Bản án số 50/2024/DS-ST ngày 30/09/2024 của TAND huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng dịch vụ

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 50/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 50/2024/DS-ST ngày 30/09/2024 của TAND huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng dịch vụ
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng dịch vụ
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Thống Nhất (TAND tỉnh Đồng Nai)
Số hiệu: 50/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyễn Thị H - Võ Đình T - Tranh chấp hợp đồng đặt chỗ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN THỐNG NHẤT Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH ĐỒNG NAI
Bản án số: 50/2024/DS-ST
Ngày: 30-9-2024
V/v Tranh chấp hợp đồng đặt chỗ
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đỗ Thị Thùy Trang
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Phạm Thị Duyên
Bà Lê Thị Chúc Ngân
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Thu Thảo Thư Tòa án nhân dân
huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai tham
gia phiên tòa: Ông Võ Ngọc Thạch - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại Hội trường A - Tòa án nhân dân huyện Thống
Nhất, tỉnh Đồng Nai xét xử thẩm ng khai vụ án dân sự thụ số:
184/2024/TLST-DS ngày 08 tháng 4 năm 2024, về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt
chỗ”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2024/QĐXXST-DS ngày 27 tháng
8 năm 2024 Quyết định hoãn phiên tòa số 424/2024/QĐST-DS ngày 13 tháng 9
năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1985; Địa chỉ: SA, khu phố L,
thị trấn D, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
2. Bị đơn:
2.1 Ông Đình T, sinh năm 1977; Địa chỉ: Số D, Chung A, đường N,
khu phố C, phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
2.2 Công ty TNHH I (do ông Võ Đình T - Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng thành
viên kiêm Giám đốc người đại diện theo pháp luật); Địa chỉ: Số B, ấp H, xã H,
huyện T, tỉnh Đồng Nai.
(Tất cả các đương sự đều vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 11 tháng 3 năm 2024; đơn sửa đổi, bổ sung đơn
khởi kiện đề ngày 09 tháng 5 năm 2024 và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn
- chị Nguyễn Thị H trình bày:
2
Ngày 18/7/2019, chị Nguyễn Thị H với Công ty TNHH I (sau đây viết tắt
Công ty I, do ông Đình T - Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Giám
đốc người đại diện theo pháp luật) kết “Hợp đồng đặt chỗ vị trí đất” số
46, 47 - LK 38 tại dự án A giai đoạn 2, thị trấn D, huyện T, tỉnh Đồng Nai, do Công
ty TNHH Đ (sau đây viết tắt Công ty Đ) làm chủ đầu với số tiền 200.000.000đ
(Hai trăm triệu đồng).
Tuy nhiên, sau đó chị H không thấy Công ty I giao đất như đã thỏa thuận, mặc
chị H đã nhiều lần liên hệ Công ty I để trao đổi nhưng không gặp được ông
Đình T mà chỉ gặp được ông Trần Ngọc H1 kế toán của công ty.
Ngày 12/12/2019, ông Đình T tổ chức một cuộc gặp với các khách hàng
đã đặt chỗ từ Công ty I. Tại cuộc họp, ông T cam kết đến hết qI/2020 sẽ trả lời
cụ thể các thông tin về việc đặt chỗ, nếu không đất thì trả lại tiền đặt chỗ cho
khách hàng. Đến ngày 11/5/2022, ông T lại tiếp tục gọi cho các khách hàng trong đó
chị H lên công ty trao đổi nhận lại tiền đặt chỗ thông qua Biên bản kết về
việc thực hiện hợp đồng đặt chỗ vị trí lô đất khu dân cư A1-C1 Dầu Giây; biên bản
nêu rõ trong vòng 30 ngày kể từ ngày biên bản được lập giữa hai bên thì công ty sẽ
hoàn tiền đặt chỗ theo Hợp đồng nhưng cả Công ty I và ông T đều không thực hiện
cam kết.
Sau đó, chị H tự tìm hiểu được biết Công ty Đ không giao cho ông Đình
T bán các lô biệt thự tại giai đoạn 2 phát sinh, khu dân cư A nên chị H cùng một số
khách hàng đã đặt chỗ tại ng ty I làm đơn tố cáo ông Đình T đến quan công
an về hành vi “”Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tuy nhiên, theo Thông báo số 366/TB-
UBND ngày 04/6/2022 của Ủy ban nhân dân huyện T công văn số 519/PC03-Đ4
ngày 18/8/2023 của Phòng Cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Đ đều kết luận đây là hợp
đồng dân sự không có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên chị H đã nộp đơn khởi
kiện đến Toà án.
Theo đơn khởi kiện ban đầu, chị H yêu cầu Tòa án buộc ông Đình T
Công ty I có trách nhiệm liên đới trả cho chị H số tiền đặt chỗ 200.000.000đ (Hai
trăm triệu đồng).
Ngày 09/5/2024, chH đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, yêu cầu Tòa
án tuyên hủy “Hợp đồng đặt chỗ vị trí đất” ngày 18/7/2019. Đồng thời, yêu cầu
ông Võ Đình T và Công ty I có trách nhiệm liên đới trả cho chị H số tiền đặt chỗ là
200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng).
Ngoài ra, chị H không có yêu cầu gì khác.
Tại bản tự khai đngày 06 tháng 5 năm 2024 và những lời khai tiếp theo,
bị đơn - ông Đình T Công ty TNHH I (do ông Đình T, chức vụ: Chủ
tịch Hội đồng thành viên kiêm Giám đốc người đại diện theo pháp luật) trình
bày:
Ông Võ Đình T thừa nhận với chức vụ là Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm
Giám đốc Công ty I ông đã đại diện cho công ty K “Hợp đồng đặt chỗ vị trí lô đất”
đối với lô 46, 47; LK - 38 thuộc dự án Khu dân cư A, Đô thị D, huyện T, tỉnh Đồng
Nai với chị Nguyễn Thị H và anh Trần Ngọc H1 là kế toán của công ty đã ký phiếu
thu của chị H số tiền là 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng). Trong quá trình chờ dự
3
án hoàn tất, chị H đã gửi đơn yêu cầu hoàn trả lại tiền đặt chỗ nhưng do chưa thu
xếp được nên đến nay Công ty I vẫn chưa trả lại số tiền trên cho chị H.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ông Võ Đình T với cách
nhân người đại diện theo pháp luật của Công ty I đồng ý hủy “Hợp đồng đặt
chỗ vị trí đất” đã ký kết ngày 18/7/2019 với chị Nguyễn Thị H. Ông T Công ty
I đồng ý trả lại cho nguyên đơn số tiền đã đặt chỗ 200.000.00(Hai trăm triệu
đồng). Tuy nhiên, vì lý do bận công việc nên ông T xin được vắng mặt tại phiên toà
xét xử vụ kiện.
Ngoài ra, bị đơn không có yêu cầu gì khác.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai phát
biểu quan điểm:
- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử,
Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng kể
từ khi thụ vụ án đến thời điểm mở phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa, tất cả các đương sự đều không đến tham dự phiên tòa mặc
đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai (nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt;
bị đơn có bản tự khai trình bày ý kiến xin vắng mặt tại phiên tòa). Căn cứ Điều 227,
Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự đnghị Hội đồng xét xử tiến hành xét
xử vắng mặt các đương sự.
- Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn, tuyên hủy “Hợp đồng đặt chỗ vị trí đất” kết ngày
18/7/2019 giữa các bên. Buộc ông Đình T và Công ty I trách nhiệm thanh
toán trả cho chị Nguyễn Thị H số tiền là 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng).
Kiểm sát viên không kiến nghị khắc phục hay bổ sung gì khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng
[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
- Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên hủy “Hợp đồng đặt chỗ vị trí
đất” xác lập ngày 18/7/2019 giữa chị Nguyễn Thị H Công ty I đối với các lô đất
số 46, 47; LK -38 thuộc dự án Khu dân A (Đô thị D), tọa lạc tại thị trấn D, huyện
T, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự xác
định quan hệ pháp luật trong vụ án này là “Tranh chấp hợp đồng đặt chỗ”.
- Bị đơn - Công ty I địa chỉ trụ sở tại số B, ấp H, H, huyện T, tỉnh Đồng
Nai. Qua kết quả xác minh, hiện ông Võ Đình T đang thường ttại số D, Chung
A, đường N, khu phố C, phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Ngày 09/5/2024,
nguyên đơn đơn lựa chọn Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai giải
4
quyết vụ kiện. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 và điểm h
khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.
[1.2] Về cách tham gia tố tụng: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Công ty I
ông Đình T nghĩa vụ trả lại số tiền đặt chỗ. Quá trình giải quyết vụ án,
không đương sự nào yêu cầu Tòa án đưa vcủa ông Võ Đình T và chồng của chị
Nguyễn Thị H vào tham gia tố tụng trong vụ án nên không đặt ra xem xét.
[1.3] Về việc xét xử vắng mặt đương sự: Nguyên đơn - chị Nguyễn Thị H, bị
đơn - ông Võ Đình T và Công ty I (do ông Võ Đình T, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng
thành viên kiêm Giám đốc là người đại diện theo pháp luật) mặc dù đã được Tòa án
triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng không đến tham dự phiên tòa (nguyên đơn đơn
xin xét xử vắng mặt; bị đơn bản tự khai trình bày ý kiến xin vắng mặt tại phiên
tòa), căn cứ Điều 227; Điều 228 Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét
xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[1.4] Về áp dụng pháp luật và thời hiệu: Giao dịch dân sự giữa các bên được
xác lập vào ngày 18/7/2019 nên cần áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2015 để giải quyết
vụ án. Ngày 18/7/2019 các bên ký kết giao dịch dân sự sau đó phát sinh tranh chấp,
theo nguyên đơn ngày 12/12/2019 bị đơn hứa hết quý I/2020 sẽ thanh toán lại số tiền
đã nhận đặt chỗ nhưng không thực hiện đến ngày 08/4/2024 Tòa án thụ vụ án.
Như vậy, khoảng thời gian hết quý I/2020 (từ ngày 01/4/2020), chị H biết quyền và
lợi ích của mình bị xâm phạm cho đến ngày 18/8/2023 khoảng thời gian chị H
không thể thực hiện quyền yêu cầu a án giải quyết do trở ngại khách quan (do
hoạt động điều tra vụ án hình sự, theo công văn số 519/PC03-Đ4 ngày 18/8/2023
của Phòng Cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Đ). Hơn nữa, trong vụ án này không
đương sự nào yêu cầu áp dụng thời hiệu. Do đó, yêu cầu của nguyên đơn còn trong
thời hiệu khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự và khoản 2
Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về đánh giá chứng cứ: Các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn nộp gồm:
“Hợp đồng đặt chỗ vị trí lô đất” và “Phiếu thu” đề cùng ngày 18/7/2019 (Toàn bộ
bản chính). Quá trình giải quyết vụ án, ông Võ Đình T thừa nhận có ký tên vào hợp
đồng trên nhận tiền theo phiếu thu. Theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bluật
Tố tụng dân sự: “Một bên đương sthừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết,
sự kiện, tài liệu, bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải
chứng minh”, do đó, đây là các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh. Như vậy,
nguyên đơn đã cung cấp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của
mình căn cứ và hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 91 Bluật Tố tụng
dân sự.
[3] Về nội dung: Nguyên đơn yêu cầu huỷ hợp đồng đặt chđòi lại số tiền
đặt chỗ, nhận thấy:
Ngày 18/7/2019, nguyên đơn ký kết “Hợp đồng đặt chỗ vị trí lô đất” với ông
Võ Đình T đối với vị trí lô 46, 47; LK-38 thuộc dự án Khu dân cư A (Đô thị D), tọa
lạc tại thị trấn D, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Tuy nhiên, tại phần cuối của hợp đồng
trên, ông Võ Đình T lại ký tên và đóng dấu của Công ty I (BL 167-169). Cùng ngày,
5
công ty có xuất “Phiếu thu” số tiền 200.000.000 đồng của nguyên đơn do ông Trần
Ngọc H1 là Kế toán trưởng của công ty ký nhận (BL 42).
Quá trình thực hiện hợp đồng phát sinh tranh chấp, chị H đã đơn tố cáo ông
Đình T về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản gửi Phòng Cảnh sát kinh tế Công
an tỉnh Đ. Tuy nhiên, tại văn bản số 519/PC03-Đ4 ngày 18/8/2023 của Phòng Cảnh
sát kinh tế Công an tỉnh Đ xác định đơn tố cáo của chị H là tranh chấp dân sự thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai (BL
166) nên chị H đã nộp đơn khởi kiện đến Tòa án.
Theo tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập được thì Ủy ban nhân dân tỉnh Đ
đã có các quyết định phê duyệt điều chỉnh tổng thể quy hoạch chi tiết xây dựng khu
dân A1-C1 tại X B (nay thuộc thị trấn D), huyện T, tỉnh Đồng Nai từ
tháng 12/2011 đến nay cho chủ đầu tư là Công ty TNHH Đ (BL 92-109).
Tuy nhiên, tại văn bản số 13/2023/CV-PVT ngày 31/7/2023 của Công ty Đ
nội dung: Công ty Đ không có bất cứ mối quan hệ pháp nào liên quan đến ông
Đình T Công ty I. Đối với việc kinh doanh các sản phẩm nền đất dự án Khu
dân A, Công ty chúng tôi không ủy quyền không giao cho ông Đình T
và Công ty I làm đơn vị phân phối bán các lô đất và nhận tiền của khách hàng mua
nền đất dự án này” (BL 110).
Mặt khác, theo tài liệu do Phòng đăng kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch
Đầu tư tỉnh Đ cung cấp xác định: Công ty I địa chỉ trụ sở chính: 299, ấp H, xã
H, huyện T, tỉnh Đồng Nai; người đại diện theo pháp luật của công ty: Đình T,
chức danh: Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Giám đốc” (BL 112, 115). Tuy nhiên,
từ ngày 10/8/2009 Công ty không đăng ký ngành, nghề kinh doanh có liên quan đến
việc môi giới bất động sản.
Căn cứ khoản 1 và khoản 5 Điều 8 Luật Kinh doanh bất động sản đã cấm việc
kinh doanh bất động sản không đủ điều kiện theo quy định của luật huy động,
chiếm dụng vốn trái phép và tại điểm a khoản 2 Điều 19 của Nghị định số
99/2015/NĐ-CP của Chính phủ cũng quy định về việc cấm chủ đầu tư áp dụng hình
thức huy động vốn để ưu tiên đăng ký, đặt cọc, hưởng quyền mua nhà hoặc để
phân chia quyền sử dụng đất trong dự án.
Như vậy, đủ sở khẳng định việc Công ty I do ông Võ Đình T người
đại diện theo pháp luật đã huy động vốn thông qua “Hợp đồng đặt chỗ vị trí lô đất”
với chị H khi chưa đủ điều kiện huy động nên việc ký kết hợp đồng đặt chỗ vị trí lô
đất này của các bên trái với quy định của pháp luật.
Tại Bản tự khai của ông Trần Ngọc H1 đề ngày 27/8/2024 xác định: “Tôi
Kế toán trưởng của Công ty I từ tháng 02/2016 đến khoảng đầu năm 2023 tôi nghỉ
việc. Trong khoảng thời gian này ông Đình T Giám đốc công ty giao cho
tôi nhiệm vụ lập phiếu thu liên quan đến hợp đồng đặt chỗ vị trí đất của Nguyễn
Thị H. Đối với khoản thu này hoàn toàn không liên quan đến các mảng kinh doanh
của công ty, tôi thu tiền đặt chỗ theo yêu cầu của ông Võ Đình T. Do các khoản thu
này không liên quan đến các mảng kinh doanh của công ty nên sau khi thu tôi đã lập
bảng báo cho ông T cho vào két sắt của công ty. Các khoản này không được
kê khai báo cáo thuế, không xuất hóa đơn theo quy định và ông T người trực tiếp
6
quản sử dụng các khoản thu này tôi hoàn toàn không liên quan đến các
khoản thu này” (BL149).
Lời khai của ông Trần Ngọc H1 phù hợp với các tài liệu, chứng cứ Tòa án
đã thu thập được, cụ thể: Tại văn bản số 192/BHXH-TN ngày 22/8/2024 của Bảo
hiểm hội huyện T xác định: “Năm 2019, Công ty I tham gia BHXH, BHYT,
BHTN cho 07 lao động; ông Trần Ngọc H1 tham gia BHXH, BHYT, BHTN tại
Công ty từ tháng 02/2016 đến tháng 10/2023. Năm 2019, ông H1 giữ chức danh kế
toán trưởng …” (BL 143) và tại văn bản số 927/CCTKV-KK.KTT ngày 16/8/2024
của Chi cục thuế khu vực T1 - Thống Nhất xác định: “Các Phiếu thu của Công ty I
do Tòa án cung cấp không đăng ký phát hành tại Chi cục thuế” (BL 139).
Từ những phân ch trên thể thấy, ngay từ ban đầu ông Đình T đã sử
dụng tư cách cá nhân “Đình T, sinh ngày 13/9/1977; hộ khẩu thường trú: Số B,
ấp H, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Naiđể kết “Hợp đồng đặt chỗ vị trí đất”.
Theo Biên bản xác minh ngày 05/9/2023 (trong hồ sơ thụ lý số 109/2023/TLST-DS
ngày 17/3/2023) tại Công an H, huyện T xác định: Ông Đình T, sinh năm
1977, số căn cước công dân 075077018481 từ năm 2021 đã chuyển về địa chỉ D,
chung cư A, khu phố C, phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai (BL 64). Như vậy,
tại thời điểm các bên ký kết hợp đồng ông T vẫn đăng ký thường trú và sinh sống ti
địa chỉ B ấp H, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Tuy nhiên, để tạo niềm tin với khách
hàng ông T đã sdụng dấu mộc của Công ty do mình với chức danh là Chủ tịch Hội
đồng thành viên kiêm Giám đốc đđóng dấu mộc của C vào hợp đồng trên. Tuy
nhiên, ngành nghề Công ty Đ1 không liên quan đến vĩnh vực môi giới bất
động sản và khoản thu từ việc đặt chỗ trên không sử dụng cho hoạt động của Công
ty nên không thể hiện chứng từ kê khai báo cáo thuế theo quy định.
Do đó, việc các bên đề nghị Toà án huỷ “Hợp đồng đặt chỗ vị trí lô đất” xác
lập ngày 18/7/2019 giữa các bên yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn (ông
Đình T và Công ty I) nghĩa vtrả lại số tiền đặt chlà có cơ sở, phù hợp quy định
tại Điều 423 và Điều 427 Bluật Dân sự; yêu cầu của nguyên đơn được bị đơn thừa
nhận và đồng ý thanh toán lại số tiền đã nhận đặt chỗ nên ghi nhận.
[4] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải
chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định. Hoàn trả số tiền tạm ứng án phí cho nguyên
đơn.
[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất về
đường lối giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp
nhận.
[6] Về quyền kháng cáo: Các bên đương sự được quyền kháng cáo bản án
theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
điểm h khoản 1 Điều 40; Điều 91; Điều 92; Điều 144; Điều 147; Điều 227; Điều
228; Điều 238; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
7
- Áp dụng Điều 156; Điều 357; Điều 423; Điều 427 và Điều 468 Bộ luật Dân
sự năm 2015;
- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - chị Nguyễn Thị
H về việc Tranh chấp hợp đồng đặt chỗ” đối với bị đơn - ông Võ Đình T và Công
ty TNHH I.
Tuyên hủy “Hợp đồng đặt chỗ vị trí đất” xác lập ngày 18/7/2019 đối với
46, 47; LK - 38 thuộc dự án Khu dân cư A, Đô thị D, huyện T, tỉnh Đồng Nai giữa
chị Nguyễn Thị H, ông Võ Đình T và Công ty TNHH I.
Buộc ông Đình T và Công ty TNHH I trách nhiệm trả lại cho chị
Nguyễn Thị H số tiền đặt chỗ là 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng).
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản
tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các
khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân
sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Về án phí:
- Ông Đình T Công ty TNHH I phải chịu số tiền 10.000.000đ (Mười
triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
- Hoàn trả cho chị Nguyễn Thị H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 5.000.000đ
(Năm triệu đồng) theo biên lai thu số 0007809 ngày 08 tháng 4 năm 2024 của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn được quyền kháng cáo bản án
trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, ktngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm
yết theo quy định.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- TAND tỉnh Đồng Nai;
- VKSND huyện Thống Nhất;
- CCTHADS huyện Thống Nhất;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đỗ Thị Thùy Trang
Tải về
Bản án số 50/2024/DS-ST Bản án số 50/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 50/2024/DS-ST Bản án số 50/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất