉ thi công công trình (số A
đường T, phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng) tổng cộng số tiền là
71.137.320đồng (có bảng kê kèm theo).
Khi Công ty H5 tiến hành giao hàng, mỗi đợt giao hàng tại công trình do
bên Công ty TNHH A1 thi công đều có lập phiếu giao hàng, phía công ty TNHH
A1 có người đại diện ký nhận. Phía công ty TNHH A1 hẹn sau khi kết thúc công
trình, họ nhận tiền từ phía Bưu điện tỉnh Sóc Trăng sẽ thanh toán tiền cho Công
ty H5.
4
Ngoài ra phía Công ty TNHH A1 có liên hệ với Công ty S (thông qua chi
nhánh Công ty TNHH S tại Sóc Trăng) để yêu cầu mua và thi công trần thạch cao
các loại để thi công công trình nêu trên. Trong khoảng thời gian từ tháng 01/2022
đến tháng 3/2022 Công ty S có bán hàng và thi công cho Công ty TNHH A1 nhiều
lần tại địa chỉ thi công công trình (số A đường T, phường C, thành phố S, tỉnh Sóc
Trăng) tổng cộng số tiền là 171.062.000đồng. Sau đó Công ty TNHH A1 đã thanh
toán cho Công ty S 60.000.000 đồng, số tiền còn nợ lại là 111.062.000 đồng (một
trăm mười một triệu không trăm sáu mươi hai nghìn đồng) (có bảng kê kèm theo).
Khi Công ty S tiến hành giao hàng và thi công tại công trình Bưu điện tỉnh
A1 có ghi lại hình ảnh và có giám sát của phía Bưu Đ xác nhận. Phía công ty
TNHH A1 hẹn sau khi kết thúc công trình, họ nhận tiền từ phía Bưu điện tỉnh Sóc
Trăng sẽ thanh toán tiền cho Công ty S.
Tuy nhiên, cho đến nay công trình cải tạo, nâng cấp Bưu điện tỉnh A1 đã
hoàn tất, công ty TNHH A1 lại không thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho các
nguyên đơn khoản tiền còn nợ. Các nguyên đơn là nhà cung cấp nguyên vật liệu
đã nhiều lần làm việc với đại diện công ty TNHH Anh Duy E&C và Bưu điện tỉnh
A1 tại trụ sở của Bưu điện tỉnh A1 để yêu cầu thanh toán số tiền còn nợ.
Nay các nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết:
1. Buộc Công ty TNHH Anh Duy E&C và Bưu điện tỉnh A1 có trách nhiệm
thanh toán cho Công ty TNHH MTV T6 số tiền còn nợ là 436.656.767 đồng.
2. Buộc Công ty TNHH Anh Duy E&C và Bưu điện tỉnh A1 có trách nhiệm
thanh toán cho Công ty TNHH H5 số tiền còn nợ là 71.137.320 đồng.
3. Buộc Công ty TNHH Anh Duy E&C và Bưu điện tỉnh A1 có trách nhiệm
thanh toán cho Công ty TNHH S số tiền còn nợ là 111.062.000 đồng.
Ngày 11/8/2023 các nguyên đơn có đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện:
Thứ nhất: Xác định lại đối tượng tham gia tố tụng với tư cách người có
quyền và nghĩa vụ liên quan là Tổng công ty B2. Địa chỉ: số E đường P, phường
M, quận N, Thành phố Hà Nội. Người đại diện theo pháp luật: Ông Chu Quang
H2, chức vụ: Tổng giám đốc.
Thứ hai: Thay đổi yêu cầu khởi kiện, cụ thể như sau:
- Buộc Công ty TNHH A1 có trách nhiệm thanh toán cho Công ty TNHH
MTV T6 số tiền còn nợ là 436.656.767 đồng (Bốn trăm ba mươi sáu triệu sáu
trăm năm mươi sáu nghìn bảy trăm sáu mươi bảy đồng).
- Buộc Công ty TNHH A1 có trách nhiệm thanh toán cho Công ty TNHH
H5 số tiền còn nợ là 71.137.320đồng (Bảy mươi mốt triệu một trăm ba mươi bảy
nghìn ba trăm hai mươi đồng).
- Buộc Công ty TNHH A1 có trách nhiệm thanh toán cho Công ty TNHH
S số tiền còn nợ là 111.062.000 đồng (một trăm mười một triệu không trăm sáu
mươi hai nghìn đồng).
Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của các nguyên đơn trình bày
giữ nguyên đơn sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện ngày 11/8/2023 và yêu cầu Tòa án
giải quyết:
1. Buộc Công ty TNHH A1 có trách nhiệm thanh toán cho Công ty TNHH
MTV T6 số tiền còn nợ là 436.656.767 đồng.
5
2. Buộc Công ty TNHH A1 có trách nhiệm thanh toán cho Công ty TNHH
H5 số tiền còn nợ là 71.137.320 đồng.
3. Buộc Công ty TNHH A1 có trách nhiệm thanh toán cho Công ty TNHH
S số tiền còn nợ là 111.062.000 đồng.
Ngoài ra, bà O cũng trình bày tại phiên tòa, mặc dù các nguyên đơn không
có hợp đồng bằng văn bản về việc mua bán hàng hóa với bị đơn nhưng qua chứng
cứ gián tiếp các nguyên đơn chứng minh được giữa các nguyên đơn và bị đơn có
giao dịch với nhau, các nguyên đơn có xuất trình chứng cứ là Công ty A1 có ban
hành nghị quyết số 01-20/NQ-HĐTV ngày 05/01/2020 để bổ nhiệm ông Đoàn
Quốc T3 giữ chức vụ Phó tổng giám đốc phụ trách điều hành thi công, quyết định
số 09/QĐ-TGĐ ngày 27/11/2021 để thành lập ban điều hành dự án cải tạo nâng
cấp Bưu điện tỉnh A1 trong đó bổ nhiệm ông Đoàn Quốc T3 là chỉ huy trưởng
công trình, ông Đỗ Xuân H3 là kỹ thuật, ông Nguyễn Văn P1 là kỹ thuật. Các
nguyên đơn có xuất trình các chứng cứ là hóa đơn giao hàng. Qua đó, các nguyên
đơn biết được Công ty A1 có ký hợp đồng với Bưu điện tỉnh A1 thi công công
trình số 082/2021/HĐXD/BĐST-AD ngày 23/11/2021. Ông Đoàn Quốc T3 là
Phó tổng giám đốc Công ty TNHH A1 là người trực tiếp đến gặp các nguyên đơn
để đề nghị mua hàng hóa, nguyên vật liệu để thi công công trình Bưu điện tỉnh
Sóc Trăng, quá trình giao nhận hàng hóa thì bên Công ty A1 có người đại diện
nhận hàng là ông Nguyễn Văn P1, vợ ông P1 là bà Nguyễn Thị M và một số công
nhân của Công ty A1 ký nhận. Có lời khai của các người làm chứng là ông P và
ông D1 chứng kiến việc các nguyên đơn có giao hàng cho bị đơn tại công trình
Bưu điện tỉnh A1, có lời khai của người liên quan là bà T2 thừa nhận có đến Công
ty T6 để lựa chọn gạch, thiết bị vệ sinh theo lời đề nghị của Công ty A1. Công ty
S có giao nộp các tài liệu chứng cứ hình ảnh thi công trần thạch cao, hình ảnh
buổi làm việc giữa các nhà cung cấp với Công ty A1 tại Bưu điện tỉnh A1. Lời
khai của ông Nguyễn Anh D1 tại phiên tòa, lời khai của ông P, ông P1 đều xác
định các nguyên đơn có giao hàng cho bị đơn tại Bưu điện tỉnh A1. Việc bị đơn
cho rằng có ký hợp đồng giao khoán thi công với Công ty TNHH X, Tòa án có
đưa Công ty TNHH X vào tham gia tố tụng nhưng Công ty TNHH X không có ý
kiến phản hồi nên không có đủ căn cứ cho rằng bị đơn có ký hợp đồng giao khoán
thi công cho Công ty TNHH X.
* Tại biên bản hòa giải ngày 20/02/2023, biên bản lấy lời khai ngày
17/7/2023, quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo pháp luật của bị đơn,
Công ty TNHH A1 (sau đây gọi tắt là Công ty A1) ông Mai Duy T và lời trình bày
của ông Trần Văn D tại phiên tòa thì:
Công ty A1 kinh doanh nhiều lĩnh vực nhưng chủ yếu là xây dựng. Thông
qua các cuộc họp tại Bưu điện tỉnh A1 giữa các bên trong đó có 03 đại diện của
các nguyên đơn thì ông có biết các nguyên đơn nhưng theo yêu cầu khởi kiện thì
ông không đồng ý và xác định giữa Công ty A1 và các nguyên đơn không có mối
quan hệ giao dịch hợp đồng gì với nhau.
Giữa Công ty Anh Duy và Bưu điện tỉnh A1 có ký hợp đồng thi công công
trình số 082/2021/HĐXD/BĐST-AD ngày 23/11/2021 đến nay đã thực hiện xong
công trình.
6
Nguyên đơn khởi kiện không đúng đối tượng, vì sau khi ký hợp đồng thi
công công trình xây dựng số 082/2021/HĐXD/BĐST-AD ngày 23/11/2021 giữa
Công ty Trách nhiệm hữu hạn A1 và Bưu điện tỉnh A1 thì Công ty A1 có ký hợp
đồng giao khoán số 082-1/2021/HĐGK/AD-TP ngày 01/12/2021 với Công ty
TNHH X (do ông Đoàn Quốc T3 là đại diện theo pháp luật) nội dung hợp đồng:
Giao khoán thi công nhà chính và các hạng mục phụ trợ công trình cải tạo, nâng
cấp Bưu điện tỉnh A1. Vì vậy, trên thực tế Công ty A1 chỉ quản lý công việc đã
giao khoán với vai trò là nhà thầu chính để đôn đốc tiến độ, thẩm định chất lượng
theo đúng điều khoản hợp đồng đã ký kết giữa hai bên, nên không có việc liên hệ
với phía các nguyên đơn để yêu cầu cung ứng vật liệu. Khi có thông tin phản hồi
về việc Công ty X chậm thanh toán tiền cho một số nhà cung cấp, công ty A1 đã
có buổi làm việc với các nhà cung cấp (có sự tham gia của 03 nguyên đơn) đề
nghị các nhà cung cấp làm việc với bên mua là Công ty X để đối chiếu công nợ,
thu hồi nợ. Đồng thời, Công ty A1 cũng đã gửi văn bản đến Công ty X yêu cầu
làm rõ và xử lý. Hợp đồng giao khoán thi công giữa Công ty A1 và Công ty X
không thực hiện được đến cùng và chưa nghiệm thu phần việc đã thực hiện, ngày
07/5/2022 Công ty A1 có văn bản gửi Công ty X đơn phương chấm dứt hợp đồng.
Công ty A1 tiếp quản phần việc mà Công ty X đã thực hiện và tiếp tục thực hiện
công trình tại Bưu điện tỉnh A1 đến khi hoàn tất và đưa vào sử dụng. Đến nay,
hợp đồng giao khoán đã chấm dứt và Công ty A1 đã hoàn tất nghĩa vụ tài chính
với Công ty X.
Các nguyên đơn đưa ra 03 căn cứ để yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền nợ
cụ thể là có giao dịch phát sinh từ Công ty A1 và các đồng nguyên đơn; có việc
nhận hàng và ký nhận hàng từ Công ty A1 với các đồng nguyên đơn; có việc nhận
hàng và hứa hẹn sau khi kết thúc công trình tại Bưu điện tỉnh A1 sẽ thanh toán
cho các đồng nguyên đơn. Với 03 căn cứ này trong hồ sơ vụ án không có bất cứ
chứng cứ nào chứng minh có việc nhận hàng từ Công ty A1 với các đồng nguyên
đơn.
Công ty A1 có ban hành nghị quyết số 01-20/NQ-HĐTV ngày 05/01/2020
để bổ nhiệm ông Đoàn Quốc T3 giữ chức vụ Phó tổng giám đốc phụ trách điều
hành thi công, đến ngày 15/03/2022 Công ty A1 đã ban hành nghị quyết số 01-
22/NQ-HĐTV để miễn nhiệm chức vụ này của ông Đoàn Quốc T3. Đồng thời,
sau khi ký hợp đồng với Bưu điện tỉnh A1 thì Công ty A1 có ban hành quyết định
số 09/QĐ-TGĐ ngày 27/11/2021 để thành lập ban điều hành dự án cải tạo nâng
cấp Bưu điện tỉnh A1 trong đó bổ nhiệm ông Đoàn Quốc T3 là chỉ huy trưởng
công trình, ông Đỗ Xuân H3 là kỹ thuật, ông Nguyễn Văn P1 là kỹ thuật nhưng
sau khi trình cho Bưu điện tỉnh A1 thì Bưu điện tỉnh A1 không đồng ý, nên Công
ty A1 đã ban hành quyết định số 10A/QĐ-TGĐ ngày 27/11/2021 thành lập ban
điều hành dự án cải tạo nâng cấp Bưu điện tỉnh A1 bổ nhiệm ông Ngô Dương Đức
T4 là chỉ huy trưởng, ông Nguyễn Văn G là cán bộ kỹ thuật phụ trách phần xây
dựng, ông Nguyễn Công B là cán bộ kỹ thuật điện, ông Phan Đình B1 là cán bộ
kỹ thuật nước, ông Nguyễn Tiến D2 là cán bộ kỹ thuật phụ trách hồ sơ thanh quyết
toán, ông Mai Duy Q là cán bộ kỹ thuật phụ trách an toàn lao động – vệ sinh môi
trường.

7
* Tại biên bản hòa giải ngày 20/02/2023, quá trình giải quyết vụ án cũng
như tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan Tổng công ty B2, bà Nguyễn Ngọc T2 trình bày:
Bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn do giữa Bưu điện
tỉnh A1 và các nguyên đơn không có phát sinh quan hệ kinh tế. Trong quá trình
giao nhận các vật tư và thanh toán giữa Công ty A1 với 03 nguyên đơn thì bà
không biết. Bưu điện tỉnh A1 chỉ ký hợp đồng thi công công trình số
082/2021/HĐXD/BĐST-AD ngày 23/11/2021 với Công ty A1 còn Công ty A1
mua vật tư của ai, ở đâu để thi công công trình thì bà không biết. Bà có đến Công
ty T6 để lựa chọn vật tư là gạch để trang trí và thiết bị vệ sinh do Công ty A1
thông báo cho bà đi chọn gạch và thiết bị vệ sinh để thực hiện công trình.
Trong quá trình thực hiện công trình tại Bưu điện tỉnh A1 thì Bưu điện tỉnh
A1 có thuê đơn vị để giám sát công trình là Trung tâm kiểm định chất lượng xây
dựng tỉnh Sóc Trăng để tham gia giám sát xuyên suốt quá trình xây dựng, về phía
Công ty A1 có cử người giám sát công trình hay không thì bà không được biết.
Đến nay thì hợp đồng thi công công trình số 082/2021/HĐXD/BĐST-AD
ngày 23/11/2021 giữa Bưu điện tỉnh A1 và Công ty A1 đã hoàn thành và đã đưa
vào sử dụng. Bưu điện tỉnh A1 có ban hành công văn số 1359/BĐST-KHKD ngày
05/10/2022 của Bưu điện tỉnh A1 gửi cho Công ty TNHH A1 xác định “Bưu điện
tỉnh A1 ký hợp đồng với Công ty TNHH A1 không phải Công ty TNHH X, Công
ty TNHH A1 phải có trách nhiệm giải quyết về các công nợ liên quan đến ông T3
và các nhà cung cấp vật tư đã cung cấp vật tư cho dự án: cải tạo, nâng cấp Bưu
điện tỉnh A1 (Theo điều 13.1 Trong hợp đồng Công ty TNHH A1 đã vi phạm hợp
đồng). Khi ký hợp đồng nhà thầu phụ không trình Chủ đầu tư phê duyệt, không
trình giấy phép đăng ký kinh doanh và năng lực nhà thầu phụ.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Trách nhiệm hữu hạn X
vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng nên không ghi nhận được ý kiến gì.
Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 13/2024/DS-ST, ngày 01
tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng đã
quyết định: Căn cứ vào Điều 5, khoản 1 Điều 30, Điểm b khoản 1 Điều 35, điểm
g, khoản 1 Điều 40, khoản 1 và khoản 5 Điều 95, Điều 147, Khoản 1 Điều 244,
Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228, khoản 2 Điều 229, khoản 1 Điều 273,
khoản 1 Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Áp dụng các Điều 351;
Điều 440 của Bộ luật dân sự 2015; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án. Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn Công ty TNHH MTV
T6; Công ty TNHH H5; Công ty TNHH S.
2. Buộc Công ty TNHH A1 có trách nhiệm thanh toán cho Công ty TNHH
MTV T6 số tiền còn nợ là 436.656.767 đồng.
3. Buộc Công ty TNHH A1 có trách nhiệm thanh toán cho Công ty TNHH
H5 số tiền còn nợ là 71.137.320 đồng.
8
4. Buộc Công ty TNHH A1 có trách nhiệm thanh toán cho Công ty TNHH
S số tiền còn nợ là 111.062.000 đồng.
5. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất tại Điều 306
Luật Thương mại tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, lãi suất chậm trả và thông
báo quyền kháng cáo cho các đương sự theo luật định.
* Ngày 02/8/2024, ông Trần Văn D là đại diện theo ủy quyền của bị đơn có
đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm số 13/2024/DS-ST, ngày 01 tháng 8 năm
2024 của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng không chấp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn và Buộc Công ty TNHH A1 hoàn
trả tiền cho các nguyên đơn với lý do: Công ty A1 không ký bất kỳ hợp đồng mua
bán, không nhận hàng hóa và không thanh toán bất kỳ khoản tiền nào cho các
nguyên đơn. Do đó, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng sửa án sơ thẩm theo
nội dung không chấp nhận yêu cầu của khởi kiện của các nguyên đơn
* Tại phiên tòa phúc phẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn
giữ nguyên đơn khởi kiện; ông Trần Văn D là người đại diện theo ủy quyền của
bị đơn không rút đơn kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau
về việc giải quyết vụ án.
* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn luật sư Đinh Thị
Quỳnh N1 trình bày:
Giữa Công ty Anh Duy và Bưu điện tỉnh A1 có ký hợp đồng thi công công
trình số 082/2021/HĐXD/BĐST-AD ngày 23/11/2021 đến nay đã thực hiện xong
công trình, sau khi ký hợp đồng thì Công ty A1 có ký hợp đồng giao khoán số
082-1/2021/HĐGK/AD-TP ngày 01/12/2021 với Công ty TNHH X (do ông Đoàn
Quốc T3 là đại diện theo pháp luật) nội dung hợp đồng: Giao khoán thi công nhà
chính và các hạng mục phụ trợ công trình cải tạo, nâng cấp Bưu điện tỉnh A1 để
thực hiện một phần việc tại Bưu điện tỉnh Sóc Trăng, bên cạnh đó thì bị đơn Công
ty A1 vẫn có những nhân viên của Công ty A1 ở công trình để theo dõi, giám sát
nên ông G.
Nguyên đơn căn cứ vào hai văn bản số 01-20/NQ-HĐTV ngày 05/01/2020
để bổ nhiệm ông Đoàn Quốc T3 giữ chức vụ Phó tổng giám đốc phụ trách điều
hành thi công; quyết định số 09/QĐ-TGĐ ngày 27/11/2021 để cho rằng bị đơn có
liên quan trong việc giao dịch mua bán là không đúng, vì theo luật doanh nghiệp
chỉ có người đại diện theo pháp luật của Công ty A1 mới có quyền ký kết hợp
đồng giao dịch, ông T3 không phải là người đại diện theo pháp luật của Công ty
A1. Đồng thời, theo quy định của pháp luật thì chỉ huy trưởng công trình cũng có
quy định riêng về nhiệm vụ quyền hạn. Mặc khác, ông Nguyễn Văn P1 không
phải là nhân viên của Công ty A1.
Có giao dịch thực tế giữa Công ty X hoặc cá nhân ông T3 và các nguyên
đơn thông qua các lần chuyển khoản thanh toán, chứ không có bất kỳ chứng từ
9
chuyển tiền từ Công ty A1 cho các nguyên đơn, nên bị đơn không có liên quan gì
đến công nợ mà các nguyên đơn yêu cầu. Đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn.
* Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng
về tính có căn cứ và hợp pháp của kháng cáo, việc tuân thủ và chấp hành pháp
luật tố tụng của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong
quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm. Đồng
thời, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về nội dung kháng cáo và đề nghị Hội
đồng xét xử, căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, không
chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Trần Văn D, giữ nguyên bản án dân sự sơ
thẩm số13/2024/DS-ST, ngày 01 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành
phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra các
chứng cứ tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng, ý kiến phát biểu và đề nghị
của những người tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về chủ thể, nội dung, hình thức đơn kháng cáo và thời hạn kháng cáo
của ông Trần Văn D là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là đúng theo quy
định tại Điều 271, Điều 272 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự, nên kháng cáo
hợp lệ và đúng theo luật định.
[1.2] Về sự có mặt của những người tham gia tố tụng: Tại phiên Tòa phúc
thẩm, đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH MTV T6; Công ty TNHH H5,
Công ty TNHH S, Công ty TNHH A1 và Tổng Công ty B2 vắng mặt nhưng có
người đại diên tham gia phiên tòa; người làm chứng ông Nguyễn Tấn P có đơn
xin xét xử vắng mặt; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty TNHH X,
ông Nguyễn Văn P1 đã được Toà án triệu tập hợp lệ tham gia phiên toà đến lần
thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do; Việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng
đến việc xét xử. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 296 của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vụ án.
[1.3] Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày,
các nguyên đơn giữ nguyên đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày
11/8/2023. Xét thấy, việc sửa đổi bổ sung yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn
là tự nguyện, không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu phù hợp với quy
định tại khoản 1 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự nên được Hội đồng xét xử
chấp nhận.
[2] Nội dung vụ án:
[2.1] Các nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty
TNHH A1 có trách nhiệm thanh toán cho: Công ty TNHH MTV T6 số tiền còn
nợ là 436.656.767 đồng; Công ty TNHH H5 số tiền còn nợ là 71.137.320 đồng và
Công ty TNHH S số tiền còn nợ là 111.062.000 đồng.
10
[2.2] Bị đơn do ông Trần Văn D đại diện theo ủy quyền không đồng ý theo
yêu cầu của các nguyên đơn và xác định giữa Công ty A1 và các nguyên đơn
không có mối quan hệ giao dịch hợp đồng gì với nhau.
[2.3] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Trách nhiệm hữu hạn
X vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng nên không ghi nhận được ý kiến gì.
[3] Xét kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH A1. Theo án sơ thẩm và các
tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ thì nhận thấy:
[3.1] Tại tòa phúc thẩm luật sư của bị đơn cho rằng ông Đoàn Quốc T3 và
ông Nguyễn Văn P1 không phải là nhân viên của Công ty A1 thì thấy rằng, Tại
Nghị Quyết số 01-20/NQ-HĐTV ngày 05/01/2020 của Hội đồng thành viên Công
ty TNHH A1 bổ nhiệm ông Đoàn Quốc T3 đảm nhận chức vụ là Phó Tổng Giám
đốc điều hành thi công Công ty TNHH A1 kể từ ngày 05/01/2020 và Tại Quyết
định số 09/QĐNQ-HĐTV ngày 27/11/2021 của Tổng Giám đốc Công ty TNHH
A1 về việc thành lập ban điều hành dự án cải tạo, nâng cấp Bưu điện tỉnh A1 có
danh sách kèm theo thì có ông Đoàn Quốc T3 là chỉ huy trưởng, ông Đỗ Xuân H3
và ông Nguyễn Văn P1 đều là kỹ thuật. Như vậy, theo các văn bản trên thì ông
T3, ông H3 và ông P1 là nhân viên của Công ty TNHH A1 và ông Đoàn Quốc T3
đảm nhận chức vụ là Phó Tổng Giám đốc điều hành thi công Công ty TNHH A1
kể từ ngày 05/01/2020 đến ngày 15/3/2022. Mặc khác, tại dòng số 18 trang 29
biên bản phiên tòa ngày 26/7/2024 thì luật sư N1 thừa nhận ông P1 là nhân viên
của Công ty A1. Do đó, Luật sư cho rằng ông T3, ông P1 không phải là nhân viên
của Công ty A1 là không có căn cứ, nên kháng cáo phần này không có căn cứ
chấp nhận.
[3.2] Theo các nguyên đơn khởi kiện của thì thấy rằng: Công ty A1 là đơn
vị trúng thầu thi công công trình Bưu điện tỉnh A1, theo hợp đồng thi công xây
dựng công trình số 082/2021/HĐXD/BĐST-AD ký giữa Bưu điện tỉnh A1 và
Công ty TNHH A1, sau khi trúng thầu thì Công ty A1 ban hành quyết định số
09/QĐ-TGĐ ngày 27/11/2021 thành lập ban điều hành dự án cải tạo nâng cấp Bưu
điện tỉnh A1 có ông Đoàn Quốc T3 là chỉ huy trưởng; ông Đỗ Xuân H3 là kỹ
thuật; ông Nguyễn Văn P1 là kỹ thuật (BL số 477-479). Tại phiên tòa bị đơn cung
cấp cho Tòa án bản pho to không có công chứng chứng thực quyết định số
10A/QĐ-TGĐ ngày 27/11/2021 thành lập ban điều hành dự án cải tạo nâng cấp
Bưu điện tỉnh A1 bổ nhiệm ông Ngô Dương Đức T4 là chỉ huy trưởng, ông
Nguyễn Văn G là cán bộ kỹ thuật phụ trách phần xây dựng, ông Nguyễn Công B
là cán bộ kỹ thuật điện, ông Phan Đình B1 là cán bộ kỹ thuật nước, ông Nguyễn
Tiến D2 là cán bộ kỹ thuật phụ trách hồ sơ thanh quyết toán, ông Mai Duy Q là
cán bộ kỹ thuật phụ trách an toàn lao động – vệ sinh môi trường nhưng trong nội
dung quyết định này không có nội dung thay thế quyết định số 09/QĐ-TGĐ ngày
27/11/2021. Đồng thời, người làm chứng ông Nguyễn Anh D1 cũng cung cấp cho
Tòa án bản pho to không có công chứng quyết định số 10A/QĐ-TGĐ của Công
ty A1 nhưng ngày ban hành quyết định là ngày 25/11/2021 chứ không phải ngày
27/11/2021. Do đó, quyết định quyết định số 10A/QĐ-TGD của Công ty A1
không có giá trị làm chứng cứ để xem xét trong vụ án. Đồng thời, tại công văn số
1359/BĐST-KHKD ngày 05/10/2022 của Bưu điện tỉnh A1 gửi cho Công ty
11
TNHH A1 (BL 388) thì Bưu điện tỉnh A1 xác định “Bưu điện tỉnh A1 ký hợp
đồng với Công ty TNHH A1 không phải Công ty TNHH X, Công ty TNHH A1
phải có trách nhiệm giải quyết về các công nợ liên quan đến ông T3 và các nhà
cung cấp vật tư đã cung cấp vật tư cho dự án: cải tạo, nâng cấp Bưu điện tỉnh A1
(Theo điều 13.1 Trong hợp đồng Công ty TNHH A1 đã vi phạm hợp đồng). Khi
ký hợp đồng nhà thầu phụ không trình Chủ đầu tư phê duyệt, không trình giấy
phép đăng ký kinh doanh và năng lực nhà thầu phụ. Tại phiên tòa, người đại diện
theo ủy quyền của bị đơn thừa nhận Công ty A1 có ban hành nghị quyết số 01-
20/NQ-HĐTV ngày 05/01/2020 để bổ nhiệm ông Đoàn Quốc T3 giữ chức vụ Phó
tổng giám đốc phụ trách điều hành thi công, đến ngày 15/03/2022 Công ty A1 đã
ban hành nghị quyết số 01-22/NQ-HĐTV đễ miễn nhiệm chức vụ này của ông
Đoàn Quốc T3. Do đó, trong khoản thời gian từ ngày 05/01/2020 đến ngày
15/03/2022 ông Đoàn Quốc T3 vẫn giữ chức vụ Phó tổng giám đốc phụ trách điều
hành thi công, ông Nguyễn Duy P2 và ông Đỗ Xuân H3 vị trí kỹ thuật của Công
ty A1 cũng như tại dòng số 18 trang 29 biên bản phiên tòa ngày 26/7/2024 thì luật
sư N1 thừa nhận ông P2 là nhân viên của Công ty A1 ký nhận hàng là chuyện
bình thường.
[3.3] Theo đó, ông Đoàn Quốc T3 là người đại diện Công ty A1 trực tiếp
giao dịch với các nguyên đơn mua vật liệu phục vụ việc cải tạo, nâng cấp Bưu
điện tỉnh A1, quá trình thực hiện giao nhận hàng hóa của Công ty T6 có hóa đơn
giao hàng, bảng tổng hợp xác nhận công nợ (Bút lục 62 đến 122), Công ty H5 có
phiếu giao hàng, hóa đơn bán hàng, bảng kê chi tiết bán hàng ngày 15/4/2022 (Bút
lục 212 đến 372), Công ty S có cung cấp hình ảnh thi công trần thạch cao, bảng
tổng hợp xác nhận công nợ ngày 17/12/2022 (Bút lục 158 đến 172) thì bên Công
ty A1 có người ký nhận là ông Nguyễn Văn P1, ông Đoàn Quốc T3, bà Nguyễn
Thị M và một số công nhân tên H4, L, T5, Nguyễn Thành P3. Tại biên bản lấy lời
khai ngày 03/6/2024 đối với ông Nguyễn Văn P1 thì ông P1 thừa nhận chữ ký của
ông trong tài liệu chứng cứ do các nguyên đơn giao nộp. Tại biên bản lấy lời khai
ngày 28/3/2023 người làm chứng ông Nguyễn Tấn P khai: Thời gian từ ngày 09
tháng 01 đến tháng 03 năm 2022. Ông đã thực hiện thi công trần thạch cao tại cục
bưu phát, nhà vệ sinh chung, tầng 2, tầng 5 và tầng 6. Đến cuối tháng 03/2022 do
Công ty A1 không thanh toán tiền cho Công ty S nên phát sinh tranh chấp, từ đó
ông ngừng thi công. Quá trình thực hiện khi thi công xong hạng mục nào ông đều
chụp hình bằng điện thoại cá nhân của ông để gửi cho Công ty S. Tại biên bản lấy
lời khai ông Nguyễn Anh D1 ngày 28/3/2023 và tại phiên tòa ông Nguyễn Anh
D1 khai ông là nhân viên Trung tâm kiểm định chất lượng xây dựng tỉnh S. Cơ
quan ông và Bưu điện tỉnh A1 có ký hợp đồng tư vấn giám sát công trình số
23/2021/HĐ-TVGS ngày 10/11/2021 theo đó thì chủ đầu tư là Bưu điện tỉnh A1
có thuê Trung tâm kiểm định chất lượng xây dựng tỉnh Sóc Trăng giám sát thi
công công trình cải tạo, nâng cấp Bưu điện tỉnh A1. Công trình khởi công ngày
29/12/2021 và kết thúc bàn giao đưa vào sử dụng ngày 31/8/2022. Quá trình thi
công thì Công ty TNHH A1. Do ông Mai Duy T – Chức vụ: Tổng Giám đốc là
người đại diện theo pháp luật là đơn vị trúng thầu xây dựng Bưu điện tỉnh A1.
Trong quá trình ông thực hiện giám sát, tổ giám sát có 08 người, trong đó ông là
12
giám sát viên, giám sát trực tiếp, ông Huỳnh Tuấn Đ1 trưởng phòng giám sát thiết
kế và tư vấn đấu thầu Trung tâm kiểm định chất lượng xây dựng tỉnh S là giám
sát trưởng, ngoài ra còn 06 thành viên khác thực hiện giám sát thi công, cụ thể thì
tổ giám sát có trách kiểm tra, giám sát vật liệu đầu vào thi công công trình, theo
đó thì ông có trực tiếp giám sát thi công trần thạch cao, trần nhôm do ông Nguyễn
Tấn P là người của Công ty TNHH S thực hiện giai đoạn đầu, đơn vị Bưu điện
tỉnh có gắn camera nội bộ của Bưu điện tỉnh rất nhiều. Ông cũng thấy xe của Công
ty TNHH MTV T6 kinh doanh vật liệu xây dựng và thiết bị lắp đặt trong xây dựng
cung cấp thiết bị vệ sinh; Công ty TNHH H5 cung cấp cát, đá xi măng, chở vật tư
vào công trình. Trong suốt quá trình giám sát thì ông Đoàn Quốc T3 với tư cách
là Phó tổng giám đốc Công ty A1 đến công trình thực hiện mua nguyên vật liệu,
trong hồ sơ giám sát không có Công ty X thực hiện công trình. Tại phiên tòa bà
Nguyễn Ngọc T2 là đại diện người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho rằng bà
có đến Công ty T6 để lựa chọn vật tư là gạch để trang trí và thiết bị vệ sinh do
Công ty A1 thông báo cho bà đi chọn gạch và thiết vị vệ sinh để thực hiện công
trình.
[4] Từ những phân tích tại các tiểu mục [3.1] đến tiểu mục [3.3] mục [3]
thì cấp sơ thẩm khẳng định việc các nguyên đơn có bán hàng hóa, vật tư, vật liệu
xây dựng, thi công trần thạch cao để phục vụ xây dựng, sửa chữa công trình Bưu
điện tỉnh A1 là có căn cứ. Đến nay, hợp đồng thi công xây dựng công trình số
082/2021/HĐXD/BĐST-AD ký giữa Bưu điện tỉnh A1 và Công ty TNHH A1 đã
hoàn tất và đưa vào sử dụng. Ông Mai Duy T không có trực tiếp đến quản lý công
trình và cũng không có ký hợp đồng mua vật tư của các nguyên đơn và các Công
ty khác mua vật liệu để cải tạo, nâng cấp Bưu điện tỉnh A1. Chính ông T3 là người
đại diện Công ty TNHH A1 ký hợp đồng mua vật tư của các nguyên đơn và các
Công ty khác để cải tạo, nâng cấp Bưu điện tỉnh A1 các Công ty khác để ký hợp
đồng vật liệu để cải tạo, nâng cấp Bưu điện tỉnh A1. Do đó, cấp sơ thẩm xác định
Công ty TNHH A1 phải có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty TNHH MTV T6 số
tiền còn nợ là 436.656.767 đồng; Công ty TNHH H5 số tiền còn nợ là 71.137.320
đồng và Công ty TNHH S số tiền còn nợ là 111.062.000 đồng là có căn cứ.
[5] Việc bị đơn cho rằng có ký kết hợp đồng giao khoán thi công cho Công
ty TNHH X do ông Đoàn Quốc T3 là giám đốc vào ngày 01/12/2021 (BL 584-
593); Ngày 27/4/2022 và ngày 07/5/2022 bị đơn có văn bản gửi Công ty TNHH
X để đơn phương chấm dứt hợp đồng các bên đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính
với nhau. Xét thấy, việc bị đơn ký hợp đồng giao khoán thi công không được chủ
đầu tư là Bưu điện tỉnh A1 chấp nhận. Hơn nữa, tại điểm c khoản 13.1 Điều 13
của hợp đồng thi công xây dựng công trình số 082/2021/HĐXD/BĐST-AD ký
giữa Bưu điện tỉnh A1 và Công ty TNHH A1 thì bên nhận thầu không được giao
lại toàn bộ công việc theo hợp đồng cho nhà thầu phụ thực hiện. Do đó, việc Công
ty TNHH A1 cho rằng Công ty A1 có ký hợp đồng giao khoán số 082-
1/2021/HĐGK/AD-TP ngày 01/12/2021 với Công ty TNHH X (do ông Đoàn
Quốc T3 là đại diện theo pháp luật) nội dung hợp đồng: Giao khoán thi công nhà
chính và các hạng mục phụ trợ công trình cải tạo, nâng cấp Bưu điện tỉnh A1 đã
vi phạm tại điểm c khoản 13.1 Điều 13 của hợp đồng thi công xây dựng công trình
13
số 082/2021/HĐXD/BĐST-AD ký giữa Bưu điện tỉnh A1 và Công ty TNHH A1.
Đồng thời, bị đơn thừa nhận hợp đồng giao khoán thi công giữa bị đơn và ông
Đoàn Quốc T3 không thực hiện được đến cùng và chưa nghiệm thu phần việc đã
thực hiện do Công ty X mất khả năng thanh toán và biến mất, nên bị đơn đã đơn
phương chấm dứt hợp đồng. Công ty A1 tiếp quản phần việc mà Công ty X đã
thực hiện và tiếp tục thực hiện công trình tại Bưu điện tỉnh A1 đến khi hoàn tất và
đưa vào sử dụng.
[6] Các nguyên đơn khởi kiện cụ thể: 1. Yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn
Công ty T6 cho rằng. Trong khoảng thời gian từ ngày 10/12/2021 đến ngày
20/4/2022 C1 có giao hàng cho Công ty A1 E&C nhiều lần tại địa chỉ thi công
công trình (số A đường T, phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng) tổng cộng số
tiền là 756.656.767 đồng. Sau đó Công ty A1 đã thanh toán cho nguyên đơn hai
lần số tiền 320.000.000 đồng (lần 1: ngày 20/01/2022 = 200.000.000 đồng và lần
2: ngày 28/01/2022 = 120.000.000 đồng), số tiền còn nợ lại là 436.656.767 đồng
theo bảng tổng hợp xác nhận công nợ ngày 11/5/2022. 2. Yêu cầu khởi kiện của
Công ty H5, trong khoảng thời gian từ ngày 02/01/2022 đến ngày 15/4/2022 Công
ty H5 có giao hàng cho Công ty A1 E&C nhiều lần tại địa chỉ thi công công trình
(số A đường T, phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng) tổng cộng số tiền là
71.137.320 đồng theo bảng kê chi tiết bán hàng ngày 15/4/2022. 3. Yêu cầu khởi
kiện của Công ty S, trong khoảng thời gian từ tháng 01/2022 đến tháng 3/2022
Công ty S có bán hàng và thi công cho Công ty TNHH A1 nhiều lần tại địa chỉ
thi công công trình (số A đường T, phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng) tổng
cộng số tiền là 171.062.000 đồng. Sau đó Công ty TNHH A1 đã thanh toán cho
Công ty S 60.000.000 đồng, số tiền còn nợ lại là 111.062.000 theo bảng tổng hợp
xác nhận công nợ ngày 17/12/2022. Do đó, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.
[6] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử quyết định không chấp
nhận kháng cáo của ông Trần Văn D là người đại diện theo ủy quyền của Công ty
TNHH A1 và lời đề nghị của Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị đơn, đồng thời căn
cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
[7] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng tại phiên
tòa là có căn cứ để chấp nhận.
[8] Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Do giữ nguyên Bản án sơ
thẩm, nên bị đơn phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 148
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:

14
Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 và khoản 6 Điều 313 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn D là người đại diện theo ủy
quyền của Công ty TNHH A1. Giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ
thẩm số 13/2023/KDTM-ST ngày 01 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân
thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng như sau:
Căn cứ vào Điều 5, khoản 1 Điều 30, Điểm b khoản 1 Điều 35, điểm g,
khoản 1 Điều 40, khoản 1 và khoản 5 Điều 95, Điều 147, Khoản 1 Điều 244,
Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228, khoản 2 Điều 229, khoản 1 Điều 273,
khoản 1 Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Áp dụng các Điều 351; Điều 440 của Bộ luật dân sự 2015; Khoản 2 Điều 26 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn Công ty TNHH MTV
T6; Công ty TNHH H5; Công ty TNHH S.
2. Buộc Công ty TNHH A1 có trách nhiệm thanh toán cho Công ty TNHH
MTV T6 số tiền còn nợ là 436.656.767 đồng.
3. Buộc Công ty TNHH A1 có trách nhiệm thanh toán cho Công ty TNHH
H5 số tiền còn nợ là 71.137.320 đồng.
4. Buộc Công ty TNHH A1 có trách nhiệm thanh toán cho Công ty TNHH
S số tiền còn nợ là 111.062.000 đồng.
5. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất tại Điều 306
Luật Thương mại tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
6. Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
6.1. Các nguyên đơn Công ty TNHH MTV T6; Công ty TNHH H5; Công
ty TNHH S không phải chịu án phí sơ thẩm.
6.1.1. Hoàn trả lại cho nguyên đơn Công ty TNHH MTV T6 số tiền tạm
ứng án phí đã nộp là 10.733.135 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số
0000917 ngày 21/12/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Sóc Trăng.
6.1.2. Hoàn trả lại cho nguyên đơn Công ty TNHH H5 số tiền tạm ứng án
phí đã nộp là 1.778.433 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000918
ngày 21/12/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Sóc Trăng.
15
6.1.3. Hoàn trả lại cho nguyên đơn Công ty TNHH S số tiền tạm ứng án phí
đã nộp là 2.776.550 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000919 ngày
21/12/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Sóc Trăng.
6.2. Bị đơn Công ty TNHH A1 phải chịu án phí số tiền 28.754.243 đồng.
7. Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Bị đơn Công ty TNHH A1
phải chịu án phí số tiền là 2.000.000 đồng. Được khấu trừ vào số tiền Công ty
TNHH A1 đã nộp 2.000.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001960
ngày 20/8/2024 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Sóc Trăng. Như vậy,
Công ty TNHH A1 đã nộp xong.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Sóc Trăng;
- TAND tp Sóc Trăng
- Chi cục THADS tp Sóc Trăng;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ – Văn phòng – Tòa DS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm Phán – Chủ tọa phiên tòa
Hồ Văn Phụng
HỘI ĐỘNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
CÁC THẨM PHÁN
Nguyễn Hoàng Thành Tôn Thị Thanh Thúy
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊNTÒA
Hồ Văn Phụng
16
1. Giữa Công ty Anh Duy và Bưu điện tỉnh A1 có ký hợp đồng thi công
công trình số 082/2021/HĐXD/BĐST-AD ngày 23/11/2021 đến nay đã thực
hiện xong công trình.
2, Sau khi ký hợp đồng thì Công ty A1 có ký hợp đồng giao khoán số
082-1/2021/HĐGK/AD-TP ngày 01/12/2021 với Công ty TNHH X (do ông
Đoàn Quốc T3 là đại diện theo pháp luật) nội dung hợp đồng: Giao khoán thi
công nhà chính và các hạng mục phụ trợ công trình cải tạo, nâng cấp Bưu điện
tỉnh A1 để thực hiện một phần việc tại Bưu điện tỉnh Sóc Trăng, bên cạnh đó
thì bị đơn Công ty A1 vẫn có những nhân viên của Công ty A1 ở công trình để
theo dõi, giám sát nên ông P1 là nhân viên Công ty A1 ký nhận hàng hóa là
chuyện bình thường.
3. Công ty A1 có ban hành nghị quyết số 01-20/NQ-HĐTV ngày
05/01/2020 để bổ nhiệm ông Đoàn Quốc T3 giữ chức vụ Phó tổng giám đốc
phụ trách điều hành thi công.
4. Đến ngày 15/03/2022 Công ty A1 đã ban hành nghị quyết số 01-
2/NQ-HĐTV đễ miễn nhiệm chức vụ này của ông Đoàn Quốc T3.
5. Đồng thời, sau khi ký hợp đồng với Bưu điện tỉnh A1 thì Công ty
A1 có ban hành quyết định số 09/QĐ-TGĐ ngày 27/11/2021 để thành lập ban
điều hành dự án cải tạo nâng cấp Bưu điện tỉnh A1 trong đó bổ nhiệm ông
Đoàn Quốc T3 là chỉ huy trưởng công trình, ông Đỗ Xuân H3 là kỹ thuật, ông
Nguyễn Văn P1 là kỹ thuật nhưng sau khi trình cho Bưu điện tỉnh A1 thì Bưu
điện tỉnh A1 không đồng ý.
6. Công ty A1 đã ban hành quyết định số 10A/QĐ-TGĐ ngày
27/11/2021 thành lập ban điều hành dự án cải tạo nâng cấp Bưu điện tỉnh A1
bổ nhiệm ông Ngô Dương Đức T4 là chỉ huy trưởng, ông Nguyễn Văn G là
cán bộ kỹ thuật phụ trách phần xây dựng, ông Nguyễn Công B là cán bộ kỹ
thuật điện, ông Phan Đình B1 là cán bộ kỹ thuật nước, ông Nguyễn Tiến D2
là cán bộ kỹ thuật phụ trách hồ sơ thanh quyết toán, ông Mai Duy Q là cán bộ
kỹ thuật phụ trách an toàn lao động – vệ sinh môi trường.
7. Ngày 07/5/2022 Công ty A1 có văn bản gửi Công ty X đơn phương
chấm dứt hợp đồng. Công ty A1 tiếp quản phần việc mà Công ty X đã thực hiện
và tiếp tục thực hiện công trình tại Bưu điện tỉnh A1 đến khi hoàn tất và đưa vào
17
sử dụng. Đến nay, hợp đồng giao khoán đã chấm dứt và Công ty A1 đã hoàn tất
nghĩa vụ tài chính với Công ty X.
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 01/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Bản án số 11/2024/KDTM-PT ngày 30/10/2024 của TAND tỉnh Quảng Ninh về tranh chấp về mua bán hàng hóa
Ban hành: 30/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Bản án số 08/2024/KDTM-PT ngày 22/10/2024 của TAND tỉnh Bình Phước về tranh chấp về mua bán hàng hóa
Ban hành: 22/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 02/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm