Bản án số 757/2024/DS-PT ngày 29/08/2024 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 757/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 757/2024/DS-PT ngày 29/08/2024 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hồ Chí Minh
Số hiệu: 757/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 29/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 757/2024/DS-PT
Ngày: 29/8/2024
“V/v Tranh chấp hợp đồng mua
bán nhà”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:
Ông Nguyễn Ngọc Tài
Các Thẩm phán:
Bà Nguyễn Thị Thoa
Bà Doãn Thị Kim Thúy
- Thư phiên tòa: Phan Tâm Thảo, Thư Tòa án nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên
tòa: Bà Nguyễn Thị Thanh Trúc – Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 8 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 519/2024/TLPT-DS ngày
02 tháng 7 năm 2024 về việc “Tranh chp hợp đồng mua bán tài sản”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 151/2024/DS-ST ngày 07 tháng 5 năm 2024 của
Tòa án nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 3783/2024/QĐ-PT ngày
12 tháng 7 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 11727/2024/QĐ-
PT ngày 07 tháng 8 năm 2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Minh C, sinh năm: 1940, địa chỉ: Số Y, lầu B,
B, chung cư A, đường N, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Văn Đ, sinh năm 1988,
địa chỉ: Số X, đường N1, phường V, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh, là người đại
diện theo ủy quyền (theo Hợp đồng ủy quyền ngày 27/12/2022). (có mặt)
Bị đơn:Nguyễn Thị H, sinh năm: 1922, địa chỉ: Số C, đường N2, phường
Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một
thành viên Quận A, địa chỉ: Số U, đường N3, phường N, Quận A, Thành phố Hồ
Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Nguyễn ThN, địa chỉ liên lạc: Số U, đường N3, phường N, Quận A, Thành phố
2
Hồ Chí Minh người đại diện theo ủy quyền (Quyết định về việc ủy quyền tham
gia số 174/QĐ-DVCIQ1 ngày 18/8/2023). (Có đơn xin vắng mặt)
Người kháng cáo: Ông Nguyễn Minh C - Nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, đơn bổ sung nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
ông Nguyễn Minh C và trình bày của người đại diện của nguyên đơn:
Nguyễn Thị H mua căn hộ số số Y, lầu B, B, chung cư A, đường N,
phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh của Công ty K theo Hợp đồng mua
bán nhà trả góp s 177 NĐC/TG/HĐ-KDN.Q1 ngày 13/8/1996; giá căn hộ
64.657.000 đồng, được trả p trong thời hạn 10 năm, trả trước 30% ngay khi
hợp đồng, 70% còn lại sẽ được thanh toán theo từng đợt và thời hạn hoàn thành đợt
thanh toán cuối cùng là ngày 13/8/2005.
Sau đó, H đã bán căn hộ này cho ông C, việc mua bán được thể hiện thông
qua Hợp đồng sang nhượng n nhà số Y, lầu B, B, chung A, đường N ghi
tháng 8/1996 (ngày để trống); đồng thời bà H đã uỷ quyền cho ông C được “toàn
quyền sử dụng đứng tên căn hộ chịu trách nhiệm thủ tục trả góp hàng năm cho
công ty bán nhà” theo Giấy u quyền ngày 19/8/1996 được Ủy ban nhân dân
phường Đ, Quận A xác nhận.
Sau khi mua căn hộ này, ông C đã hoàn thành việc thanh toán toàn bộ số tiền
mua căn hộ còn lại theo Hợp đồng mua bán nhà trả góp số 177 NĐC/TG/HĐ-
KDN.Q1 ngày 13/8/1996 cho Công ty K (Ủy ban nhân dân Quận A) theo các
Phiếu thu sau: Phiếu thu ngày 19/8/1996: 19.397.100 đồng; Phiếu thu ngày
22/9/1997: 4.996.900 đồng; Phiếu thu ngày 06/8/1998: 6.000.000 đồng; Phiếu thu
ngày 14/8/1999: 10.396.000 đồng; Phiếu thu ngày 12/5/2000: 15.168.360 đồng;
Phiếu thu ngày 07/11/2000: 4.338.000 đồng.
Đồng thời, Công ty K (y ban nhân dân Quận A) cũng xác nhận căn hộ Y đã
hoàn tất nghĩa vụ thanh toán (theo Phiếu theo dõi thu tiền bán nhà trả góp
Thông báo số 218/TB-QLN ngày 28/09/2009). Sau khi mua căn hộ từ bà H, Công
ty K (Ủy ban nhân dân Quận A) cũng đã bàn giao căn hộ cho ông C theo Biên bản
bàn giao nhà số 110/BB.KDN ngày 19/08/1996. Ông C đã quản lý, sử dụng, sinh
sống trên căn hộ này liên tục, ngay tình từ năm 1996 đến thời điểm hiện tại đã hơn
26 năm, không tranh chấp với bất kỳ ai, căn hộ cũng phù hợp với quy hoạch.
Sau khi hoàn thành đầy đnghĩa vụ thanh toán tiền mua căn hộ (đã trả hết
vào ngày 07/11/2000), vào các ngày 29/5/2001 và 28/9/2009, Công ty K (Ủy ban
nhân dân Quận A) có hướng dẫn thủ tục để xin cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà cho căn hộ số Y, theo đó đề nghị ông C liên lạc với bà H để phối hợp thực hiện
thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ này. Tuy nhiên, ông C đã
nhiều lần liên hệ nhưng vẫn không gặp được H để yêu cầu H phải thực hiện
đúng cam kết sang nhượng căn hcho ông C. Tới thời điểm hiện tại, mặc bản
thân ông C đã thực hiện đầy đnghĩa vụ tài chính đối với căn hộ nhưng vẫn chưa
được cấp giấy chứng nhận không nhận được shợp tác từ H. Ông C đã thực
3
hiện toàn bộ nghĩa vụ thanh toán 100% giá trị hợp đồng nên theo quy định tại Điều
129 Bộ luật Dân sự, hợp đồng nêu trên không vô hiệu.
Nhận thấy quyền lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, ông C đề nghị
Toà án công nhận Hợp đồng sang nhượng căn nhà số Y, lầu B, lô B, chung A,
đường N tháng 8 năm 1996 giữa ông Nguyễn Minh C và bà Nguyễn Thị H.
Bị đơn bà Nguyễn Thị H đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một
thành viên Quận A có người đại diện trình bày:
Căn hộ số số Y, lầu B, lô B, chung A, đường N, phường Đ, Quận A
nguồn gốc do Ủy ban nhân dân Quận A giải quyết cho Nguyễn Thị H mua theo
Biên bản thoả thuận số 301/BBGT ngày 08/08/1996 do thuộc đối tượng phải di dời
chỉnh trang kênh N - T theo Quyết định 5787/QĐ-UB-QLĐT ngày 08/08/1995 của
Uỷ ban nhân dân Thành phố. Ngày 13/8/1996, công ty K lập Hợp đồng số
177/NDC/TG/HD- KDN.Q1 đmua bán căn hộ trên cho H thời hạn trả góp
10 năm.
Ngày 19/8/1996, H làm giấy Uỷ quyền xác nhận chữ tại Ủy ban
nhân dân phường Đ, Quận A về việc đồng ý uỷ quyền cho ông Nguyễn Minh C
toàn quyền sử dụng, đứng tên căn số Y, lầu B, B, chung A, đường N chịu
trách nhiệm thủ tục trả góp hàng năm cho Công ty bán nhà (kèm giấy sang nhượng
căn hộ trên cho ông C, không ghi ngày chỉ có tháng 8 năm 1996).
Ngày 07/11/2000, ông C đã trả hết tiền mua nhà trả góp của căn hộ trên.
Ngày 16/9/2011, Ủy ban nhân dân Quận A văn bản số 3357/Ủy ban nhân
dân-DVCI gửi Uỷ ban nhân dân Thành phố kiến nghị xét giải quyết chuyển
nhượng hợp đồng mua bán căn hộ nêu trên giải quyết cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất tài sản khác gắn liền với đất căn hộ số Y, lầu B, B, chung
cư A, đường N, phường Đ, Quận A cho ông Nguyễn Minh C.
Ngày 03/11/2011, Sở Xây dựng có văn bản số 8474/SXD-TTBCĐ gửi Ủy ban
nhân dân Quận A về việc căn cứ Quyết định số 5787/QĐ-UB-QLĐT ngày
08/8/1995 của Uỷ ban nhân dân Thành phố về quy định chế độ quản lý sử dụng
đối với các chung phục vụ cho việc di dời các hộ dân sống trên ven kênh
N - T, theo đó nêu: “..trong thời gian trả góp, người mua không được quyền
cho thuê lại hoặc sang nhượng lại căn hộ cho người khác.. . Do đó, đề xuất của
Ủy ban nhân dân Quận A là không phù hợp với Quyết định nêu trên.
Công ty TNHH MTV Quận A thông tin nguồn gốc, quá trình quản của căn
hộ số Y, lầu B, B, chung A, đường N, phường Đ, Quận A đến Toà án nhân
dân Quận A để xem xét giải quyết vụ án theo quy định.
Tại Bản án dân sự thẩm số 151/2024/DS-ST ngày 07/5/2024 của Tòa án
nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều
147, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 131, Điều 443, Điều 444 B
luật dân sự năm 1995; Điều 17, Điều 32, Điều 33, Điều 36 Pháp lệnh nhà năm
4
1991; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 3 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Nguyễn Minh C đối với yêu
cầu công nhận Hợp đồng sang nhượng căn nsố Y, lầu B, B, chung A,
đường N, tháng 8 năm 1996 giữa ông Nguyễn Minh CNguyễn Thị H.
2. Án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn ông Nguyễn Minh C được miễn án phí
dân sự sơ thẩm. Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không phải chịu án
phí dân sự sơ thẩm.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo và quy định về thi hành án
cho các bên đương sự.
Ngày 15/5/2024, ông Nguyễn Minh C nộp đơn kháng o toàn bộ bản án
thẩm, đề nghị Cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người kháng cáo, nguyên đơn là ông Nguyễn Minh C ông Văn Đ đại
diện ủy quyền trình bày:
Bản án thẩm đã m phạm đến quyền lợi ích hợp pháp của ông C
không công bằng đối với ông C, cụ thể:
- Tại khoản 5 Điều 11 Quyết định 5787/QĐ-UB-QLDT ngày 08/08/1995 của
Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quy định: “Trong thời gian trả góp,
người mua không được quyền cho thuê hoặc sang nhượng căn hộ cho người
khác”. Tuy nhiên sau đó, ngày 09/03/2001, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh tiếp tục ban hành Quyết định số 22/2001/QĐ-UB thay thế Quyết định
5787/QĐ-UB-QLĐT, theo đó tại Điều 10 quy định cho phép các trường hợp mua
giấy tay được phép xin cấp giấy chứng nhận, cụ thể như sau: “Các trường hp
mua bản bằng giấy tay ttrước ngày Quyết định này hiệu lực, nay người mua
(người đang sử dụng nhà) xin cấp giấy chứng nhân được áp dụng nđiều 8' bản
qui định này. Người xin cấp giấy chứng nhân phải tớ cam kết đóng lệ phí trước
bạ các nghĩa vụ tài chính theo qui định, được Ủy ban nhân dân phường, xã xác
nhận chữ ký". Như vậy, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã chủ
trương cho phép những hộ như ông C được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu căn
hộ Y.
- Tại khoản 3.7 Điều 3 Hợp đồng mua bán n số 177 NĐC/TG/HĐ-
KDN.Q1 ngày 13/6/1996 quy định: “Bên mua trở thành sở hữu chủ hợp pháp căn
hộ khi đã thanh toán đủ giá trị căn hộ được mua", và khoản 3 Điều 5 Nghị định số
60-CP ngày 05/7/1994 về quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất tại đô thị
quy định nhà thuộc sở hữu Nhà nước bao gồm “Nhà nêu tại Khoản 1 điều này
có một phần tiền góp của cá nhân, của tập thể theo thỏa thuận hoặc theo hợp đồng
mua nhà trả góp nhưng chưa trả hết tiền". Trong trường hợp này, theo Nghị định
s60 năm 1994 thì nhà vẫn thuộc quyền sở hữu của Nhà nước nếu "hợp đồng
5
mua nhà trả góp chưa trả tiền hết". Tuy nhiên, năm 2000 ông C đã thay mặt H
trả hết toàn bộ số tiền mua nhà trả góp. Khẳng định ktừ ngày 07/11/2000 (ngày
mà ông C thanh toán đầy đủ toàn bộ tiền mua căn hộ Y cho Công ty K) thì bà H đã
trở thành chủ sở hữu hợp pháp của căn hộ Y, lúc này căn hộ đã không còn thuộc sở
hữu của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
- Tại Điều 31, Điều 33 Pháp lệnh về nhà năm 1991 quy định việc mua bán
nhà phải lập thành văn bản được quan thẩm quyền công chứng, chứng
thực. Theo Pháp lệnh về nhà năm 1991 thì các bên không bắt buộc phải giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà mới được phép giao dịch mua bán. Do đó, việc
mua bán nhà giữa ông C và H chỉ vi phạm về hình thức không được công
chứng, chứng thực. Căn cứ khoản 2 Điều 129 Bộ luật Dân sự m 2015, trong
trường hợp này ông C đã thay mặt H thanh toán 100% nghĩa vụ trả tiền, nên
theo quy định thì giao dịch này mặc dù vi phạm về hình thức nhưng vẫn được pháp
luật công nhận, bảo vệ.
- Bản thân ông C đã làm mọi cách để tìm bà H để hoàn thành thủ tục mua bán
căn hnhưng không kết quả (thể hiện qua việc đăng báo tìm kiếm Nguyễn
Thị H 03 kỳ liên tiếp trên B vào năm 2004). Điều này thể hiện sự ngay tỉnh của
ông C trong việc mua bán căn hộ.
- Tại Điều 32 Pháp lệnh về nhà năm 1991 quy định: “Chỉ chủ sở hữu nhà ở
mới quyền bán nở”. Kể từ ngày 07/11/2000 thì H đã chủ sở hữu hợp
pháp căn hộ Y nên được toàn quyền định đoạt căn hộ Y (bởi ngày 07/11/2000 ông
C thanh toán đầy đủ toàn bộ số tiền trả góp căn hộ cho Công ty K). Do đó, theo
quy định tại Điều 31, 32, 33 Pháp lệnh về nhà năm 1991 thì H được toàn
quyền định đoạt căn hộ số Y. Mặc dù bà H và ông C xác lập thực hiện mua bán căn
hộ trước ngày 07/11/2000 nhưng về mặt ý chí bà H đã hoàn toàn tự nguyện bán
căn hộ này cho ông C thể hiện tại Hợp đồng sang nhượng căn hộ Y tháng 08/1996
Giấy uỷ quyền ngày 19/8/1996 được Ủy ban nhân n phường Đ chứng thực.
Ông C đã trực tiếp quản sử dụng liên tục gần 30 năm nay, không tranh chấp với
ai, ông C đã thanh toán đầy đủ cho Công ty K được bàn giao căn hộ từ Công ty
K. Pháp luật hiện tại đều theo xu hướng công nhận các loại giao dịch này. Việc
chấp nhận yêu cầu của ông C phù hợp với "lẽ công bằng” được quy định tại
Điều 6 của Bộ luật Dân sự năm 2015, phù hợp cả về mặt luận, lẫn thực tiễn
trong việc áp dụng pháp luật.
Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa Bản án dân sự thẩm số
151/2024/DS-ST ngày 07/5/2024 của Toà án nhân dân Quận A, chấp nhận toàn bộ
yêu cầu hợp pháp của nguyên đơn, công nhận Hợp đồng sang nhượng căn nhà số
Y, lầu B, B, chung A, đường N tháng 08/1996 giữa ông Nguyễn Minh C
Nguyễn Thị H.
Bị đơn bà Nguyễn Thị H đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một
thành viên Quận A có đơn xin xét xử vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:
6
Về hình thức: Đơn kháng cáo của nguyên đơn nằm trong hạn luật định nên
được chấp nhận hợp lệ. Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết
vụ án của Thẩm phán; Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của những người
tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử phúc thẩm kể từ khi thụ vụ án cho đến
trước thời điểm nghị án đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung, sau khi phân tích những tình tiết liên quan đến vụ án, trên
sở Bộ luật dân sự, xét thấy cấp thẩm giải quyết vụ án không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn không đúng với các quy định của pháp luật, ảnh
hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của đương sự, đối với giao dịch dân sự
hiệu về mặt hình thức trong vụ kiện nói trên, cần căn cứ quy định tại Điều 129 Bộ
luật dân sự 2015 để công nhận hợp đồng mua bán nhà giữa ông C H. Nhận
thấy kháng cáo của nguyên đơn căn cứ, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, sửa
bản án sơ thẩm theo hướng công nhận hợp đồng mua bán nhà giữa ông C và bà H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu hồ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa căn
cứ vào kết quả tranh luận và phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Kháng cáo của nguyên đơn nằm trong hạn luật định phù hợp khoản 1
Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nên được chấp nhận.
[1.2] Cấp sơ thẩm xác định quan hpháp luật tranh chấp giữa nguyên đơn
bị đơn “tranh chấp hợp đồng mua bán nhà” đúng với quy định tại khoản 3
Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[1.3] Cấp thẩm căn cứ bất động sản tọa lạc tại Quận A để thụ giải quyết
vụ án theo quy định tại Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 Bluật tố tụng dân sự
năm 2015.
[2] Xét nội dung kháng cáo toàn bộ bản án của nguyên đơn, ông Nguyễn
Minh C, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.1] Đối tượng, quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu
Tòa án công nhận Hợp đồng sang nhượng căn nhà số Y, lầu B, B, chung A,
đường N được lập tháng 8/1996 giữa ông Nguyễn Minh C và bà Nguyễn Thị H.
[2.2] Về nguồn gốc phát sinh tranh chấp:
- Do H thuộc đối tượng phải di dời chỉnh trang kênh N - T nên được Công
ty K lập Hợp đồng mua bán số 177/NDC/TG/HD- KDN.Q1 ngày 13/8/1996 để bán
căn hộ số Y, lầu B, lô B, chung cư A, đường N cho bà H với thời hạn trả góp là 10
năm.
- H m giấy Uỷ quyền xác nhận chữ tại Ủy ban nhân dân phường
Đ, Quận A ngày 19/8/1996 về việc uỷ quyền cho ông C toàn quyền sử dụng, đứng
tên căn hộ số Y, lầu B, B, chung A, đường N chịu trách nhiệm thtục trả
7
góp hàng năm cho Công ty bán nhà (kèm giấy sang nhượng căn hộ trên cho ông C,
ghi tháng 8/1996, không ghi ngày). Theo lời trình bày Công ty TNHH MTV Quận
A thì Công ty K biết rõ về việc này và Công ty cũng đã xác nhận ngày 07/11/2000,
ông C đã trả hết tiền mua nhà trả góp của căn hộ trên.
- Ông C làm thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà.
- Ngày 16/9/2011, Ủy ban nhân dân Quận A Văn bản số 3357/UBND-
DVCI gửi Ủy ban nhân dân Thành phố kiến nghị xét giải quyết chuyển nhượng
hợp đồng mua bán căn hộ nêu trên giải quyết cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất căn hộ Y trên cho ông C.
- Ngày 03/11/2011, Sở Xây dựng văn bản số 8474/SXD-TTBCĐ gửi Ủy
ban nhân dân Quận A về việc căn cứ Quyết định số 5787/QĐ-UB-QLĐT ngày
08/8/1995 của Ủy ban nhân dân Thành phố nêu: “..trong thời gian trả góp,
người mua không được quyền cho thuê lại hoặc sang nhượng lại căn hộ cho người
khác..” nên không đồng ý với đề suất của Ủy ban nhân dân Quận A.
[2.3] Việc Cấp sơ thẩm cho rằng tại thời điểm giao kết hợp đồng mua bán nhà
giữa H ông C, căn nhà chưa được cấp giấy chứng nhận, chưa được hoàn tất
việc chuyển nhượng, giữa bà H và Công ty K chỉ mới ký hợp đồng mua bán căn hộ
nêu trên với thời gian trả góp 10 năm, H chưa phải chủ sở hữu hợp pháp của
căn nhà. Đến thời điểm ông C trả góp xong căn nhà vào năm 2000 tH, ông C
chưa làm thủ tục đcấp giấy chứng nhận cho căn nhà, bà H chưa làm thủ tục đăng
trước bạ sang tên tại quan quản nhà đất, giữa hai bên cũng không tiếp
hành giao kết lại hợp đồng mới. Cấp thẩm căn cứ khoản 5 Điều 11 Bản quy
định kèm theo Quyết định số 5787/QĐ-UB-QLĐT ngày 08/8/1995 của Ủy ban
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quy định về chế độ quản sử dụng đối với
chung phục vụ cho việc di dời các hộ dân sống trên ven kênh N - T ghi
nhận “Trong thời gian trả góp, người mua không được quyền cho thuê lại hoặc
sang nhượng căn hộ cho người khác”, và căn cứ Điều 131, Điều 443, Điều 444 Bộ
luật Dân sự năm 1995; Điều 17, Điều 32, Điều 33, Điều 36 Pháp lệnh nhà năm
1991 cho rằng hợp đồng mua bán nhà giữa H và ông C không bảo đảm các quy
định của pháp luật nên không có hiệu lực pháp luật là không chính xác, không đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Bởi:
- Trong quá trình giao kết thực hiện Hợp đồng mua bán nhà trả góp, việc
ủy quyền trả góp giao toàn quyền sử sụng nhà này giữa người mua H cho
ông C được Công ty K biết chấp nhận. Công ty không bất cứ yêu cầu chấm
dứt hợp đồng hoặc tuyên bhợp đồng hiệu do người mua nhà trả góp vi phạm
thỏa thuận hợp đồng hoặc vi phạm khoản 5 Điều 11 Bản quy định kèm theo Quyết
định số 5787/QĐ-UB-QLĐT ngày 08/8/1995 của Ủy ban nhân dân Thành phố H
Chí Minh.
- Quyết định s 5787/QĐ-UB-QLĐT ngày 08/8/1995 ca y ban nhân dân
Thành ph đã bị bãi b theo Quyết định s 34/2018/QĐ-UBND ngày 10/9/2018
ca y ban nhân dân Thành ph HChí Minh. Quyết định này là quyết đnh
biệt quy định v chế đ qun s dụng đối với các chung phục v cho vic
di di các h dân cư sống trên và ven kênh N-T, ngưi s dụng các căn hộ chúng
8
cư phải chp hành. Quyết định này không quy đnh các hành vi trái pháp lut, hành
vi b pháp lut nghiêm cm.
[2.4] Xét nội dung Hợp đồng sang nhượng căn nhà số Y, lầu B, B, chung
cư A, đường N:
“1/ Nguyên Nguyễn Thị H nhà trên bờ kênh N Quận A nằm trong diện
giải tỏa, được nhà nước bán trả góp căn nhà số Y, lầu B, lô B, chung A, đường
N với trị giá 64.657.000 đồng, trả trước 30% số còn lại sẽ trả góp theo hợp
đồng mua nhà.
2/ Nay vì lý do bà H thiếu nợ ông C nên bà H bằng lòng sang nhượng cho ông
C căn nhà Y B được toàn quyền sử dụng chịu trách nhiệm trả góp 70% còn
lại cho cơ quan bán nhà trong vòng 10 năm.
3/ Bên bà H bàn giao ngay căn nhà số Y, lầu B, B cho ông C khi nào
quan nhà nước mời đến nhận nhà. Trong hiện trạng đầy đủ theo biên bản bàn giao
nhà toàn bộ giấy tờ liên quan đến căn nhà trên. Đến khi nào bên bà H tháo dỡ
toàn bộ căn nhà trên kênh N Quận A thì số tiền nợ 29.797.000 đồng sẽ được
ông C xóa nợ ngay thời điểm này.
4/ Bên H làm giấy ủy quyền cho bên B được toàn quyền sử dụng căn n
số Y, lầu B, lô B, chung cư A không được thay đổi ý kiến, khiếu nại hay tranh chấp
bất cứ do nào. n H trách nhiệm làm thủ tục cho toàn bộ các thành viên
trong gia đình của ông C được trú hợp pháp tại căn hộ số Y, lầu B, B, chung
cư A.
5/ H nhiệm vụ thông báo địa chỉ rõ ràng cho ông C để sau này làm
thủ tục sang tên chủ quyền.
6/ Nguyễn Thị H cam kết nếu không thực hiện đúng theo các điều khoản
ghi trong hợp đồng này bà H sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật…”
Nội dung các bên thỏa thuận H giao cho ông C được toàn quyền sử
dụng và ủy quyền cho ông C tiếp tục trả góp theo hợp đồng. Việc ủy quyền trả góp
giao toàn quyền sử dụng nhà này được Công ty K biết và chấp nhận. Công ty
không có bất cứ yêu cầu chấm dứt hợp đồng mua nhà trả góp do người mua nhà vi
phạm thỏa thuận hơp đồng hay yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán nhà giữa ông
C và bà H là vô hiệu.
Theo xác nhận của Công ty TNHH Một thành viên Quận A, việc trả góp tiền
mua ncủa H đã được ông C đại diện theo ủy quyền thực hiện xong ngày
07/11/2000. Nếu theo đúng thỏa thuận tại khoản 3.4 Điều 3 Hợp đồng mua bán nhà
trả góp, Công ty K trách nhiệm liên hệ với các quan chức năng thẩm quyền
để xin cấp chứng nhận quyền sở hữu nhà cho bên mua (bà H) nhưng tngày
07/11/2000 đến nay Công ty K không thực hiện việc này.
Mặt khác, do H không thông báo ràng địa chỉ cho ông C cũng như ông
C tìm kiếm, đăng báo tìm kiếm H không thành nên c bên không thể làm các
thủ tục sang tên chủ quyền.
9
Nhận thấy ông C đã cấn trừ số tiền 29.797.000 đồng H nợ ông C cho 30%
giá trị n(19.397.000 đồng) H thanh toán cho Công ty K, tiếp tục thanh toán
70% còn lại thông qua việc đại diện cho bà H thực hiện việc trả góp với Công ty K.
Ông C đã thanh toán đủ 100% tiền mua nhà theo thỏa thuận với H đã nhận
nhà, toàn quyền sử dụng từ năm 1996 cho đến nay.
[2.5] Căn cứ các quy định của pháp luật về điều kiện đgiao dịch dân s
hiệu lực:
Căn cứ Điều 131 Bộ luật dân sự 1995: Giao dịch dân sự hiệu lực khi có
đủ các điều kiện sau đây: (1) Người tham gia giao dịch năng lực nh vi dân
sự; (2) Mục đích nội dung của giao dịch không trái pháp luật, đạo đức hội;
(3) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện; (4) Hình thức giao dịch phù
hợp với quy định của pháp luật.
Căn cứ Điều 122 Bộ luật dân sự 2005: (1). Giao dịch dân sự có hiệu lực khi
có đủ các điều kiện sau đây: (a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân
sự; (b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức hội; (c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. (2).
Hình thức giao dịch dân sự điều kiện hiệu lực của giao dịch trong trường
hợp pháp luật có quy định.
Căn cứ Điều 117 Bộ luật dân sự 2015: (1). Giao dịch dân sự có hiệu lực khi
đcác điều kiện sau đây: (a) Chủ thể năng lực pháp luật dân sự, năng lực
hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; (b) Chủ thể tham gia
giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; (c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân
sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. (2). Hình thức của
giao dịch dân sự điều kiện hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp
luật có quy định.
Nhận thấy:
- Về nội dung, thỏa thuận của H ông C tại Hợp đồng sang nhượng căn
nhà số Y, lầu B, lô B, chung cư A, đường N được lập tháng 8/1996 đáp ứng đủ các
điều kiện đmột giao dịch dân sự hiệu lực. Không bị tuyên bố hợp đồng
hiệu.
- Về hình thức: việc sang nhượng nhà chưa được các bên xác lập hợp đồng tại
quan công chứng theo quy định tại Điều 33 Pháp lệnh nhà 1991 về thủ tục
mua bán nhà ở: “Hợp đồng mua bán nhà phải được quan công chứng Nhà
nước hoặc Uỷ ban nhân dân cấp thẩm quyền chứng thực phải làm thủ tục
đăng ký trước bạ sang tên tại cơ quan quản lý nhà đất cấp được uỷ quyền.”
[2.6] Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 129 Bộ luật n s2015. Giao dịch
dân sự hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức: “Giao dịch dân sự vi
phạm quy định điều kiện hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau
đây: 2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy
định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít
nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các
10
bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp
này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.”
Trong trường hp này, Hi đồng xét x phúc thm thng nht với quan điểm
đề ngh ca Vin Kim sát nhân dân Thành ph H Chí Minh, công nhn Hp
đồng mua bán chuyển nhượng căn nhà số Y, lầu B, B, chung A, đường N
được lập tháng 8/1996 giữa ông C và bà H.
[2.7] Căn cứ quy định tại điểm đ, g khoản 1 Điều 148 Luật đất đai năm
2024 thì:
H gia đình, nhân sở hu nhà đưc cp Giy chng nhn quyn s dng
đất, quyn s hu tài sn gn lin với đất khi có mt trong các loi giy t sau đây:
“đ) Giấy tờ về mua bán hoặc nhận tặng cho hoặc đổi hoặc nhận thừa kế nhà
ở đã có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật đối với trường hợp giao dịch trước ngày
01 tháng 7 năm 2006. Trường hợp nhà ở do mua, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa kế
kể tngày 01 tháng 7 năm 2006 trở về sau thì phải văn bản về giao dịch đó
theo quy định của pháp luật về nhà ở. Trường hợp nhà ở do mua của doanh nghiệp
kinh doanh bất động sản đầu xây dựng để bán thì phải hợp đồng mua bán
nhà ở do hai bên ký kết;
g) Một trong những giấy tờ quy định tại các điểm a, b, c, d, đ e khoản này
mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác và đang không có tranh chấp.”
Với các loại giấy tờ: Hợp đồng mua bán số 177/NDC/TG/HD- KDN.Q1 ngày
13/8/1996, Hơp đồng sang nhượng căn nhà số Y, lầu B, B, chung A, đường
N tháng 8/1996, nhà đất không tranh chấp, ông Nguyễn Minh C được xem xét
cấp Giy chng nhn quyn s dụng đt, quyn s hu tài sn gn lin với đất
phù hp với quy định trên ca pháp lut.
[2.8] Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, sửa
bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, công nhận Hợp
đồng sang nhượng căn nhà số Y, lầu B, B, chung A, đường N, tháng 8 năm
1996 giữa ông Nguyễn Minh C Nguyễn Thị H. Ông C được quyền liên hệ
với các quan nhà nước có thẩm quyền xác lập quyền sở hữu, quyền sử dụng đối
với căn nhà nói trên.
[3] Án phí dân sự sơ thẩm: Do sửa án sơ thẩm nên Hội đồng xét xử phúc thẩm
xác định lại án phí thẩm. Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, do yêu cầu của nguyên đơn được chấp
nhận nên nguyên đơn không phải chịu án phí thẩm, bị đơn phải chịu án phí
thẩm. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016, bà H thuộc trường hợp người cao tuổi nên được miễn án phí.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: do kháng cáo của nguyên đơn được chấp
nhận nên người kháng cáo không phải chịu án phí theo quy định pháp luật tại
khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/NQ ngày 30 tháng 12 năm 2016.
11
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015: Chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Minh C. Sửa Bản án dân sự thẩm s
151/2024/DS-ST ngày 07/5/2024 của Tòa án nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 144, Điều 147, Điều 150, Điều 177, Điều 266, Điều 273, Điều 280 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015; Điều 131 Bộ luật n sự 1995; Căn cứ Điều 122 Bộ luật
dân sự 2005; Điều 117, khoản 2 Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015; điểm đ, g
khoản 1 Điều 148 Luật đất đai năm 2024; Luật Thi hành án dân s(sửa đổi, bổ
sung năm 2014); điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 26, khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số
326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ông Nguyễn Minh C:
Công nhận Hợp đồng sang nhượng căn hộ số Y, lầu B, B, chung A,
đường N, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh được lập tháng 8 năm 1996
giữa ông Nguyễn Minh C và bà Nguyễn Thị H có hiệu lực pháp luật.
Ông Nguyễn Minh C được quyền liên hệ với các quan nhà nước thẩm
quyền xác lập quyền sở hữu, quyền sdụng đối với căn hộ nói trên. Ông Nguyễn
Minh C có nghĩa vụ nộp thuế, phí, lệ phí theo quy định của pháp luật.
2. Về án phí dân sự thẩm: do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên
ông Nguyễn Minh C không phải chịu án phí thẩm. Bị đơn Nguyễn Thị H
được miễn án phí.
3. Án phí dân sự phúc thẩm: do kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Minh
C được chấp nhận nên ông Nguyễn Minh C không phải chịu án phí.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Tòa án nhân dân cấp cao tại TP.HCM;
- Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
TP.HCM;
- Viện kiểm sát nhân dân TP.HCM;
- Tòa án nhân dân Quận A;
- Cục Thi hành án dân sự TP.HCM;
- Chi cục Thi hành án dân sự Quận A;
- Các đương sự (để thi hành);
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Ngọc Tài
12
Tải về
Bản án số 757/2024/DS-PT Bản án số 757/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 757/2024/DS-PT Bản án số 757/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất