Bản án số 86/2025/DS-PT ngày 20/06/2025 của TAND tỉnh Bắc Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 86/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 86/2025/DS-PT ngày 20/06/2025 của TAND tỉnh Bắc Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bắc Giang
Số hiệu: 86/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông S khởi kiện yêu cầu bà B tháo dỡ công trình và trả đất lấn chiếm và yêu cầu bồi thuongwf thiệt hại về tài sản. Toà án cấp sơ thẩm đã chấp nhận. Bà B kháng cáo đề nghị sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu của ống S. HĐXX phúc thẩm khong chấp nhận YCKC của bà B
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẮC GIANG
Bản án số: 86/2025/DS-PT
Ngày 20 - 6 - 2025
“V/v tranh chấp quyền sử dụng đất;
yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - hạnh phúc
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hằng
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Việt Hùng và ông Phạm Văn Tú
- Thư phiên tòa:Nguyễn Thị Giang - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Bắc Giang
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang tham gia phiên toà:
Nguyễn Thị Việt Anh - Kiểm sát viên.
Trong ngày 20 tháng 6 năm 2025 tại Trụ sTòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 43/2025/TLPT- DS ngày 09
tháng 4 năm 2025 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất; Yêu cầu bồi thường thiệt hại
về tài sản” do bản án n sự thẩm số 124/2024/DS-ST ngày 25 tháng 10 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 55/2025/QĐ-PT ngày 07
tháng 5 năm 2025; Quyết định hoãn phiên tòa số 79/2025/QĐ-PT ngày 22 tháng 5
năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn S, sinh năm 1963; Địa chỉ: Thôn N, C,
huyện H, tỉnh Bắc Giang (Có mặt)
+ Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm
1984; Địa chỉ: Thôn T, xã Đ, T, Hải Dương- Nhân viên Công ty L5; Địa chỉ trụ sở:
Số C, ngõ H, T, phường Y, quận C, thành phố Nội (Theo Văn bản ủy quyền
ngày 21/9/2022; Vắng mặt)
+ Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Hờ A C
Nguyễn Thị Minh N - Luật thuộc Công ty L5 - Đoàn Luật thành phố H;
Địa chỉ trụ sở: Số C, ngõ H, T, phường Y, quận C, thành phố Nội. (ông C
mặt, bà N vắng mặt)
- Bị đơn: Nguyễn Thị B, sinh năm 1976. Địa chỉ: Thôn N, C, huyện H,
tỉnh Bắc Giang (có mặt).
+ Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Văn Q-
Luật thuộc Công ty L6- Đoàn Luật tỉnh B; Địa chỉ trụ sở: Số nhà C, đường
N, phường H, thành phố B, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt).
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
2
1. Anh Khổng Văn T, sinh năm 1999 (con B); Địa chỉ: Thôn N, C,
huyện H, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt)
2. Chị Khổng Thị Thu H, sinh năm 2001 (con B); Địa chỉ: Thôn N, C,
huyện H, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt)
3. Trần Thị N1, sinh năm 1963 (vợ ông S); Địa chỉ: Thôn N, C, huyện
H, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt)
4. UBND huyện H, tỉnh Bắc Giang; Địa chỉ: Thị trấn T, H, Bắc Giang- do ông
Nguyễn Văn C1 Chức vụ: Phó Trưởng phòng Tài Nguyên Môi trường huyện
H đại diện theo ủy quyền (Theo văn bản ủy quyền số 5385/QĐ - UBND ngày
20/11/2020; vắng mặt)
5. Ông Nguyễn Đình H1, sinh năm 1973 Nguyễn Thị L1, sinh năm
1976 (vợ ông H1); Địa chỉ: Thôn N, xã C, huyện H, tỉnh Bắc Giang- (vắng mặt).
- Người làm chứng: Ông Nguyễn Á, sinh năm 1960; Địa chỉ: Thôn N,
C, huyện H, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt)
Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị B
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Bn án dân s thẩm s 124/2024/DS-ST ngày 25 tháng 10 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tnh Bc Giang thì ni dung v án như sau:
Nguyên đơn ông Nguyễn Bá S trình bày:
Năm 1989, gia đình ông đổi 7000 viên gạch chỉ cho Hợp tác xã thôn N để xây
cầu cho thôn thôn đổi cho gia đình ông được quyền sử dụng thửa đất diện tích
1381m2, đất thùng vũng, đất ao. Việc đổi trên giấy tờ viết tay. Gia đình ông
sử dụng đất từ năm 1989 đến năm 2005 có bán cho gia đình ông Khổng Văn K một
phần diện tích là 280m
2
. Phần đất còn lại, sau đó gia đình ông đã đổ đất để làm nhà
ở và còn lại một phần đất ao như hiện nay. Năm 2013 vợ chồng ông được cấp Giấy
chứng nhận quyền sdụng đất (viết tắt GCNQSDĐ) cho khu đất trên thành hai
thửa là: Thửa đất số 31, tờ bản đồ số 68 (sau được điều chỉnh tờ bản đsố 39),
diện tích 622,7m
2
, mục đích sử dụng: Đất nuôi trồng thuỷ sản, theo GCNQSDĐ số
BR 431177 do UBND huyện H cấp ngày 18/12/2013 thửa đất số 36, tờ bản đồ
số 68, diện tích 464,5m2 (gồm 200m
2
đất 264,5m2 đất trồng cây lâu năm)
theo GCNQSDĐ số BQ 81759 do UBND huyện H cấp ngày 25/10/2013 cùng cho
ông Nguyễn S, sinh năm 1963; Trần Thị N1, sinh năm 1963; Địa chỉ: Thôn
N, C, huyện H, tỉnh Bắc Giang. Thời điểm gia đình ông được cấp GCNQSDĐ
không tranh chấp đất với ai, không có ai phản đối.
Ngoài ra, gia đình ông còn khai hoang được diện tích đất 127,5m
2
sát với
máng nước và đường đi, liền kề với đất thùng, ao gia đình ông được giao năm
1989. m 2009, gia đình ông Đàm Thuận L2 dọn ao, ông mua lại 80 ô đất
(bằng 480m
3
) để tân tạo diện tích đất này. Trước khi xảy ra tranh chấp gia đình ông
vẫn sử dụng làm đường đi, trồng cây lâu năm và không tranh chấp với ai.
3
Thửa đất số 31, tờ bản đồ số 39 của gia đình ông tiếp giáp với thửa đất của gia
đình ông Nguyễn Đình H1 ở cạnh phía Đông là 14m. Ông H1 mua đất của Hợp tác
xã năm 1993, năm 2001 ông H1 được cấp GCNQSDĐ, khi đó ông đang ở trong N.
Năm 2002 gia đình ông H1 chuyển nhượng thửa đất này cho ông Khổng Văn K1
Nguyễn Thị B. Năm 2003 ông K1 chết, năm 2006 B đi xuất khẩu lao
động. Ranh giới giữa đất của gia đình ông đất của gia đình B khi đó cắm
mốc giới trụ 30cm x 30cm, mốc giới có từ khi ông H1 sử dụng đất. Ngày
28/11/2018, B cùng gia đình sử dụng phương tiện giới cắt phá hoa màu trên
diện tích đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của gia đình ông, đào bới, ép cọc, phá
hoại tài sản chiếm đoạt đất của gia đình ông, ông đã trình báo đến Công an
huyện H. Ngày 02 03/12/2018 gia đình B tiếp tục đào bới, đan sắt đổ
tông, san nền để xây tường không đúng với hàng rào ranh giới trước kia mà ông và
ông H1 đã cắm mốc.
Thửa đất của gia đình ông H1 bán cho gia đình Nguyễn Thị B khi được
cấp GCNQSDĐ chỉ có 382m
2
, nhưng thực tế gia đình B đang sử dụng diện tích
đất là hơn 500m
2
và ông H1 có bán đất ao, thùng vũng cho bà B nhưng chỉ khoảng
90m
2
. Ông không thừa nhận lời khai của bà B về diện tích đất ao là của gia đình bà
cũng như việc xây tường bao chia ranh giới đất, phần tường giáp ao do gia đình
ông xây là để ngăn đất bờ ao bị xô. Ông xác định bà B đã lấn chiếm 127,5m
2
đất ao
do gia đình ông khai hoang, tôn tạo một phần diện tích đất hơn 40m
2
tại tha
đất số 39, tbản đồ 68 đã được UBND huyện H cấp GCNQSDĐ năm 2013.
vậy, ông yêu cầu Tòa án buộc B gia đình B phải trả lại cho gia đình ông
toàn bộ diện tích đất lấn chiếm trên; yêu cầu B phải bồi thường thiệt hại về tài
sản, số tiền 68.000.000 đồng (sáu mươi tám triệu đồng) do bà B đã phá hoại tài sản
trên diện tích đất của gia đình ông.
Tại phiên toà sơ thẩm, ông S sửa đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bà B phải trả
cho ông S diện tích đất ao 112,4m
2
gia đình ông S khai hoang 15,0m
2
đất B
lấn chiếm vào thửa đất nuôi trồng thuỷ sản số 39, tờ bản đồ số 68. Yêu cầu bà B
phải bồi thường thiệt hại vtài sản trên đất 3.918.805 đồng (Ba triệu chín trăm
mười tám nghìn tám trăm linh năm đồng).
Bị đơn Nguyễn Thị B trình bày: chồng ông Khổng Văn K1 mua
đất của vợ chồng ông Nguyễn Đình H1 năm 2002. Khi mua, hai bên lập biên
bản giao đất, ghi diện tích đất mua bán bao gồm cả đất thùng vũng, bờ mương
gia đình ông H1 đã trồng 04 bụi tre. Thửa đất của và các gia đình chung quanh
đều đã phân chia ranh giới, giữa đất của gia đình bà đất của gia đình ông S
một bờ tường gạch sát ao của nhà ông S là ranh giới đất. Tháng 5/2002 ông K1
chết, đi lao động Đài Loan tnăm 2004 đến năm 2007 vthăm nhà thì phát
hiện bức tường đã đổ. Năm 2010, bà B nhờ em trai ở nhà mua đất tân lên, ngoài ra
không làm gì khác. Khi đó, nghe nói gia đình ông S nuôi vịt trên đất của gia
đình bà nhưng không ý kiến gì. Năm 2017 B về nước đã cho dọn vườn,
chặt cây trên đất gia đình gồm 01 hàng chuối gia đình ông S trồng sang đất
của gia đình bà, khi chặt cây bà đã trao đổi với ông S, ban đầu ông S đồng ý nhưng
khi chặt đến khóm thứ 3, ông S không cho chặt và nói là đất của gia đình ông S.
4
Phần diện tích đất của gia đình hiện tăng lên hơn 500m
2
so với diện tích
ghi trong GCNQSDĐ mua của ông H1 do gia đình bà đã tân phần đất thùng,
vũng mua của ông H1 năm 2010, không phải do gia đình bà lấn chiếm sang đất của
gia đình ông S. Trong giấy mua bán đất thổ ông H1 bán cho cả phần đất
thùng vũng này. Nay ông S khởi kiện yêu cầu gia đình phải trả lại cho gia đình
ông S diện tích đất ao, thùng vũng khai hoang 112,4m
2
15,0m
2
đất lấn chiếm
vào thửa đất nuôi trồng thuỷ sản số 39, tờ bản đồ số 68 của gia đình ông S, bồi
thường thiệt hại về tài sản cho gia đình ông S số tiền 3.918.805 đồng (Ba triệu chín
trăm mười tám nghìn tám trăm linh năm đồng), bà không đồng ý.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đình H1 trình bày: Ông
gia đình bà Nguyễn Thị B, gia đình ông Nguyễn S hàng xóm láng giềng,
không quan hệ họ hàng không mâu thuẫn với nhau. Khoảng năm 1987-
1988 Hợp tác xã N3 bán một số thửa đất cho các hộ gia đình trong thôn để Hợp
tác xã làm cầu cho thôn. Lúc đó ông chưa lấy vợ, gia đình ông có mua của Hợp tác
thửa đất giáp với thửa đất của gia đình ông Nguyễn S một bên giáp với
đất nhà ông Nguyễn Đình V. Sau đó, ông đã xây nhà ở, công trình phụ, xây ờng
bao ba mặt, trong đó mặt giáp với đất ao của ông S, ông đã xây tường bao bổ trụ
bằng gạch, còn một mặt phía Nam đất thùng vũng, bờ mương ông không xây
tường nhưng có trồng tre. Năm 2001, ông được Nhà nước cấp GCNQSDĐ thửa đất
số (-), tbản đsố (-), diện tích 382m
2
(trong đó đất 360m
2
, đất vườn 22m
2
).
Ngày 15/02/2002 (âm lịch) do không nhu cầu trên đất này nên vợ chồng ông
đã chuyển nhượng thửa đất cho bà Nguyễn Thị B. Khi chuyển nhượng thì ranh giới
đất vẫn giữ nguyên, không thay đổi so với GCNQSDĐ. Ông chỉ chuyển
nhượng cho B phần kích thước vuông rộng phần phía giáp mương (nay
đường đi phía trước nhà B phía Nam) chiều rộng phía mương 18,6m;
còn phần ông làm đường đi lên đường 295 chiều rộng 3m, chiều dài 14m, diện
tích 52m
2
ông không chuyển nhượng cho B. Như vậy, diện tích đất ông chuyển
nhượng cho B ghi trong GCNQSDĐ chỉ còn lại 330m
2
. Trong hợp đồng ghi
bán cho B cả phần diện tích đất thùng vũng và 04 bụi tre trồng trên đất bờ
mương ở phía Nam của thửa đất. Phần diện tích đất ở phía Nam (phía cổng của gia
đình B hiện nay), trước đây có một phần diện tích đất thùng vũng bờ ơng
không nằm trong GCNQSDĐ Nhà nước cấp cho ông, nhưng do ông quản lý, sử
dụng từ khi ông mua đất của Hợp tác ra trên đất. Diện tích đất thùng vũng
này gia đình ông S chưa bao giờ quản sdụng. Khi chuyển nhượng thửa đất
cho bà B, ông đã chuyển giao cho B tiếp tục quản lý, sdụng tất cả các diện
tích đất nêu trên. Hai bên làm hợp đồng chuyển nhượng viết tay xác nhận
của trưởng thôn Nguyễn Đình V1, chưa làm thủ tục qua xã chưa công chứng.
Nay ông xác định đã chuyển nhượng thửa đất cho B, vợ chồng ông không còn
quyền lợi nên không liên quan đến việc tranh chấp đất giữa ông S B, đề
nghị Tòa án xem xét.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Thị N1, anh Khổng Văn T,
chị Khổng Thị Thu H không gửi ý kiến, văn bản gửi đến Tòa án.
- Đại diện UBND huyện H trình bày:
5
+ Đối với việc cấp GCNQSD đất mang tên hộ ông Nguyễn Đình H1: Việc
khai đăng đất đai của hộ hộ ông Nguyễn Đình H1 năm 2000 được thực hiện
theo Chỉ thị số 18/1999/CT-TTg ngày 01/7/1999 của Thủ tướng Chính phủ về một
số biện pháp đẩy mạnh hoàn thiện cấp GCNQSD đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất
ở nông thôn năm 2000. Trình tự thủ tục cấp GCNQSD đất cho hộ ông H1 đảm bảo
đúng theo quy định tại Mục I, phần 2, Thông tư 346/TT-TCĐC ngày 16/3/1998
của T2 hướng dẫn thủ tục đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính, cấp GCNQSD đất.
+ Đối với thửa số 31, tờ bản đồ số 68, diện tích 622,7m
2
và thửa số 36, tờ bản
đồ s68, diện tích 464,5m
2
mang tên hộ ông Nguyễn S, sinh năm 1963;
Trần Thị N1, sinh năm 1963; Địa chỉ: Thôn N, xã C, huyện H: Năm 2013, ông
Nguyễn S, sinh m 1963; Trần Thị N1 lập hồ cấp GCNQSDĐ đối với
hai thửa đất nêu trên theo Luật Đất đai 2003, Nghị định số 181/NĐ-CP năm 2004
và Nghị định số 84/NĐ-CP năm 2007 của Chính phủ. Qua kiểm tra về trình tự, thủ
tục đảm bảo theo Điều 14 Nghị Nghị định số 84/NĐ-CP năm 2007 của Chính phủ.
- Kết quả xác minh tại UBND C Ban quản thôn N về nguồn gốc các
thửa đất đang tranh chấp giữa gia đình ông Nguyễn S gia đình Nguyễn
Thị B, địa phương cung cấp như sau:
Thửa đất số 39, tờ bản đồ số 68, diện tích 622,7m
2
thửa đất số 36, tờ bản
đồ số 68, diện tích 462,5m
2
GCNQSDĐ mang tên hộ ông Nguyễn S; Thửa
đất số (-), tờ bản đồ số (-), diện tích 382m
2
đã được cấp GCNQSDĐ mang tên hộ
ông Nguyễn Đình H1 đã chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị B, theo bản đồ địa
chính thửa đất của B thửa số 38, tờ bản đồ số 68. Hiện nay tranh chấp đất
giữa thửa đất của gia đình B thửa đất số 39 của gia đình ông S. Thửa đất gia
đình B nhận chuyển nhượng của ông H1 thì GCNQSDĐ vẫn đứng tên ông H1,
chưa sang tên cho B, nhưng B đã sử dụng và trên đất, đến nay đã xây nhà
kiên cố 03 tầng. Nguồn gốc hình thành các thửa đất do khoảng năm 1987- 1988
Hợp tác xã Ngọ bán khu đất này để lấy tiền làm Cầu C, thôn N. Gia đình ông
H1 mua của Hợp tác thửa đất diện tích 382m
2
. Khi ông H1 sử dụng đất này
đã xây nhà cấp 4 và công trình phụ, xây tường bao phía giáp đất ao ông S, hai bên
không tranh chấp gì. Năm 2002 vợ chồng B mua lại đất của ông H1 đã ra
trên đất, hai bên không xảy ra tranh chấp đất với nhau. Sau đó ông K1 chồng
B bị điện giật chết thì các con chuyển vnhà nội sinh sống, B đi xuất
khẩu lao động tại nước ngoài. Sau khi về nước, khoảng năm 2018-2019 B xây
nhà kiên cố đã xảy ra tranh chấp với gia đình ông S. Hai thửa đất của gia đình ông
S nêu trên cũng có nguồn gốc mua của Hợp tác xã N3, là đất thùng, ao, địa phương
không nắm rõ diện tích đất cụ thể. Sau đó gia đình ông S đã tôn tạo, làm nhà ở trên
phần diện tích đất giáp đường 295, thửa đất này đã được cấp GCNQSDĐ thửa
số 36, tờ bản đồ số 68. Phần diện tích đất còn lại ông S sử dụng vào mục đích nuôi
trồng thủy sản, theo kết quả đo đạc thửa đất số 39, tờ bản đồ số 68 cạnh tiếp
giáp với thửa đất của gia đình bà B đang có tranh chấp hiện nay.
Về ranh giới, mốc giới thửa đất của gia đình B theo kết quả đo đạc bản đồ
địa chính C đang quản theo kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất của Chi
nhánh Văn phòng đăng đất đai cung cấp không sthay đổi lớn. Tuy nhiên,
6
diện tích thửa đất giữa hai kết quả đo đạc sự chênh lệch. Thửa đất của gia đình
B đang quản hiện nay không bao gồm phần diện tích còn lại trong
GCNQSDĐ cấp lần đầu cho ông H1 năm 2001, hướng ra đường tỉnh lộ 295, theo
hồ cấp GCNQSDĐ, phần diện tích đất 52m
2
chiều rộng 3m, chiều dài 14m,
không nằm trong thửa đất số 38, tờ bản đồ số 68 của gia đình B đang sử dụng
hiện nay. Diện tích đất của gia đình bà B tăng lên so với GCNQSDĐ cấp lần đầu
năm 2001 cho ông Nguyễn Đình H1 do diện tích phần đất thùng vũng nằm liền
kề với phần diện tích cấp GCNQSD đất m 2001 cho ông H1 một phần diện
tích thuộc bờ mương đã được đo đạc vào thửa đất theo bản đồ địa chính năm 2013
do UBND đang quản lý. Phần diện tích đất thùng vũng nêu trên không nằm
trong diện tích được cấp GCNQSDĐ năm 2001. Diện tích đất bờ mương do tập thể
quản tại thời điểm gia đình ông H1 sử dụng. Gia đình ông H1 sử dụng ổn định
không tranh chấp với ai. Phần diện tích đất của B thuộc quy hoạch đất
nông thôn đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
- Quá trình giải quyết vụ án, Toà án cấp thẩm đã ra quyết định xem xét
thẩm định tại chỗ, định giá tài sản đối với phần diện tích đất tài sản trên diện
tích đất có tranh chấp, kết quả như sau:
Thửa đất s(-), tờ bản đồ số (-), diện tích 382m
2
mang tên hộ ông Nguyễn
Đình H1, được UBND huyện H cấp GCNQSDĐ ngày 15/11/2001, vào sổ cấp
GCN số 00768 tài sản trên đất hiện do Nguyễn Thị Bảo quản L3, sdụng
(theo bản đồ địa chính là thửa số 38, tờ bản đồ 68; theo Bản đo đạc hiện trạng thửa
đất do Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện H, tỉnh Bắc Giang thực hiện
việc đo đạc thửa đất ngày 24/6/2024 thửa đất được đánh số 40) tứ cận như sau:
Phía Tây gp đất ông Nguyễn Đình V; Phía Bắc giáp đất nhà ông Ngọ Văn L4;
Phía Nam giáp đường đi; Phía Đông giáp đất ông Nguyễn S (thửa đất số 39).
Tài sản trên đất gồm: 01 ngôi nhà 03 tầng, lát gạch hoa, tường xây gạch trát hoàn
thiện sơn 4 mặt; cửa gỗ (cửa chính); cửa sổ nhôm hệ; cầu thang bậc đá, tay vịn
gỗ; trần bê tông cốt thép; diện tích tại khu đất tranh chấp mỗi tầng là 8,25m
2
; trị giá
3.700.000đ/1m
2
; 01 tường bao xây 110 bổ trụ, trát hoàn thiện sơn, diện tích
43,5m
2
x 250.000đ/1m
2
trị giá 10.875.000 đồng; 01 rào chắn B40, định vị bằng cột
thép V, diện tích 26,4m
2
trị giá 500.000 đồng; 01 sân lát gạch đỏ diện tích 25,8m
2
trị giá 2.000.000 đồng; 01 trụ cổng cao 3m, rộng 0,6m x 0,6m, cột bê tông cốt thép,
ngoài ốp gạch, trên bắn ngói đỏ, 02 cánh cổng khung sắt hộp trị giá 6.000.000
đồng; 01 cửa lách khung sắt bịt tôn trị giá 500.000 đồng; Giá đất theo chuyển
nhượng tại địa phương vào thời điểm định giá 9.000.000 đồng/1m
2
, đất vườn
750.000 đồng/1m
2
, đất ao là 500.000 đồng/1m
2
. Thửa đất ao của gia đình ông S đã
được san lấp khoảng năm 2020, tài sản trên đất hiện nay một số khóm chuối,
ngoài ra không có tài sản nào khác; có tứ cận như sau: Phía Đông giáp đất nhà ông
O (6m mặt đường đã bán cho ông Khổng Văn K); phía Tây giáp đất của gia đình
bà B; phía Nam giáp đường; phía Bắc giáp đất ở của gia đình ông S.
Chi nhánh Văn phòng đất đai huyện H giải thích kết quả đo đạc hiện trạng đất
như sau:
7
+ Đối với diện tích đất của hộ Nguyễn Thị B: Theo GCNQSDĐ cấp ngày
15/11/2001, vào sổ cấp GCN số 00768, diện tích đất là 382m
2
thuộc thửa đất số (-),
tờ bản đồ số (-) (bản đđịa chính hiện nay được chỉnh thửa số 38, tờ bản đồ
số 68). Căn cứ công trình trên đất hộ B đã xây dựng nhà, tường đang sử
dụng, xác định hiện trạng sử dụng đất của hộ bà B là 556,3m
2
.
Đối chiếu hiện trạng sử dụng đất với diện tích đất đã được cấp theo
GCNQSDĐ, bản đđịa chính đã được chỉnh thì hiện trạng sdụng đất của hộ
B tăng lên 174,3m
2
trong đó 15,0m
2
đã cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Nguyễn
Bá S.
+ Đối với diện tích hộ ông Nguyễn Bá S: Theo GCNQSDĐ số BR 431177 do
UBND huyện H cấp ngày 18/12/2013 cho hộ ông Nguyễn S, diện tích đất là
622,7m
2
thuộc thửa số 39, tờ bản đồ số 68. Diện ch đất theo hiện trạng hộ ông S
đang sử dụng là 607,7m
2
.
Đối chiếu ranh giới hiện trạng với ranh giới được cấp GCNQSDĐ thửa đất số
39, tờ bản đồ số 68 t xác định diện tích đất của hộ ông S bị giảm so với
GCNQSDĐ 15m
2
(giảm sang thửa đất của B), thể hiện tại các cạnh: A2A3 =
30,84m; A2A4 = 30,90m; A3A4 = 0,98m.
Tại phiên thẩm định, đo đạc 02 thửa đất tranh chấp ngày 10/4/2024, ông S
chỉ xác định diện tích đất gia đình B lấn chiếm của gia đình ông S là 59,1m
2
, từ
điểm A1A2A3A4A5A1 nằm trên đất của gia đình B. Ông S trình bày diện
tích đất do ông S khai hoang đất ao, thừng vũng 112,4m
2
(phần sân gạch và cổng
của gia đình B hiện nay) nhưng ông S không xác định được (không chỉ vị trí)
các điểm cụ thể nên không có cơ sở thể hiện trong sơ đồ đo đạc hiện trạng thửa đất.
Ngoài ra, quá trình giải quyết vụ án, ngày 29/9/2020, ông Nguyễn S
đơn yêu cầu trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết “Sáng” trong hồ sơ cấp
GCNQSDĐ cho hộ ông Nguyễn Đình H1. Tại Kết luận giám định số 10/KL-
KYHS ngày 22/4/2022 V2- Bộ C2 kết luận: “Người mẫu chữ ký, chữ viết đứng
tên Nguyễn S trên các mẫu so sánh hiệu từ M1 đến M12 không ký, viết ra
chữ ký Sáng’ dưới mục “Đông giáp: (Các chủ SD tiếp giáp) Ký tên” trên mẫu cần
giám định hiệu A1 chữ Sáng” tại mục “1-Phía Đông giáp” trên mẫu cần
giám định hiệu A2”. Ngày 05/10/2022, Nguyễn Thị B đơn yêu cầu trưng
cầu giám định chữ ký, chữ viết “Bảo” trong hồ cấp GCNQSDĐ cho hông
Nguyễn S các tài liệu giáp ranh các hộ liền kề. Tòa án nhân dân huyện
Hiệp Hòa đã yêu cầu UBND huyện H; Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai
huyện H, tỉnh Bắc Giang; Trung tâm lưu trữ phát triển quỹ đất - Sở Tài nguyên
Môi trường tỉnh B cung cấp tài liệu, chng cứ gốc có trong hồ cấp
GCNQSDĐ của hộ ông Nguyễn S, Trịnh Thị N2 đối với thửa đất số 36, tờ
bản đồ số 68, diện tích 464,5m
2
thửa số 39, tờ bản đồ số 68, diện tích 622,7m
2
để thực hiện trưng cầu giám định. Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện H,
tỉnh Bắc Giang có cung cấp bộ hồ sơ cấp GCNQSDĐ đối với 02 thửa đất trên được
lưu giữ tại chi nhánh, kiểm tra chữ trong hồ đều không phải là chữ sống.
Trung tâm lưu trữ phát triển quỹ đất- Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B
8
văn bản trả lời không lưu trữ hồ cấp GCNQSDĐ đối với hai thửa đất trên của
ông Nguyễn S, bà Trần Thị N1. vậy, không tài liệu chứng cứ để Toà án
trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết theo yêu cầu của bà B.
Với nội dung trên, Bản án dân sự thẩm số 124/2024/DS-ST ngày
25/10/2024 Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án số 121/QĐ-SCBSBA ngày
11/12/2024 của Toà án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang đã căn cứ các
Điều 164; Điều 166; Điều 175; Điều 275; Điều 254; Điều 288; khoản 2 Điều 357;
khoản 2 Điều 468; Điều 584; Điều 589 của Bộ luật dân sự; Điều 100; Điều 166,
Điều 170; Điều 202; Điều 203 của Luật đất đai; khoản 9 Điều 26; khoản 3 Điều
144; Điều 147; Điều 157; Điều 165; Điều 271; khoản 1 Điều 273; Điều 227; Điều
228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Bá S.
Xác nhận diện tích 15,0m
2
đất nuôi trồng thủy sản hiện nay gia đình
Nguyễn Thị B lấn chiếm tại phần giáp ranh giữa 02 thửa đất số 39, tờ bản đồ số 68
của gia đình ông S thửa đất số 40, tbản đồ số 68 của gia đình B đang
tranh chấp thuộc quyền sử dụng của ông Nguyễn S tại thửa đất số 39, tờ bản
đồ số 68, diện tích 622,7m
2
(đất nuôi trồng thủy sản) có giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BR 431177; số vào sổ cấp GCN: CH00242; do UBND huyện H cấp
ngày 18/12/2013 cho ông Nguyễn Bá S, sinh năm 1963; Trần Thị N1, sinh năm
1963; Địa chỉ: Thôn N, xã C, huyện H, tỉnh Bắc Giang.
Buộc bà Nguyễn Thị B, anh Khổng Văn T chKhổng Thị Thu H phải
trách nhiệm liên đới tháo dỡ bờ rào B40 và bờ tường gạch xây dựng trên phần diện
tích đất lấn chiếm của gia đình ông S, trả lại phần diện ch đất lấn chiếm cho ông
Nguyễn S, Trần Thị N1 tổng diện tích đất (loại đất nuôi trồng thủy sản) là
15,0m
2
tại phần giáp ranh giữa 02 thửa đất số 39, tờ bản đồ số 68 của gia đình ông
S thửa đất số 40, tbản đồ số 68 của gia đình B; chiều dài các cạnh thể
hiện bằng nét đứt nét liền theo Bản đo đạc địa chính hiện trạng thửa đất do Chi
nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện H, tỉnh Bắc Giang thực hiện việc đo đạc
thửa đất ngày 24/6/2024 (có đồ kèm theo), các điểm tiếp giáp cụ thể như sau:
Hướng Tây tiếp giáp với thửa đất số 40, tờ bản đồ số 68 của gia đình B cạnh
A2 + A4 = 30,90m; Hướng Đông tiếp giáp với thửa đất số 39, tờ bản đồ số 68 của
gia đình ông S là cạnh A2+A3= 30,84m; Hướng Nam tiếp giáp với phần diện tích
đất mương và đường đi là cạnh: A3 + A4 = 0,98m.
Buộc bà Nguyễn Thị B phải có trách nhiệm bồi thường cho ông Nguyễn Bá S
trị giá 03 khóm chuối, số tiền là 261.000đ (Hai trăm sáu mươi mốt nghìn đồng).
- Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Bá S về việc
buộc bà Nguyễn Thị B và gia đình phải trả lại cho gia đình ông S diện tích đất khai
hoang là 112,4m
2
và yêu cầu bà Nguyễn Thị B phải bồi thường cho gia đình ông S
số tiền thiệt hại về tài sản còn lại là 3.657.805đ (Ba triệu sáu trăm năm mươi bẩy
nghìn tám trăm linh năm đồng).
Ngoài ra án thẩm còn tuyên về chi phí định giá, thẩm định tài sản, án phí,
quyền kháng cáo, quyền yêu cầu thi hành án cho các bên đương sự.
9
Ngày 07/11/2024, Nguyễn Thị B kháng cáo một phần Bản án sơ thẩm, với
do Bản án xác định xây tường lấn sang phần diện tích đất ao 15m
2
của nhà
ông S buộc phải trả lại cho gia đình ông S diện tích đất trên không đúng,
đây là diện tích đất của gia đình bà đã sử dụng từ khi nhận chuyển nhượng đất của
ông H1. đề nghị Tòa phúc thẩm sửa một phần Bản án thẩm theo hướng
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với việc đòi diện tích đất
trên cũng như tháo dỡ công trình trên đất.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án, bị đơn B vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo, ông S
không rút yêu cầu khởi kiện.
Ông Nguyễn S người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông trình
bày và tranh luận: Xác định phần diện tích đt tranh chấp 15m
2
B kháng cáo
thuộc quyền sử dụng của gia đình ông S, không có cơ sở để xác định đây là đất của
nhà bà B, đề nghị Hội đồng xét xử (viết tắt là: HĐXX) căn cứ khoản 1 điều 308 Bộ
luật tố tụng dân sự (viết tắt là: BLTTDS): Không chấp nhận kháng cáo của
Nguyễn Thị B. Đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Nguyễn Thị B trình bày tranh luận: đã nhận chuyển nhượng thửa
đất t vợ chồng ông Nguyễn Đình H1. Ông H1 đã được UBND huyện H cấp
GCNQSDĐ từ năm 2001 với diện tích 382m
2
. Khi nhận chuyển nhượng, thửa đất
của ông H1 đã xây dựng tường bao, cạnh giáp ao nhà ông S và ông H1 cũng đã xây
tường gạch, phần móng đến nay vẫn còn. Khi Toà án cho đo đạc đã đo trùm sang
đất nhà bà diện tích 15m
2
. Việc Toà án xác định gia đình bà lấn chiếm diện tích đất
nhà ông S như trên không đúng với GCNQSDĐ đã cấp cho ông H1. Do đó, đề
nghị HĐXX không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông S về việc buộc gia
đình phải trả lại cho gia đình ông Nguyễn S diện tích đất ao 15,0m
2
. Các nội
dung khác của án sơ thẩm đã tuyên bà nhất trí, không có ý kiến gì.
Những người tham gia tố tụng khác đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt.
Tham gia phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang phát biểu
ý kiến: Quá trình giải quyết ván từ khi thụ đến khi mở phiên tòa tại phiên
tòa, Thư , HĐXX đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của BLTTDS. Sau khi
xem xét yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị B và các tài liệu, chứng cứ có trong
hồ sơ vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX phúc thẩm căn cứ khoản 1
Điều 308 của BLTTDS không chấp nhận kháng cáo của bà B, giữ nguyên bản án
dân sthẩm số 124/2024/DS-ST ngày 25/10/2024 Quyết định sửa chữa, bổ
sung bản án số 121/QĐ-SCBSBA ngày 11/12/2024 của Toà án nhân dân huyện
Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Bà Nguyễn Thị B phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự
phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ ván được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, HĐXX nhận định:
10
[1]. Về tố tụng: Tại phiên tòa nguyên đơn, bị đơn và Luật sư bảo vệ quyền lợi
ích hợp pháp cho nguyên đơn có mặt; Luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị
đơn những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án vắng mặt tại
phiên toà lần thứ hai không do, HĐXX căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân
sự xét xử vụ án theo quy định.
[2]. Nguyễn Thị B kháng cáo bản án trong thời hạn luật định, thực hiện
đúng nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, HĐXX chấp nhận xem xét
kháng cáo của bà B theo quy định.
[3]. Nguyễn Thị B xác định Toà án cấp sơ thẩm tuyên buộc các con
tháo dỡ công trình, tài sản trên đất lấn chiếm trả cho ông S, N1 diện tích đất
15m
2
thuộc thửa đất số 39, tờ bản đồ số 68 tại thôn N, C, huyện H không
đúng phần diện tích đất trên đất của gia đình bà, đnghị HĐXX cấp phúc
thẩm sửa một phần bản án dân sự thẩm số 124/2024/DSST ngày 25/10/2024,
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện trên của ông S. Xét kháng cáo của bà Nguyễn
Thị B, HĐXX thấy:
[4]. Năm 1989 ông Nguyễn S đã đổi 7000 viên gạch lấy diện tích đất
khoảng 1381m
2
(đất thùng vũng, đất ao) của Hợp tác xã thôn N, C, huyện H
từ đó đến nay gia đình ông S đã sử dụng diện tích đất trên. Năm 2005 ông S
chuyển nhượng khoảng 280m
2
đất cho ông Khổng Văn K, còn lại đã tân tạo đất để
làm nmột phần làm ao. Năm 2013, ông Nguyễn S vợ Trần Thị
N1 đã khai và được UBND huyện H cấp GCNQSDĐ đối với khu đất trên. Khi
này khu đất tách làm hai thửa được cấp GCNQSDĐ cho cả hai thửa gồm: Thửa
đất số 36, tờ bản đồ số 68, diện tích 464,5m
2
(trong đó 200m
2
đất 264,5m
2
đất trồng cây lâu năm) theo GCNQSDĐ số BQ81759 do UBND huyện H cấp ngày
25/10/2013 và Thửa đất số 31 (sau được đính chính là thửa số 39), tờ bản đồ số 68,
diện tích 622,7m
2
(là đất nuôi trồng thuỷ sản) theo GCNQSSDĐ số BR431177 do
UBND huyện H cấp ngày 18/12/2013 cùng cho ông Nguyễn S, sinh năm 1963
Trần Thị N1, sinh năm 1963, Địa chỉ thôn N, C, huyện H, tỉnh Bắc
Giang. Sau khi được cấp GCNQSDĐ ông S, N1 không khiếu nại đối với
diện tích thửa đất được cấp.
[5]. Cùng thời điểm và khu vực đất ông S đã mua, ông Nguyễn Đình H1
mua của Hợp tác N3, C, huyện H một thửa đất một bên giáp với đất của
gia đình ông Nguyễn S một bên giáp với đất gia đình ông Nguyễn Đình V.
Năm 2001 ông H1 đã được UBND huyện H cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất trên
thửa số (-), tờ bản đồ số (-), diện tích 382m
2
(trong đó đất 360m
2
, đất vườn
22m
2
), theo GCNQSDĐ số Q684138 vào sổ cấp GCN số 00768 do UBND huyện
H cấp ngày 15/11/2001 cho hộ ông Nguyễn Đình H1, sinh năm 1973, địa chỉ: thôn
N, C, huyện H. Sau đó, ông H1 đã xây nhà ở, tường bao xung quanh thửa đất.
Ngày 15/02/2002 (âm lịch), ông H1 vợ đã chuyển nhượng thửa đất cùng tài sản
trên đất cho Nguyễn Thị B, ông Khổng Văn K1. Trong “Giấy chuyển nhượng
nhà đất thổ cư” ghi hai bên thống nhất giá chuyển thượng thửa đất
14.000.000 đồng, thửa đất của ông H1 các cạnh tiếp giáp gồm phía Đông giáp
đất ông S; Tây giáp đất ông V; Nam giáp đất bờ máng của nhà nước; Bắc giáp đất
11
ông T1. Ông H1 đã xây tường gạch, thuộc quyền sử dụng từ mép tường gạch trở
lại. Tài sản trên đất gồm ba gian nhà xây gạch lợp ngói; 02 gian bếp xây gạch
lợp dạ; 01 sân vôi, 01 giếng khoan; bốn khóm tre nằm bên lề máng nước của nhà
nước. Từ sau khi nhận chuyển nhượng, gia đình B trực tiếp sử dụng đất, đến
nay chưa thực hiện thủ tục chuyển nhượng, sang tên theo quy định, GCNQSDĐ
vẫn mang tên ông Nguyễn Đình H1, tuy nhiên giữa gia đình B gia đình ông
H1 không tranh chấp với nhau. Theo kết quả xác minh, thửa đất của gia đình B
theo bản đồ địa chính năm 2013 do UBND xã C quản lý là thửa số 38, tờ bản đồ số
68, theo bản đo đạc địa chính do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện H đo
ngày 24/6/2024, thửa đất được ghi là thửa số 40, diện tích 541,3m
2
. Tuy nhiên, quá
trình sử dụng đất, tnăm 2006 đến năm 2017 B đi lao động nước ngoài, các
con ở cùng ông bà nên gia đình bà không ở trên đất, không trực tiếp quản lý đất.
[6]. Thửa đất số 39, tờ bản đồ số 68 được gia đình ông S quản lý, sử dụng
đất nuôi trồng thuỷ sản, đã sử dụng tnăm 1989 cho đến nay. Thửa đất trên
cạnh phía Tây giáp với thửa đất của ông Nguyễn Đình H1 chuyển nhượng cho
Nguyễn Thị B. Quá trình sử dụng đất cho thấy, giữa gia đình ông S ông H1
không xảy ra tranh chấp, giữa gia đình ông S và bà B đã xảy ra tranh chấp về ranh
giới đất từ năm 2018 cho đến nay, ông S xác định ranh giới đất của gia đình ông và
gia đình B được phân định bằng các cột mốc từ khi ông H1 sử dụng đất, khi
bà B làm nhà năm 2018 đã phá đi, xây tường lấn chiếm sang đất của nhà ông. Bà B
xác định khi nhận chuyển nhượng đất của ông H1, cạnh giáp nông S đã được
ông H1 xây tường giáp ao, phần bên trong bức tường của gia đình B, do đó
bà B xác định khi xây dựng công trình năm 2018, bà không xây lấn sang đất ao nhà
ông S.
[7]. Kết quả đo đạc hiện trạng sử dụng đất của Chi nhánh Văn phòng đăng ký
đất đai huyện H ngày 24/6/2024 tại hai thửa đất của gia đình ông S gia đình
B cho thấy: Thửa đất số 39, tờ bản đồ số 68 của gia đình ông S đang sử dụng
diện tích 607,7 m
2
, giảm diện tích đất 15m
2
so với diện tích đất theo GCNQSDĐ
số BR431177 do UBND huyện H cấp ngày 18/12/2013 và bản đồ địa chính năm
2013. Thửa đất số 38, (theo đồ đo đạc địa chính ngày 24/6/2024 số 40), tờ
bản đồ số 68 gia đình bà B sử dụng hiện diện tích là 541,3m
2
. Diện tích đất tăng
lên 174,3m
2
so với diện tích đất theo GCNQSDĐ số Q 684138 vào sổ cấp GCN
số 00768 do UBND huyện H cấp ngày 15/11/2001. Kết quả đo đạc hiện trạng sử
dụng mỗi thửa đất trên đã được Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện H
thực hiện việc chồng ghép, đối chiếu với ranh giới mỗi thửa đất theo GCNQSDĐ
đã được cấp, kết quả cho thấy phần diện tích đất 15m
2
bị giảm của thửa đất số 39,
tờ bản đồ số 68 vị trí giáp với thửa đất số 38, (theo đồ đo đạc địa chính
ngày 24/6/2024 số 40), tờ bản đồ số 68 của gia đình B, gia đình B đã xây
tường rào B40 tường gạch trên đó sử dụng phần diện tích đất này (thể hiện
trên sơ đồ đo đạc hiện trạng là hình tam giác có các cạnh: Cạnh A2A3 dài 30,84m;
Cạnh A3A4 dài 0,98m; Cạnh A4A2 dài 30,90m). Do vậy, ông Nguyễn S xác
định gia đình bà B đã xây dựng, lấn chiếm đất tại thửa đất số 39, tờ bản đồ số 68 là
hoàn toàn có căn cứ.
12
[8]. Tại phiên toà, B trình bày phần diện tích đất 15m
2
nêu trên được gia
đình B sử dụng từ khi được ông H1 chuyển nhượng đất cho năm 2002, tuy
nhiên ngoài lời trình bày B không đưa ra được căn cứ nào khác đchứng minh
phần diện tích trên thuộc quyền sử dụng của gia đình B. Hơn nữa, thửa đất của
gia đình B đang sử dụng đã được UBND huyện H cấp GCNQSDĐ từ năm
2001, trước thời điểm nhà ông S được cấp GCNQSDĐ nhiều năm. Theo
GCNQSDĐ đã cấp cho nhà B, kết quả đo đạc cho thấy phần diện tích đất 15m
2
nêu trên không thuộc diện tích đất của thửa s 38, tờ bản đồ 68 đã được cấp
GCNQSDĐ cho ông Nguyễn Đình H1 năm 2001. Do đó HĐXX thấy không
sở để chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Thị B đối với nội dung này để sửa một
phần bản án thẩm.
[9]. Từ những phân tích trên, HĐXX phúc thẩm thấy Tòa án cấp thẩm đã
chấp nhận đối với nội dung yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn S về việc buộc
Nguyễn Thị B, anh Khổng Văn T, chị Khổng Thị Thu H phải tháo dỡ công trình
trên đất lấn chiếm (tường rào B40, tường gạch xây) trả lại diện tích đất 15m
2
(đất nuôi trồng thu sản) tại thửa đất số 39, tờ bản đồ số 68 thuộc thôn N, C,
huyện H cho ông Nguyễn Bá S, bà Trịnh Thị N2 là hoàn toàn có căn cứ.
[10]. Quá trình giải quyết vụ án tại cấp thẩm, HĐXX thấy Tòa án thẩm
thụ lý, giải quyết vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng, đủ người tham gia tố
tụng. Trong quá trình tiến hành tố tụng của cấp sơ thẩm còn một số sai sót như
không lưu một số thông báo tố tụng, biên bản giao, nhiều lần tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dẫn đến để vụ án kéo dài, tuy nhiên những sai sót này không ảnh
hưởng đến việc xem xét, đánh giá nội dung tranh chấp, HĐXX thấy cấp thẩm
cần nghiêm khắc rút kinh nghiệm đối với việc để xảy ra một số lỗi sai sót trên.
[11]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên
Nguyễn Thị B phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm theo quy định
tại khoản 1 điều 148 BLTTDS; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH
ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[12]. Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng
nghị, HĐXX không đặt ra xem xét.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 313; Khoản 1 điều 148 của BLTTDS;
khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban
thường vụ Quốc Hội quy định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị B. Giữ nguyên bản án dân sự
thẩm số 124/2024/DS-ST ngày 25/10/2024 Quyết định sa cha, b sung
bn án s 121/QĐ-SCBSBA ngày 11/12/2024 ca Toà án nhân dân huyn Hip
Hòa, tnh Bc Giang.
13
2. Về án phí: Nguyễn Thị B phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự
phúc thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ng án phí đã nộp theo biên lai
thu số 0004294 ngày 07/11/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hiệp Hòa,
tỉnh Bắc Giang.
3. Các quyết định khác của án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bắc Giang;
- TAND, Chi cục THADS cấp sơ thẩm;
- Các đương sự;
- Lưu HS; VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Nguyễn Thị Hằng
Tải về
Bản án số 86/2025/DS-PT Bản án số 86/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 86/2025/DS-PT Bản án số 86/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất