Bản án số 84/2024/DS-PT ngày 19/09/2024 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp hợp đồng dịch vụ
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 84/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 84/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 84/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 84/2024/DS-PT ngày 19/09/2024 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp hợp đồng dịch vụ |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng dịch vụ |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Hải Dương |
Số hiệu: | 84/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 19/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp kiện đòi tài sản |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HẢI DƯƠNG
Bản án số: 84/2024/DS-PT
Ngày: 19/9/2024
"V/v tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản "
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Vũ Thị Yển
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Hải Bằng và ông Nguyễn Minh Tân.
- Thư ký phiên toà: Bà Đinh Thị Thu - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Hải
Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Văn Tưởng - Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương xét
xử phúc thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số 136/2023/TLPT-DS ngày
04/12/2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” do bản án Dân sự sơ
thẩm số 22/2023/DS-ST ngày 26/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Miện
bị kháng cáo; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 48/2024/QĐXX-
PT ngày 09/5/2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 55/2024/QĐ PT ngày 31/5/2024;
Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 04/2024/QĐPT-DS ngày 30/7/2024; Thông
báo về thời gian xét xử giữa:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1971 và Bà Nguyễn Thị H, sinh
năm 1977; Đều có HKTT: Tòng Hoá, Đoàn K, T, Hải Dương.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: ông Nguyễn Trọng Q, sinh năm
1980; Địa chỉ: số C phố L, phường H, thành phố H, tỉnh Hải Dương.
2. Bị đơn: Bà Vũ Thị T, sinh năm 1970; HKTT: V, Lê H1, T, Hải Dương; Hiện ở
địa chỉ: P, nhà N, số D T, phường D, quận C, TP ..
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: ông Chu Thanh N, Luật sư,
Văn phòng luật sư Chu Văn C, Đoàn luật sư tỉnh H.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Vũ Thị M, sinh năm 1989 và anh
Vũ Thế V, sinh năm 1991; Đều ĐKHKTT: thôn V, xã L, huyện T, tỉnh Hải Dương;
Hiện ở địa chỉ: P, nhà N, số D T, phường D, quận C, thành phố Hà Nội.
- Người đại diện theo uỷ quyền của bà T, chị M: anh Vũ Thế V, sinh năm
1991; Đều ĐKHKTT: thôn V, xã L, huyện T, tỉnh Hải Dương; Hiện ở địa chỉ: P,
nhà N, số D T, phường D, quận C, thành phố Hà Nội.
4. Người kháng cáo: Bị đơn bà Vũ Thị Tuyết .
2
( Tại phiên tòa có mặt ông Đ, bà H, ông Q, bà T, anh V, ông N có mặt; chị
M vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn
ông Đ, bà H và người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn trình bày:
Vợ chồng ông Đ bà H là chủ đại lý bán buôn, bán lẻ cám chăn nuôi tại thôn
T, xã Đ, huyện T, tỉnh Hải Dương. Trên cơ sở thoả thuận, từ giữa năm 2013 đến
ngày 02/10/2018, vợ chồng ông Đ nhiều lần bán cám cho vợ chồng bà Vũ Thị T,
ông Vũ Văn T1 để phục vụ nhu cầu chăn nuôi của gia đình. Ngày 11/7/2017, ông
T1 chết. Sau đó, nhà ông Đ vẫn tiếp tục bán cám cho bà Vũ Thị Tuyết . Do thức ăn
là nguồn chi phí đầu vào chiếm tỉ trọng lớn nhất trong hoạt động chăn nuôi nên
cũng như các hộ gia đình khác ở cùng quê, vợ chồng ông Đ đã tạo điều kiện cho
ông T1 bà T được mua chịu cám, tức là được nợ tiền mua cám cho đến khi thu
hoạch được gia súc, thuỷ sản thì thanh toán. Hoạt động mua bán cám giữa cửa
hàng của vợ chồng ông Đ với vợ chồng ông T1 diễn ra từ khoảng cuối năm 2014.
Đến thời điểm hết tháng 3/2017, cửa hàng ông Đ không tính lãi đối với số tiền nợ
cám của ông T1 bà T. Tuy nhiên do khoản nợ ngày càng lớn trong khi hoạt động
kinh doanh của cửa hàng gặp nhiều khó khăn, phải đi vay ngân hàng nhằm duy trì
nguồn vốn làm ăn, nên giữa vợ chồng ông Đ và vợ chồng bà T đã thoả thuận về
việc từ ngày 01/4/2017 bên mua sẽ phải trả cho bên bán một khoản tiền lãi trên số
tiền nợ cám với lãi suất là 1%/tháng. Tiền lãi sẽ được tính 2 tháng, 3 tháng hoặc 4
tháng một lần và được cộng gộp vào tiền nợ gốc.
Theo số liệu chốt sổ sách vào ngày 30/5/2017, tiền nợ gốc mua cám của ông
T1 bà T tại cửa hàng là 1.937.863.000 đồng. Sau khi ông T1 chết, bà T tiếp tục
mua cám của nhà ông Đ và thanh toán tiền mua cám (gồm trả tiền mua cám mới và
trả một phần tiền nợ cám cũ). Trong khoảng thời gian từ ngày 13/7/2017 đến ngày
02/10/2018, bà T đã mua khối lượng cám có tổng giá trị là 1.391.078.000 đồng và
đã thanh toán số tiền là 1.524.645.000 đồng. Công nợ được bà Vũ Thị Tuyết c vào
ngày 02/10/2018 là 1.629.331.000 đồng. Sau khi chốt khoản nợ trên, bà T không
mua cám của cửa hàng ông Đ nữa và cũng không trả tiền. Ngày 22/9/2020, nhà
ông Đ đã gửi Thông báo yêu cầu bà Vũ Thị T và những người thừa kế của ông Vũ
Văn T1 phải trả đầy đủ tiền nợ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày gửi thông báo.
Theo báo phát của bưu điện, ngày 26/9/2020 bà T và các con của bà T đã nhận
được thông báo nhưng không có sự phúc đáp nào trước yêu cầu của ông Đ, đã xâm
phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng ông Đ.
Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Đề nghị Toà án nhân dân huyện Thanh
Miện xác định khoản nợ phát sinh từ quan hệ mua cám của ông Vũ Văn T1 và bà
Vũ Thị T (phát sinh từ thời điểm ông Vũ Văn T1 còn sống) là 1.629.331.000 đồng;
Buộc bà Vũ Thị T và những người hưởng di sản thừa kế của ông Vũ Văn T1 phải
liên đới thanh toán khoản nợ nêu trên (phạm vi thực hiện nghĩa vụ của người thừa
kế nằm trong giới hạn giá trị di sản mà họ được chia từ di sản của ông Vũ Văn T1).
3
Phía nguyên đơn xác định: Mặc dù quan hệ mua bán cám giữa hai bên không lập
thành văn bản, hợp đồng nhưng kết quả thực hiện luôn được phản ánh trong sổ
sách. Sổ sách này giống như nhật ký ghi chép chi tiết việc mua bán cám giữa hai
bên, bao gồm: ngày giao hàng, chủng loại, số lượng hàng giao, giá trị của đợt giao
hàng, số dư công nợ trước thời điểm giao, thời gian, số tiền bên mua thanh toán…
Sau một thời gian, hai bên sẽ chốt lại công nợ. Việc chốt công nợ được thực hiện
theo phương thức: nhà ông Đ đưa sổ cho nhà ông T1 xem, rà lại, đối chiếu với ghi
chép của chính bên mua. Sau khi xem sổ sách, đối chiếu xong, bên mua (ông T1
hoặc bà T) sẽ ký xác nhận con số nợ cuối cùng của thời điểm chốt nợ. Cách thức
phản ánh quan hệ mua bán cám vào sổ sách như đã nêu ở trên đã được tiến hành
nhiều năm. Khi hai bên vẫn còn duy trì quan hệ mua bán, phía ông T1 bà T chưa
bao giờ có ý kiến thắc mắc gì. Tất cả mọi số liệu về hàng hóa giao (chủng loại, số
lượng, giá cả…), người mua cũng đều có sổ sách theo dõi riêng và khi chốt công
nợ, hai bên đều tiến hành đối chiếu tỉ mỉ chính xác. Bà T đã rất nhiều lần ký xác
nhận vào sổ do ông Đ quản lý, số liệu mỗi lần ký là kết quả tổng hợp của: tiền nợ
còn tồn + (cộng) giá trị hàng hóa lấy thêm - (trừ) số tiền đã trả. Ngày 30/5/2017,
khi thực hiện sang sổ mới, vợ chồng ông Đ đã chuyển toàn bộ số nợ của sổ cũ sang
sổ mới. Theo đó, tiền nợ cám của nhà ông T1 tính đến ngày 30/5/2017 là
1.937.863.000 đồng. Toàn bộ số tiền này là nợ gốc, tương ứng với số lượng cám
mà ông T1 bà T đã mua trước đó nhưng chưa trả. Trước thời điểm ngày 01/4/2017,
bên mua và bên bán chưa thỏa thuận về việc bên mua phải trả tiền lãi đối với số
tiền nợ cám nên vợ chồng ông Đ không tính tiền lãi đối với ông T1, bà T. Sau đó,
do khoản nợ tồn động quá lâu, phía ông T1 bà T cũng thừa nhận đã bán thành
phẩm nhưng sử dụng tiền lo công việc khác trong gia đình nên chưa thể thanh toán.
Vì thế, hai bên đã thỏa thuận về việc bên mua phải trả cho bên bán tiền lãi tính trên
tiền nợ gốc để bên bán bù đắp một phần tổn thất do bên mua chậm thanh toán (lãi
suất là 1%/tháng). Do vậy, kể từ ngày 01/4/2017 trở đi, hai bên đều tính và ký chốt
tiền lãi ở trong sổ sách do bên bán lưu giữ.
Phía nguyên đơn giải trình về khoản nợ yêu cầu bị đơn phải trả như sau:
+ Dư nợ đầu kỳ (30/5/2017): 1.937.863.000 đồng;
+ Tiền hàng phát sinh trong kỳ (từ 30/5/2017 đến 02/10/2018): 1.459.370.000
đồng;
+ Số tiền bà T trả trong kỳ (từ 30/5/2017 đến 02/10/2018): 1.885.637.000 đồng;
+ Dư nợ gốc còn lại (= dư nợ đầu kỳ + tiền hàng phát sinh trong kỳ - số tiền bà T
trả trong kỳ) = 1.937.863.000 + 1.459.370.000 - 1.885.637.000đ = 1.511.596.000
đồng.
Đối với tiền lãi, do cách tính trong sổ sách có một phần lãi cộng vào gốc rồi lại tính
lãi, do đó phía nguyên đơn điều chỉnh lại cách tính lãi có lợi nhất cho bà Vũ Thị T,
đồng thời cũng phù hợp thỏa thuận của hai bên và quy định pháp luật như sau:
Tiền nợ gốc phát sinh lãi: Như đã tính tiền nợ gốc đến thời điểm ngày 02/10/2018
của vợ chồng bà T là 1.511.596.000 đồng, do đó nguyên đơn lấy mức tiền nợ gốc
4
làm căn cứ để tính lãi là 1.400.000.000 đồng (thấp hơn con số thực tế và có lợi cho
bà T); Thời gian tính lãi 16 tháng tính từ ngày 30/5/2017 đến 30/9/2018, mức lãi
suất 1%/tháng (do hai bên thỏa thuận ghi nhận trong sổ sách). Như vậy, tiền lãi
phát sinh của bà T là: 1.400.000.000đ x 16 tháng x 1% = 224.000.000 đồng. Như
vậy số tiền bà T phải trả ông Đ bà H là: 1.476.382.000đ + 224.000.000đ=
1.700.382.000đ. Số tiền này lớn hơn cả số tiền nêu trong đơn khởi kiện nên nguyên
đơn giữ nguyên số tiền khởi kiện ban đầu là 1.629.331.000 đồng (nghĩa là nguyên
đơn xác định số tiền nợ gốc là 1.476.382.000đ và tiền lãi trên số nợ gốc tính từ
ngày 30/5/2017 đến 30/9/2018 là 152.949.000đ).
Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Đ bà H đã cung cấp các tài liệu, chứng
cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện gồm: Chi tiết tiền hàng, tiền trả trong kỳ
từ ngày 05/6/2017 đến 02/10/2018; Bản phô tô từ sổ theo dõi bán hàng của ông Đ
bà H (gồm chi tiết các sổ xe, mã hàng, số lượng, thành tiền, người ký nhận) kèm
bảng tổng hợp doanh thu từ 16/8/2014 đến 30/5/2017; Bảng thống kê chi tiết công
nợ của bà Vũ Thị T từ 30/5/2017 đến 02/10/2018; Bảng tổng hợp doanh thu từ
ngày 30/5/2017 đến ngày 02/10/2018 kèm theo bản phô tô từ sổ theo dõi bán hàng
của ông Đ bà H; Nhật ký mua hàng và thanh toán của ông T1, bà T từ 30/5/2017
đến 02/10/2018; 13 chữ ký của bà T chốt công nợ với ông Đ, bà H trong sổ theo
dõi bán hàng và sổ theo dõi công nợ.
Tại phiên tòa ngày 26/9/2023, phía nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi
kiện đề nghị Tòa án giải quyết xác định khoản nợ phát sinh từ quan hệ mua bán
cám của ông T1 bà T là 1.629.331.000 đồng và thay đổi nội dung khởi kiện là chỉ
yêu cầu bà Vũ Thị T phải thanh toán khoản nợ trên (không buộc chị M, anh V phải
liên đới trả tiền nợ mua cám), đồng thời nguyên đơn yêu cầu bà T phải trả tiền lãi
tính từ ngày 03/10/2018 đến ngày 03/9/2023 là 59 tháng x 1% x 1.400.000.000
đồng = 826.000.000 đồng. Tổng số tiền nguyên đơn yêu cầu bà T phải trả là
2.455.331.000đ. Đồng thời, ông Đ bà H yêu cầu bà T phải tiếp tục trả lãi từ ngày
04/9/2023 đến khi thanh toán xong.
Bị đơn bà Vũ Thị T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Vũ Thị M,
anh Vũ Thế V (anh V đồng thời là người đại diện theo uỷ quyền của bà T, chị M)
trình bày:
Vợ chồng ông T1, bà T đã mua bán cám cò với gia đình ông Đ, bà H từ khoảng
năm 2014. Việc thanh toán tiền mua cám cụ thể vào giai đoạn khi ông T1 còn sống
thì bà T và các con không biết. Đến khi ông T1 chết, bà T tiếp tục mua cám của
ông Đ. Việc thanh toán có thể qua ông Đ, nhân viên của ông Đ (ông Trần Thế A).
Việc chi trả tiền là cứ lấy cám trước sau đó khi bán được lợn, cá thì lại thanh toán
và ghi vào sổ sách. Hai bên không thỏa thuận lãi suất. Sau khi ông T1 chết, bà T
tiếp tục mua cám của ông Đ đến ngày 02/10/2018. Ông Đ hoặc nhân viên cứ nghe
tin gia đình bà T bán lợn, cá là xuống lấy tiền, trả tiền có lần thừa có lần thiếu,
những lần trả tiền có ghi vào sổ nhưng chưa cộng thừa thiếu là bao nhiêu, thừa thì
5
tính vào lần lấy cám sau, thiếu thì lần sau lại bù vào. Hiện nay ông Đ bà H khởi
kiện yêu cầu bà T và các con bà phải trả số tiền 1.629.331.000đ thì bà T, anh V,
chị M không đồng ý. Bà T xác định trong thời gian từ 30/5/2017 đến 02/10/2018
bà T lấy hàng và đã trả hết tiền, thậm chí còn trả thừa ra, bà T đã trả khoảng
1.500.000.000đ. Số tiền chốt nợ ngày 30/5/2017 là 1.937.863.000đ gia đình bà
không được biết. Số tiền này ông Đ có mua bán với ông T1 bà T hay không thì anh
V chị M cũng không biết. Các lần bà T trả tiền ông Đ có ghi vào sổ và bà T cũng
có sổ ghi chép các lần trả nợ, ông Đ đã ký vào sổ ghi chép của bà T. Trong sổ ghi
chép trả nợ, ông Đ đã trừ số tiền bà T trả vào số tiền chốt nợ ngày 30/5/2017 và
tính lãi thì bà T, anh V, chị M không đồng ý. Việc bà T ký vào văn bản trong sổ
ông Đ nộp cho Tòa án là do nhân viên của công ty ông Đ đưa tới, bà T chỉ nghĩ là
ký nhận cám nên đã ký vào trong sổ đó, bà T ký vào phần nhận hàng sau đó nhà
ông Đ phiên ra số tiền trừ đi phần nợ cũ chốt ngày 30/5/2017 là do phía ông Đ tự
làm. Theo sổ trả tiền của bà T còn lưu giữ (anh V đã giao nộp cho Tòa án vào ngày
23/6/2022) thì kể từ ngày 19/10/2015 đến ngày 30/6/2017 ông T1 đã trả cho vợ
chồng ông Đ là 2.600.000.000 đồng. Vì vậy việc nguyên đơn tự chốt số tiền còn nợ
đến ngày 30/5/2017 là 1.937.863.000 đồng là không có căn cứ.
Trong quá trình mua bán cám với nhà ông Đ, khi bà T nhận cám của ông Đ chở
đến, bà có ký vào sổ của ông Đ là ký nhận đủ số lượng cám, còn số tiền cám thì
chưa được hai bên chốt với nhau. Đối với 07 chữ ký của bà trong sổ do nguyên
đơn cung cấp, bà T xác định có khả năng là chữ ký của bà vì bà ký rất nhiều sổ,
theo nghĩa là có mua bán và ký nhận cám, trong đó có cả chữ ký của anh V và
người làm thuê cho nhà bà khi nhận cám. Bà T xác định là không ký chữ ký nào
vào các sổ của ông Đ trong ngày 02/10/2018. Bà thừa nhận ngày 02/10/2018 bà có
trả cho ông Đ 70 triệu đồng và không ký chữ ký nào vào ngày hôm đó. Còn sau đó
ông Đ phiên tiền ra nhưng bà chưa được cộng sổ. Từ trước đến nay bà chưa được
đối chiếu sổ sách và làm sổ với ông Đ. Bà đề nghị phía ông Đ làm rõ sổ sách.
Đồng thời, trong quá trình mua bán cám, giữa bà và ông Đ không nói với nhau hay
thỏa thuận gì về tiền lãi. Việc trong sổ của ông Đ có ghi cộng thêm tiền lãi suất là
do ông Đồng t ghi vào sổ chứ giữa nhà ông Đ và nhà bà không thỏa thuận bất kỳ
nội dung gì về lãi suất.
Về cách thức mua bán cám: Gia đình bà T đưa tiền trước cho ông Đ để lấy
được giá cám rẻ hơn và được chiết khấu %. Nên khi nào sắp hết số tiền cám thì
ông Đ sẽ báo để nhà bà đưa tiền tiếp tục lấy cám. Sau khi ông T1 mất, bà T tiếp tục
lấy cám của ông Đ theo cách thức như vậy là vẫn đưa tiền trước rồi lấy cám sau. Vì
vậy bà T đã trả dư ra so với số tiền hàng là: 1.470.000.000đ - 1.182.142.000đ =
287.858.000 đồng. Vào ngày 02/10/2018, việc bà T giao tiền cho ông Đ số tiền 70
triệu đồng là giao tiền tại nhà bà T. Và bà T không ký vào sổ tổng hợp của ông Đ
và cũng không ký vào bất kỳ sổ nào khác do ông Đ quản lý. Do vậy bà xác định
chữ ký "Tuyết" trong sổ do ông Đ tổng hợp ghi ngày 02/10/2018 với số tiền nợ
1.629.331.000 đồng không phải do bà T ký.
6
Bà T đề nghị Toà án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc
kiện đòi tổng số tiền 2.455.331.000đ. Bởi vì: số nợ ghi ngày 30/5/2017 là
1.937.863.000đ do đâu mà có và không có chữ ký của hai bên xác nhận số tiền nợ
này, đồng thời chưa bao giờ các bên chốt công nợ với nhau nên chưa thể xác định
tiền còn thừa hay thiếu mà có con số nợ 1.937.863.000đ ghi trong sổ ông Đ. Trong
sổ giao hàng có 07 chữ ký của bà T, phía bị đơn xác định đây là các chữ ký xác
nhận số lượng hàng chứ không phải là chữ ký chốt nợ của bà T. Căn cứ theo tài
liệu hai bên cung cấp thì bị đơn xác định hai bên bắt đầu mở sổ theo dõi giao nhận
tiền hàng với nhau từ ngày 19/10/2015 nên xác định trước thời điểm này ông T1 bà
T không nợ tiền hàng của ông Đ bà H, phù hợp với lời trình bày của bà T xác định
trước ngày 19/10/2015 là ông T1 bà T đã trả toàn bộ tiền mặt, lấy hàng đến đâu trả
đến đó. Sau khi ông T1 mất ngày 11/7/2017, bà T đã mua cám của vợ chồng ông Đ
(tính từ 13/7/2017 đến 21/9/2018) tổng số tiền là 1.182.142.000đ, bà T đã thanh
toán cho ông Đ (từ 16/7/2017 đến 02/10/2018) bằng cả hình thức chuyển khoản và
tiền mặt là 1.470.000.000 đồng, vì thanh toán tiền mặt nên bà T còn được chiết
khấu 52.605.000đ. Như vậy, bà T không còn nợ ông Đ bà H, thậm chí còn trả dư
tiền cho ông Đ bà H.
Về việc tính tiền lãi của ông Đ bà H trên số nợ gốc, bà T, anh V chị M xác
định hai bên không thỏa thuận với nhau về lãi suất, nên việc tính lãi của ông Đ là
không có căn cứ.
Quá trình giải quyết vụ án, phía bị đơn đã giao nộp các tài liệu, chứng cứ gồm: 03
tờ (05 mặt giấy) theo dõi ông Đ nhận tiền từ ngày 19/10/2015 đến 02/10/2018; Văn
bản trình bày và thống kê việc mua hàng và trả tiền cám của gia đình bà T từ ngày
13/7/2017 đến ngày 02/10/2018.
Người làm chứng anh Trần Thế A trình bày: Anh không có quan hệ họ hàng gì với
gia đình ông Đ, bà H và với gia đình bà T. Anh làm thuê cho vợ chồng ông Đ,
công việc cụ thể là đi giao cám cò và thu tiền cho ông Đ. Anh làm cho gia đình ông
Đ từ năm 2009 đến cuối năm 2017 thì nghỉ. Trong thời gian làm thuê cho nhà ông
Đ, thỉnh thoảng anh có xuống nhà bà T thu tiền cám cho ông Đ. Nhà bà T làm
trang trại nên mua cám của nhà ông Đ từ rất lâu rồi. Mỗi lần bán cám cho bà T đều
có hoá đơn cộng tổng và ghi vào sổ. Khi nào nhà bà T bán lợn, cá hoặc có tiền thì
xuống lấy. Gia đình bà T chốt tiền với kế toán, ông Đ hàng tháng, cũng có khi
xuống cho bà T ký sổ, tổng nợ. Khi bán cám thì bà T ông T1 cũng trả tiền lãi suất.
Tổng chốt nợ từ ngày 30/5/2017 số tiền 1.937.863.000đ, sau đó các lần ông Đ đến
thu tiền cả tiền cám mới, cám cũ bà T lại trả dần. Số tiền trả bao gồm cả hai loại
(cũ + mới) nên lớn hơn giá trị hoá đơn cám trong các lần. Anh đã được xem giấy
xác nhận tiền từ ngày 19/10/2015 đến ngày 02/10/2018, trong đó có những lần anh
nhận tiền và ký, anh xác định chữ ký và ghi số tiền là của anh. Sau khi lấy tiền, anh
đã về đưa cho ông Đ, kế toán để ghi vào sổ và trừ dần đi số tiền nợ cũ. Anh cũng
đã được xem sổ ghi trừ nợ (do ông Đ giao nộp) từ ngày 30/5/2017 đến tháng
03/2018 trong đó có một số lần anh lấy hộ tiền và trừ ghi vào sổ, anh xác định bà
7
tuyết mua cám và còn nợ lại sau khi đã trừ đi số tiền các lần trả, lãi suất là chính
xác theo sổ (1.629.331.000đ), chữ ký ghi rõ họ tên của bà T trong sổ là chính xác.
Sổ ghi do bà T, cháu V cung cấp chỉ xác định việc bà T trả tiền trong khoảng thời
gian đó, không phải mua cám trả luôn mà là trả dần cả nợ gốc, nợ lãi cộng dồn của
những năm trước.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2023/DS-ST ngày 26/9/2023, Tòa án nhân
dân huyện Thanh Miện đã căn cứ khoản 1 Điều 288, Điều 357, Điều 430, khoản 2
Điều 440, Điều 468 của Bộ luật dân sự; khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35,
khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 27, 37
Luật Hôn nhân và gia đình; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội về án phí và lệ phí Toà án.
1. Chấp nhận sự tự nguyện của nguyên đơn về việc lấy số tiền nợ gốc là
1.400.000.000 đồng làm căn cứ để tính lãi suất.
2. Xác định khoản nợ phát sinh từ quan hệ mua bán cám của ông Vũ Văn
T1 và bà Vũ Thị T là 1.629.331.000 đồng (trong đó nợ gốc là 1.476.382.000đ và
tiền lãi trên số nợ gốc tính từ ngày 30/5/2017 đến 30/9/2018 là 152.949.000đ).
3. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu bà Vũ Thị T phải
thanh toán toàn bộ khoản nợ (không buộc chị Vũ Thị M, anh Vũ Thế V phải liên
đới trả tiền nợ mua cám).
4. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bà Vũ Thị T phải trả tiền
lãi tính từ ngày 03/10/2018 đến ngày 03/9/2023.
5. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn
Đ, bà Nguyễn Thị H về việc yêu cầu bà Vũ Thị T phải trả số tiền phát sinh từ giao
dịch mua bán cám tổng số tiền là 2.455.331.000 đồng.
Buộc bà Vũ Thị T phải trả cho ông Đ, bà H tổng số tiền 2.326.608.000đ. Trong
đó: nợ gốc là 1.476.382.000đ; nợ lãi từ ngày 30/5/2017 đến 30/9/2018 là 152.949.000đ;
nợ lãi từ ngày 03/10/2018 đến ngày 03/9/2023 là 688.333.000 đồng; nợ lãi từ ngày
04/10/2018 đến ngày xét xử 26/9/2023 là 8.944.000 đồng. Ngoài ra bản án còn tuyên
nghĩa vụ chịu lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ, án phí và quyền kháng cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 10/11/2023 bị đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm. Nội dung kháng cáo: Tòa án sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp trong vụ
án là tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản nên toàn bộ những khoản tiền thực hiện
cho việc giao dịch mua bán hàng hóa thì phải được xem xét trong cùng vụ án.
Trong quá trình giải quyết vụ án bên mua, bên bán chưa cùng đàm phán chốt sổ
thanh toán thanh toán với nhau về số lượng hàng hóa và số tiền đã thanh toán. Việc
đánh giá tài liệu chứng cứ của Tòa án nhân dân huyện Thanh Miện không khách
quan toàn diện, không đánh giá xem xét tài liệu chứng cứ số nợ ghi ngày
30/5/2017 là 1.937.863.000đ do đâu mà có và không có chữ ký của hai bên xác
nhận số tiền nợ này, đồng thời chưa bao giờ các bên chốt công nợ với nhau nên
chưa thể xác định tiền còn thừa hay thiếu mà có con số nợ 1.937.863.000đ ghi
8
trong sổ ông Đ. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xử theo hướng không chấp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền giữ nguyên yêu cầu khởi
kiện, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) không chấp nhận kháng cáo của bị đơn,
giữ nguyên bản án sơ thẩm. Việc mua bán cám là hợp đồng miệng; hai bên thống
nhất với nhau về phương thức giao nhận hàng, thanh toán, chốt nợ. Bị đơn lấy
hàng ký sổ của ông Đ là 237 lần do ông T1, bà T, anh V ký. Số tiền nguyên đơn
yêu cầu bị đơn trả xuất phát từ sổ sách ghi chép giao hàng, thanh toán; bà T có đầy
đủ năng lực hành vi, đã ký nhận 13 lần chốt số tiện nợ cám. Đối với số tiền 3 lần
chuyển khoản không phải là tiền trả thanh toán mua bán cám vì chỉ là thủ tục ông
Đ ký giúp bà T để vay đáo hạn ngân hàng. Ông T1 đã giao cho ngân hàng các hóa
đơn khống và ký các giấy rút tiền để bị đơn rút tiền tại ngân hàng. Tại sổ sách của
cả hai bên đều không ghi số tiền trên. Đề nghị HĐXX giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Bị đơn và người đại diện theo ủy quyền giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề
nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa bản án sơ thẩm theo
hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Chu Thanh N
đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị đơn. Các căn cứ kháng cáo :
Hai bên có mua bán cám với nhau từ năm 2014 đến 02/10/2028, không có hợp
đồng nhưng việc lấy hàng thanh toán được ghi trên sổ sách. Theo sổ của nguyên
đơn xuất trình trước ngày 15/8/2015, số tiền nợ chốt tại sổ của ông Đ là 527 triệu
đồng. Nguyên đơn không giải trình và cung cấp chứng cứ xác định số nợ ghi ngày
30/5/2017 (trước khi ông T1 chết) là 1.937.863.000đ do đâu mà có, để từ đó tính
cộng trừ, chốt nợ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu ý kiến: Tòa án
cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng; Về quan điểm
giải quyết vụ án: Sau khi đại diện Viện kiểm sát phân tích các tình tiết của vụ án,
các căn cứ xem xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn, ý kiến của các bên đương sự; đề
nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 308 BLTTDS, không chấp nhận kháng cáo của
bị đơn; Giữ nguyên bản án sơ thẩm; Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí Dân sự
phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
1.1.Kháng cáo của bị đơn bà Vũ Thị T trong thời hạn luật định là kháng cáo
hợp lệ được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
1.2 Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng đã có người đại
diện theo ủy quyền, căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228
của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự.
9
[2] Về quan hệ pháp luật, thẩm quyền giải quyết, đương sự trong vụ án: Tòa
án cấp sơ thẩm đã xác định đúng và đầy đủ.
[3] Xét kháng cáo của bị đơn:
2.1 Về xác định số tiền nợ: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ
vụ án, lời trình bày của các bên đương sự tại phiên tòa đều xác định giữa nguyên
đơn là ông Đ, bà H và vợ chồng ông T1, bà T có mối quan hệ mua bán thức ăn
chăn nuôi là cám từ khoảng năm 2014 đến tháng 10/2018; giao dịch mua bán cám
giữa hai bên bằng miệng, không lập hợp đồng bằng văn bản. Nguyên đơn, bị đơn
đều thống nhất xác định phương thức mua bán hàng, thanh toán là hạch toán, cộng
sổ, trừ đuổi, chốt nợ. Tức là sau khi thanh toán hoặc lấy thêm hàng, sẽ được cộng
hoặc trừ luôn tại sổ ghi chép theo dõi bán hàng của ông Đ, bà H.
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả số tiền nợ phát sinh từ quan hệ
mua bán cám của ông T1, bà T tính đến ngày 02/10/2018 là 1.629.331.000 đồng
tiền lãi tính từ ngày 03/10/2018 đến ngày 03/9/2023 là 59 tháng x 1% x
1.400.000.000 đồng = 826.000.000 đồng. Tổng là 2.455.331.000đ. Đồng thời
nguyên đơn cung cấp tài liệu chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là chi
tiết tiền hàng, tiền trả trong kỳ từ ngày 05/6/2017 đến 02/10/2018; Bản phô tô từ sổ
theo dõi bán hàng của ông Đ bà H (gồm chi tiết các sổ xe, mã hàng, số lượng,
thành tiền, người ký nhận) kèm bảng tổng hợp doanh thu từ 16/8/2014 đến
30/5/2017; Bảng thống kê chi tiết công nợ của bà Vũ Thị T từ 30/5/2017 đến
02/10/2018; Bảng tổng hợp doanh thu từ ngày 30/5/2017 đến ngày 02/10/2018
kèm theo bản phô tô từ sổ theo dõi bán hàng của ông Đ bà H; Nhật ký mua hàng và
thanh toán của ông T1, bà T từ 30/5/2017 đến 02/10/2018 (Bút lục 470-472) có 13
chữ ký của bà T chốt công nợ với ông Đ, bà H trong sổ theo dõi bán hàng và sổ
theo dõi công nợ. Tại sổ thể hiện chi tiết: ngày giao hàng, chủng loại, số lượng
hàng giao, giá trị của đợt giao hàng, số dư công nợ trước thời điểm giao, thời gian,
số tiền bên mua thanh toán, chốt lại số tiền còn nợ.
Tại Kết luận giám định số 145 ngày 25/7/2023, V1 - Bộ C1 đã kết luận Chữ
ký “Tuyết” trong khung màu đỏ ký hiệu mẫu giám định A3 so với các chữ ký, chữ
viết trong khung màu xanh từ trên các mẫu giám định ký hiệu từ A1 đến A5 (trừ
chữ ký “Tuyết” trong khung màu xanh dưới các số “1.656.671.000” mẫu giám
định A4) và chữ ký, chữ viết Vũ Thị T trên các mẫu so sánh ký hiệu từ M1 đến M5
do cùng một người ký, viết ra; Không đủ cơ sở kết luận chữ ký “Tuyết”trong
khung màu đỏ trên mẫu giám định ký hiệu A3 so với chữ ký “Tuyết” trong khung
màu xanh dưới các số “1.656.671.000” trên mẫu giám định ký hiệu A4 có phải do
cùng một người ký ra không. Theo kết luận giám định trên, thì 12 chữ ký tên là
chữ ký của bà T, chỉ có 1 chữ ký tên không đủ căn cứ xác định. Trong đó xác định
chữ ký “Tuyết” vào ngày 02/10/2018 ngày chốt nợ cuối cùng của bà T dưới số tiền
1.629.331.000 đúng là chữ ký, chữ viết của bà Vũ Thị Tuyết .
Khi chưa có kết luận giám định bà T xác định không ký tại sổ của nguyên đơn. Sau
đó bà T khai bà chỉ ký nhận số lượng hàng, còn số tiền là do ông Đồng t phiên ra
10
thì thấy tại sổ thể hiện chữ viết và chữ số đều được ghi rõ ràng, không có sự tẩy
xoá, đồng thời chữ viết và số liệu ở từng trang cũng được ghi mạch lạc, ngày tháng
được ghi lần lượt không xáo trộn sau trước, không xáo trộn về mặt thời gian, các
con số được cộng trừ phù hợp, việc cách dòng giữa số tiền và chữ ký ở dưới không
có khoảng trống. Như vậy, không có căn cứ để xác định có việc ông Đ phiên ra số
tiền như lời trình bày của bà T. Tại bản án sơ thẩm đã phân tích, đánh giá chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số tiền nợ phát sinh từ
quan hệ mua bán cám của ông T1, bà T tính đến ngày 02/10/2018 là 1.629.331.000
đồng là có căn cứ.
2.2. Bị đơn kháng cáo nội dung; Trong quá trình giải quyết vụ án bên mua,
bên bán chưa cùng đàm phán chốt sổ thanh toán thanh toán với nhau về số lượng
hàng hóa và số tiền đã thanh toán. Việc đánh giá tài liệu chứng cứ của Tòa án nhân
dân huyện Thanh Miện không khách quan toàn diện, không đánh giá xem xét tài
liệu chứng cứ số tiền nợ 1.937.863.000đ.
Tại cấp phúc thẩm, các đương sự được trực tiếp đối chiếu giữa các sổ theo
dõi công nợ, sổ theo dõi bán hàng các thời kỳ do phía ông Đ cung cấp với sổ ghi
chép giao tiền mặt của bà T cung cấp (Bút lục từ 143-145) thì thấy ngoài những số
tiền nhà bà T trả cho ông Đ được ghi trong sổ của bà T (đã được đối trừ vào sổ
sách của ông Đ) thì còn các khoản tiền khác tương ứng với thời gian cụ thể không
ghi trong sổ của bà T nhưng cũng đã được nhà ông Đồng đối t1 vào trong sổ của
ông Đ một cách cụ thể, chi tiết.
Như vậy nguyên đơn khởi kiện và đã thực hiện nghĩa vụ chứng minh cho
yêu cầu khởi kiện của mình. Bị đơn kháng cáo không đồng ý khoản nợ còn lại phát
sinh từ hợp đồng mua bán cám tuy nhiên không đưa ra được tài liệu chứng cứ
chứng minh xác định số nợ khác hoặc đã thanh toán khoản tiền nợ trên nên không
có căn cứ chấp nhận.
2.3. Về nội dung kháng cáo trừ số tiền chuyển khoản cụ thể số tiền 300 triệu
đồng do bà T chuyển từ tài khoản của bà T sang tài khoản của ông Đ ngày
06/9/2017, 500 triệu đồng do ông T1 chuyển vào tài khoản của ông Đ ngày
29/12/2015 và 500 triệu đồng do ông T1 chuyển vào tài khoản của ông Đ ngày
27/12/2016. Như đã phân tích ở trên số nợ tiền cám của bị đơn với nguyên đơn các
bên đã thực hiện theo phương thức trừ đuổi, cộng dồn. Bà T trình bày trước đây
việc mua bán và thanh toán là do ông T1 thực hiện. Sau khi ông T1 chết, bà vẫn
tiếp tục lấy cám và thực hiện theo phương thức cũ. Bà T đã nhiều lần chốt số nợ và
lại tiếp tục lấy thêm cám và chốt sau cùng là ngày 02/10/2018 dưới số tiền
1.629.331.000 đ. Tại sổ sách của nguyên đơn và cả sổ thanh toán tiền của bị đơn và
các tài liệu khác do bị đơn xuất trình không thể hiện đối trừ số tiền chuyển khoản
trên để thanh toán trả tiền mua cám của bị đơn. Ngay cả khoản 300 triệu bà T do bà
T chuyển khoản thì cũng không được ghi nhận tại sổ và không đối trừ. Trong khi
11
các khoản tiền được thanh toán bằng hình thức chuyển khoản khác đều đã được ghi
nhận và đối trừ trong sổ sách.
Nội dung này phù hợp với nhiều lời khai của bị đơn giai đoạn chuẩn bị xét
xử sơ thẩm và tại phiên tòa sơ thẩm lần 1 đều xác định các khoản tiền trên không
liên quan đến việc mua bán cám. Các số tiền này phù hợp với số tiền bị đơn vay
Ngân hàng N1 theo các hợp đồng tín dụng. Bị đơn cũng như Ngân hàng không
cung cấp được Hợp đồng mua bán cám giữa ông Đ và ông T1, bà T liên quan đến
số tiền trên. Do vậy không có căn cứ chấp nhận nội dung kháng cáo này của bị
đơn. Trường hợp các bên có tranh chấp về các giao dịch liên quan đến số tiền
chuyển khoản trên có quyền khởi kiện vụ án dân sự khác để giải quyết.
2.4. Về lãi suất:
Tại sổ theo dõi của ông Đ thể hiện có tính lãi suất nhưng không ghi rõ mức
lãi suất, bị đơn kháng cáo không đồng ý tính lãi, như vậy hai bên đương sự có
tranh chấp về lãi suất nên căn cứ khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 thì mức
lãi suất được xác định là 10%/năm. Nguyên đơn tự nguyện tính lãi suất trên số tiền
nợ gốc là 1.400.000.000 đồng nên được chấp nhận.
Cụ thể tiền lãi từ ngày 03/10/2018 đến ngày 03/9/2023 là 04 năm 11 tháng
(= 59 tháng), cụ thể: 1.400.000.000đ x 59 tháng x 10%/năm = 688.333.333đ (làm
tròn là 688.333.000 đồng).
Lãi từ ngày 04/9/2023 đến ngày xét xử sơ thẩm 26/9/2023 là 23 ngày, cụ
thể: 1.400.000.000đ x 23 ngày x 10%/năm = 8.944.000 đồng.
Bản án sơ thẩm đã tính số tiền lãi là phù hợp nên không có căn cứ chấp nhận
nội dung kháng cáo về cách tính lãi.
[4]. Với phân tích trên thấy rằng cấp sơ thẩm tiến hành các thủ thủ tục tố
tụng theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bản án sơ thẩm đã nhận định
đánh giá chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán
số tiền mua thức ăn chăn nuôi còn nợ và tính lãi suất và xác định người có nghĩa
vụ thực hiện thanh toán là phù hợp pháp luật nên không chấp nhận kháng cáo của
bị đơn cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
. [5]. Về án phí: Kháng cáo của bị đơn không được chấp nhận phải chịu án phí dân
sự phúc thẩm theo quy định.
[6]. Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị, cấp phúc thẩm không xem xét và đã có hiệu lực kể từ khi hết thời hạn kháng
cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Vũ Thị T; Giữ nguyên bản án dân
sự sơ thẩm số 22/2023/DS-ST ngày 26/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thanh
Miện, tỉnh Hải Dương.
12
2. Về án phí: Bà Vũ Thị T phải chịu 300.000đ án phí phúc thẩm dân sự,
được đối trừ với số tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự
huyện Thanh Miện theo biên lai thu số AA/2022/0001404 ngày 06/10/2023 (Bị
đơn đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm).
3. Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị, cấp phúc thẩm không xem xét và đã có hiệu lực kể từ khi hết thời hạn kháng
cáo kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (Ngày
19/9/2024).
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Hải Dương;
- TAND huyện Thanh Miện;
- Chi cục THA DS huyện Thanh Miện;
- Các đương sự;
- Luật sư;
- Lưu HS; lưu Toà.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Vũ Thị Yển
Tải về
Bản án số 84/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 84/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 06/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 17/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 14/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm