Bản án số 710/2024/DS-PT ngày 05/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 710/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 710/2024/DS-PT ngày 05/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 710/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 05/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà Nguyễn Lan A kiện Bà Hà Yến P về Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 710/2024/DS-PT
Ngày 05/9/2024
V/v “Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Ông Đặng Văn Ý
Các Thẩm phán:
Bà Trần Thị Hòa Hiệp
Ông Vương Minh Tâm
- Tphiên tòa: Nguyễn Thị Thu Phương - Thư tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân n cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Vi Dũng - Kiểm sát viên.
Ngày 05 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 557/2024/DSPT
ngày 26 tháng 7 năm 2024, về việc: “Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà”
Do Bản án dân sự thẩm số: 614/2023/DS-ST ngày 04 tháng 5 năm 2023
của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2754/2024/QĐPT-DS,
ngày 19 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Nguyễn Lan A, sinh năm 1975; trú tại: 117/80/5
Nguyễn Hữu C, P 22, quận Bình T, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Hoàng H, sinh
năm 1987, địa ch: 618/13/8A Quang Tr, P 11, Gò V, Tnh ph H Chí Minh
người đại diện theo ủy quyền, Theo giấy ủy quyền số công chứng 003042 lập tại
Văn phòng công chứng Trần Quốc Ph ngày 26/03/2021; có mặt.
Ngưi bảo v quyn, lợi ích hợp pháp ca Nguyn Lan A: Lut Nguyễn
Minh K - n phòng Luật sư Nguyn Minh K, Đoàn Luật sư Thành phHồ Chí
Minh; đa chỉ : 475/1/17 Cách Mạng Tháng T, p 13, q 10, Tnh ph Hồ Chí Minh;
mt.
- Bị đơn:
1. Bà Hà Yến P (Ha Phuong Y), sinh năm 1972; cư trúi tại: 5723 33
rd
Ave S
Seattle WA 98118 USA; vắng mặt.
2. Ông Lâm S, sinh năm 1969; vắng mặt.
2
Địa chỉ: 243A (số 24.. Bis) Phạm Văn C, P 3, Q 6, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Người đại diện hợp pháp của ông Lâm S: Ông Nguyễn Hoàng H, sinh năm
1964, địa chỉ: 28 đường số 76, Khu dân cư Bình P, P 10, Q 6, Thành phố Hồ Chí
Minh người đại diện theo ủy quyền; Theo giấy ủy quyền số công chứng
013069 lập tại Văn phòng công chứng Chợ L ngày 03/12/2015; có mặt.
- Người quyền lợi, nghĩa vliên quan:
1. Lâm Cẩm Ng, sinh năm 1992, địa chỉ: 243 Phạm Văn C, P 3, Q 6,
Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt;
2. Ông Lâm Tấn L, sinh năm 1998; vắng mặt;
3. Bà Lâm Cẩm H, sinh năm 1995; vắng mặt;
4. Lâm Tuấn H, sinh năm 2008 cha ông Lâm S đại diện hợp pháp;
mặt.
Cùng cư trú ti: 243A (s cũ 24.. Bis) Phạm Văn C, P 3, Q 6, Thành phố Hồ
Chí Minh.
5. Tp đoàn công nghip-vin thông quân đi (Viettel)
Đa ch: 01 Giang Văn M, qun Ba Đ, thành ph Hà Ni
Người đại diện hợp pháp của Viettel: Ông Nguyễn Huy H, sinh năm 1985,
địa chỉ: 285 Cách Mạng Tháng T, p 12 q 10 Thành phố Hồ Chí Minh người
đại diện theo ủy quyền; Theo giấy y quyền số 6580/GUQ-CNVTQĐ ngày
30/11/2022 và giấy ủy quyền số 64/CV ngày 06/01/2023 của Tổng giám đốc Tp
đoàn công nghip - vin thông quân đi (Viettel);đơn xét xử vắng mặt.
- Người kháng cáo: Ông Lâm S là bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nguyên đơn Nguyễn Lan A người đại diện hợp pháp ông
Nguyễn Hoàng H cùng trình bày:
Ngày 12/07/2009 Yến P cùng chồng là ông Lâm S đồng ý bán cho
bà Nguyễn Lan A nhà đất thuộc thửa số 19, tờ bản đồ số 4, địa chỉ số 243 Phạm
Văn C, P 3, Q 6, Thành phố Hồ Chí Minh với giá 4.300.000.000đ theo “Hợp
đồng thỏa thuận mua bán nhà” cùng ngày (hợp đồng tay). Lan A đã giao
đủ số tiền mua nhà 4,3 tỉ đồng cho vợ chồng bà P, ông S và có giữ lại
42.000.000đ phí làm thủ tục, các khoản thuế. Tiền mua nhà của riêng Lan
A, không liên quan ai khác. Ngày 22/07/2009 bà P và bà Lan A đã cùng nhau ký
hợp đồng mua bán nhà đất số 243 Phạm Văn C, P 3, Q 6, Thành phố Hồ Chí
Minh, số công chứng 20470 tại Phòng công chứng số 5 Thành phố Hồ Chí
Minh. Do giấy tờ của căn nhà lúc đó chưa hoàn thiện vmặt hình thức (chưa
chuyển qua giấy chứng nhận theo quy định mới, thường gọi giấy hồng), P
ông S thì muốn thuê lại nhà để chờ làm giấy tờ xong sẽ giao nhà cho Lan
A, dự tính thời gian làm giấy tờ sang tên cho Lan A khoảng 6 tháng; vì vậy,
Lan Anh đồng ý thỏa thuận cho vợ chồng Yến P được ở lại trong căn nhà
3
24.. Phạm Văn C, P 3, Q 6 trong thời hạn 6 tháng nhưng phải trả tiền thuê nhà
cho Lan A; vợ chồng bà Yến P trả tiền thuê nhà được một số tháng (có
nhận tại mặt phía sau của hợp đồng mua bán nhà giấy tay).
Ngày 28/6/2010, bà Lan A được UBND Q 6 Thành phố Hồ Chí Minh cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản gắn liền với
đất số BB 482323. Hết hạn lưu theo thỏa thuận ông S, P vẫn không bàn
giao nhà cũng như không còn thanh toán tiền thuê nhằng tháng, Lan A
yêu cầu Yến P và ông Lâm S bàn giao nhà để Lan A thực hiện quyền
sở hữu tài sản của bà nhưng ông Lâm S, bà P c này viện ra lý do gia đình đang
khó khăn về chỗ nên xin thêm một thời gian sẽ thu xếp bàn giao nhà,
do nhân đạo nên bà Lan A cũng đồng ý. Thời gian sau đó bà Lan A muốn lấy lại
nhà nhưng nhiều lần yêu cầu P, ông S giao nhà nhưng vợ chồng P ông S
không giao nhà cũng không trả tiền thuê nhà, thế năm 2015 Lan A đã
khởi kiện, yêu cầu tòa án buộc vợ chồng ông Lâm S, Hà Yến P phải giao trả
nhà đất số 24.. Phạm Văn C, P 3, Q 6 và trả tiền thuê nhà 20.000.000đ/tháng cho
bà Lan A đến khi chính thức giao trả nhà. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn xác định lại yêu cầu khởi kiện chỉ yêu cầu bị đơn những người
đang trú trong nhà tranh chấp phải giao nhà đất đã bán cho nguyên đơn,
không yêu cầu trả tiền thuê nhà nữa.
Bị đơn Yến P văn bản ngày 01/06/2016 gửi Tòa án nhân dân Q
6 trình bày ý kiến đề nghị tham gia tố tụng (văn bản do người đại diện của
ông Lâm S là ông H nộp) như sau:
Đầu tháng 7 năm 2009, do cần tiền giải chấp hồ vay ngân hàng nên vợ
chồng P, ông S vay của Nguyễn Lan A ngụ quận Bình T, Thành ph
Hồ Chí Minh số tiền 3.800.000.000đ. Để vay được tiền bà Lan A buộc vợ chồng
phải hợp đồng thỏa thuận mua bán nhà ngày 12/07/2009 để làm tin, nội
dung vợ chồng bà đồng ý bán cho bà Lan A căn nhà số 24.. Phạm Văn C, P 3, Q
6 với giá 4.300.000.000đ, stiền này Lan A buộc vợ chồng chấp nhận
khoản vay mới kể từ ngày 12/07/2009, lãi suất cho vay 3%, thời hạn vay 6
tháng.
Ngày 22/07/2009, bà Lan A tiếp tục buộc vợ chồng P ra Phòng công
chứng số 5 Thành phố Hồ Chí Minh ký tiếp hợp đồng mua bán nhà số 20470 với
giá bán 1.000.000.000 đồng. Hợp đồng công chứng này là hợp đồng giả mua
bán nhà, chỉ để làm tin xem như thế chấp cho bà Lan A để vay tiền. Theo
thỏa thuận giữa 2 bên sau 6 tháng khi vợ chồng trả xong khoản nợ vay cùng
toàn bộ lãi cho Lan A thì sẽ cùng nhau ra Phòng công chứng số 5 Thành phố
Hồ Chí Minh hủy/thanh lý hợp đồng mua bán nhà trên để nhận lại toàn bộ hồ
chủ quyền nhà. Sau khi vay vợ chồng P đang cố gắng kiếm tiền trả nợ, bà P
đã đi xuất cảnh sang Mỹ định cư từ ngày 09/05/2015 đến nay chưa về Việt Nam.
P được chồng ông Lâm S thông báo việc vay nợ trên Lan A đã kiện ra
tòa yêu cầu giao nhà theo hợp đồng công chứng bán nhà đã ký và đơn kiện được
Tòa án nhân dân Q 6 thụ lý giải quyết nhưng bà P hiện chưa nhận được thông tin
triệu tập của tòa án, nên bà P yêu cầu Tòa án nhân dân Q 6 tống đạt văn bản cho
4
P tham gia tố tụng với cách bị đơn. Về thẩm quyền, vụ việc của bà phải do
tòa án cấp tỉnh giải quyết.
Bị đơn ông Lâm S người đại diện hợp pháp ông Nguyễn Hoàng H
trình bày:
Việc mua bán nhà giữa Nguyễn Lan A với bà Yến P đối với căn
nhà số 24.. Phạm Văn C p 3 q 6 Thành phố Hồ Chí Minh chỉ hợp đồng giả
cách để che giấu giao dịch cho vay vay tiền giữa Nguyễn Lan A với vợ
chồng Yến P, ông Lâm S. Giá trị hợp đồng mua bán nhà 4,3 tỉ đồng là do
Lan A tính gộp tiền vợ chồng P, ông S vay thực tế 3,8 tỉ đồng, phí giải
chấp ngân hàng 76 triệu đồng, phí dịch vụ lập hợp đồng mua bán nhà qua công
chứng 190 triệu đồng, tiền lãi trả trước tính trên khoản vay cộng với tiền thuế
trước bạ nhà, chuyển quyền sử dụng đất, thuế thu nhập nhân của việc mua
bán nhà, tổng cộng 234 triệu đồng. Đồng thời ông S bỏ tiền xây nhà 24..
Phạm Văn C để cả nhà sinh sống, đã giấy phép xây dựng, hoàn công đầy đủ
nghiệm thu theo biên bản nghiệm thu công trình xây dựng ngày 16/10/2005,
P cũng đồng ý nhập nhà trên vào tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
nhưng hợp đồng mua bán nhà mình P không hợp pháp. Do đó, b
đơn không đồng ý yêu cầu khởi kiện đòi giao nhà của bà Lan A.
Người quyền nghĩa vliên quan các ông/bà Lâm Cẩm Ng, Lâm Tấn
L; Lâm Cẩm H; Lâm Tuấn H người đại diện hợp pháp ông Lâm S đã được
tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không có ý kiến phản hồi.
Người quyền nghĩa vụ liên quan Tập đoàn công nghip -vin thông
quân đi (Viettel) có người đại diện hợp pháp là ông Nguyễn Huy H trình bày:
Tổng công ty Viễn thông quân đội hợp đồng thuê mặt bằng số
1470/HCM/HĐTMB ngày 28/03/2008 với Yến P để đặt trạm viễn thông
Viettel tại nhà đất số 24.. Phạm Văn C, P 3, Q 6, Thành phố Hồ Chí Minh, thời
hạn thuê 5 năm, giá thuê 5.000.000đ/tháng. Hết hạn hợp đồng, hai bên
thêm một số phụ lục hợp đồng để gia hạn thuê, các phụ lục này do Viettel Thành
phố Hồ Chí Minh-Chi nhánh Tập đoàn viễn thông quân đội với Yến P
ông Lâm S, phụ lục gần nhất với ông Lâm S năm 2022 thời hạn thuê
mặt bằng đến ngày 02/05/2023. Theo hợp đồng trường hợp một trong 2 bên
chấm dứt hợp đồng thuê trước thời hạn thì căn cứ khoản 4 điều 2 của hợp đồng,
bên ngừng hợp đồng phải trách nhiệm báo trước 3 tháng phải nêu được
do xác đáng cũng như chịu phí tổn do chấm dứt hợp đồng gây ra.
Trường hợp yêu cầu của nguyên đơn được tòa chấp nhận, Viettel đồng ý
chấm dứt hợp đồng trước hạn thuê hoặc đúng hạn thuê ngày 02/05/2023, chấp
hành quyết định của tòa. Do bận công việc nên đại diện Vieetlel yêu cầu vắng
mặt không tham gia phiên tòa. Về tên gọi, khihợp đồng là Tổng công ty viễn
thông quân đội nhưng quá trình hoạt động Tổng công ty viễn thông quân đội
đã thay đổi tên gọi thành Tập đoàn công nghip-vin thông quân đi (Viettel).
Tại Bản án dân sự thẩm số 614/DS-ST ngày 04/5/2023 của Tòa án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
5
- Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm c khoản 1 Điều
39 khoản 2, khoản 4 Điều 91, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228;
các Điều 262, 266, 271, 273, 474, 477 và 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ các Điều 357 và 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; Căn cứ Nghị quyết s
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án và Pháp lệnh án phí, lệ phí tòa án năm 2009; Căn cứ Luật Thi hành án Dân sự
năm 2008, đã sửa đổi bổ sung năm 2014;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Lan A.
Buc bị đơn Yến P (Ha Phương Y), ông m Sanh những ngưi
đang trú tại nhà đất đãn số 24.. đường Phmn C, P 3, Q 6, Thành ph Hồ
Chí Minh phi n giao nhà đất này cho nguyên đơn Nguyn Lan A.
Buc nguyên đơn Nguyn Lan A phi tr cho bị đơn bà Yến P (Ha
Phuong Y), ông m S số tin 42.000.000 đồng do ngun đơn giữ lại khi mua
nhà.
Ngoài ra bản án còn tuyên liên quan Tập đoàn công nghip-vin thông
quân đi (Viettel), án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 16/5/2023 ông Lâm S kháng cáo toàn bộ bản
án thẩm; yêu cầu tuyên bố thời hiệu khởi kiện đã hết; hợp đồng mua bán nhà
đất giữa Lan A P hợp đồng giả tạo. Tại phiên tòa người đại diện hợp
pháp của ông Lâm S vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo hai bên đương
sự không thỏa thuận được việc giải quyết vụ án.
Tại phần tranh luận người đại diện hợp pháp của ông Lâm S vẫn yêu cầu
tuyên bố thời hiệu khởi kiện đã hết; hợp đồng mua bán nhà đất giữa bà Lan A
P hợp đồng giả tạo, thực chất Lan A cho P, ông Lâm S vay tiền,
hàng tháng phải trả tiền lãi được thể hiện mặt sau của “Hợp đồng mua bán nhà”.
Đề nghị chấp nhận đơn kháng cáo của ông Lâm S, sửa bản án sơ thẩm.
Người bảo vệ người đại diện hợp pháp của Lan A trình bày: Việc
chuyển nhượng nhà đất giữa hai bên hoàn toàn tự nguyện; Lan A đã làm
thủ tục sang tên bà Lan A đúng pháp luật; trong quá trình mua bán cũng như khi
giải quyết vụ án bà Lan A không có ý kiến về mua bán nhà đất. Ông Lâm A đưa
ra hai yêu cầu cho rằng thời hiệu khởi kiện đã hết và hợp đồng mua bán giữa hai
bên hợp đồng gicách nhưng không cung cấp chứng cứ để chứng minh giả
cách. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử là đúng pháp luật.
Người đại diện hợp pháp của ông Lâm S trình bày: “Hợp đồng đồng mua
bán nhà” ghi hàng tháng phải trả 190 triệu đồng tiền lãi của 4,3 tỷ đồng với
lãi suất 3% /tháng là phù hợp tiền lãi hàng tháng ông Lâm S đưa, nên đây là hợp
đồng giả cách, còn nếu mua bán thì thời hiệu cũng đã hết.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh: Vthủ tục tố tụng những người tiến hành tố tụng, các đương sự
tuân thủ đúng theo quy định. Về nội dung kháng cáo ca bđơn, ngoài “Hợp
6
đồng mua bán nhà” bằng giấy tay, hai n còn làm hợp đồng mua bán công
chứng; bị đơn không chứng minh được hợp đồng vay tiền giữa hai bên; quan
Nhà nước đã làm thủ tục đứng tên nhà đất cho Lan A đúng quy định. Tòa án
cấp sơ thẩm xét xử là có cơ sở, bác đơn kháng cáo của bị đơn giữ nguyên bản án
sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
- Đơn kháng cáo của bị đơn ông Lâm S đúng theo quy định của pháp luật,
hợp lệ nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
- Sau khi nghiên cu các tài liệu, chứng cứ có trong h vụ án đã đưc
thm tra ti phiên tòa; sau khi nghe đương sự trình bày, căn cứ vào kết qu tranh
tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét x nhận định:
[1]. Xét kháng cáo của ông Lâm S:
[1.1]. Về thời hiệu khởi kiện: Ông Lâm S cho rằng ngày 12/7/2009 hai bên
ký “Hợp đồng thỏa thuận mua bán nhà” tại số 24.. Phạm Văn C, P 3, Q 6, Thành
phố HChí Minh, hai bên thỏa thuận thời gian lưu cư tối đa không quá 6 tháng;
đến hết ngày 13/01/2010 vợ chồng ông S không giao nhà cho bà Lan A là quyền
lợi của Lan A đã bị xâm phạm nhưng đến ngày 05/10/2015 Lan A mới
khởi kiện đòi vợ chồng ông S giao nhà đã bán là hết thời hiệu khởi kiện theo quy
định tại khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, theo
Lan A thì sau khi mua nhà đất, bà Lan A đã thỏa thuận cho vợ chồng ông S thuê
lại nhà, hàng tháng vợ chồng ông S phải trả tiền thuê ncho bà Lan A theo
chứng từ mặt sau của “Hợp đồng thỏa thuận mua n nhà” ngày 12/07/2009 do
ông S cung cấp đã thể hiện từ tháng 9/2009 đến ngày 31/5/2010 ông S đã trả cho
bà Lan A tổng cộng là 325.000.000 đồng tiền thuê nhà. Mặt khác, theo quy định
về hợp đồng chuyển nhượng nhà đất được xem hoàn thành khi bên mua đã
giao đủ tiền cho bên bán bên bán phải giao nhà đất cùng với giấy tờ nhà đất
cho bên mua. Do đó, sau khi làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền trên đất đứng tên bà Lan A; vợ chồng
ông S không giao trả nhà cho bên mua n Lan A khởi kiện, vviệc “Tranh
chấp hợp đồng mua bán nhà”, yêu cầu vchồng ông S thực hiện nghĩa vụ giao
trả nhà đất; tức u cầu bảo vệ quyền sở hữu theo quy định tại khoản 2 Điều
155 Bộ luật dân snăm 2015 nên không áp dụng thời hiệu. Do đó, ông S kháng
cáo cho rằng thời hiệu khởi kiện đã hết là không có cơ sở.
[1.2]. Xét kháng cáo của ông S cho rằng “Hợp đồng thỏa thuận mua bán
nhà” lập ngày 12/7/2009 là hợp đồng giả cách nhằm che dấu hợp đồng bà Lan A
cho vợ chồng ông S vay 3.800.000.000 đồng và các khoản chi phí khác
234.000.000 đồng. Tuy nhiên, trong qtrình giải quyết vụ kiện ông S không
cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh số tiền trên do vợ chồng ông S
vay của bà Lan A; tại cấp phúc thẩm người đại diện của ông Sanh cho rằng hàng
tháng ông Sanh trả tiền lãi cho Lan A được ghi phía sau “Hợp đồng thỏa
thuận mua bán nhà” ngày 12/7/2009 129.000.000 đồng, (với mức lãi suất
3%/tháng đối với số tiền 3.800.000.000 đồng + 234.000.000 đồng) không phù
hợp. theo tài liệu “Hợp đồng thỏa thuận mua bán nhà” ngày 12/7/2009 đến
7
ngày 31/5/2010 Lan A chỉ nhận tiền thuê nhà của ông Sanh tổng cộng 11
tháng 325.000.000 đồng; như vậy, tiền thuê nhà mỗi tháng 29.545.454
đồng; riêng ngày 12/7/2009 khi mua nhà đất Lan A đã giao 4.300.000.000
đồng cho ông S, bà P Lan A nhận lại của ông Sanh, P 129.000.000
đồng giữ số tiền 42.000.000 đồng phí làm thủ tục các khoản thuế, nên
không sở để cho rằng Lan A nhận của ông S, P mỗi tháng tiền lãi
129.000.000 đồng. Hơn nữa, tại Tòa án cấp sơ thẩm người đại diện của ông S đã
cung cấp một bản chính “Giấy xác nhận” đề ngày 12/09/2015 tên Nguyễn
Lan A, xác nhận việc mua bán nhà 24.. Phạm Văn C, P 3, Q 6 giả cách. Tuy
nhiên, tại Kết luận giám định số 4045/KLGĐ-TT ngày 16/07/2021 của Phòng kỹ
thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận chữ mang tên
Nguyễn Lan A trên “Giấy xác nhận” nói trên không phải chữ của nguyên
đơn Nguyễn Lan A. vậy, ông Sanh kháng cáo cho rằng “Hợp đồng thỏa
thuận mua bán nhà” là giả cách là không có cơ sở.
[1.3]. Ông S cho rằng Hợp đồng mua bán nhà đất số 24.. Phạm Văn C,
Phường 3, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh giữa Phương Lan A được
Phòng công chứng số 5 Thành phố Hồ Chí Minh xác nhận ngày 22/7/2009 đã bị
hiệu, khi ông S không tham gia ký kết không sở. nhà đất 243
Phạm Văn C, P 3, Q 6 là tài sản bà P được thừa kế của cha, được mẹ là bà Hà Tố
N tặng cho riêng theo Hợp đồng tặng cho nhà số 833/HĐ-TCN, số công chứng
04758 lập tại Phòng công chứng nhà nước số 2 Thành phố HChí Minh ngày
01/02/1999; ông Lâm S ký “Tờ cam kết” ngày 23/01/2003 xác nhận vợ ông,
Yến P chủ nhà 24.. Phạm Văn C, P 3, Q 6; ngày 12/7/2009 P ông S
ký “Hợp đồng thỏa thuận mua bán nhà” tại số 24.. Phạm Văn C, P 3, Q 6, Thành
phố Hồ Chí Minh cho bà Lan A với giá 4.300.000.000 đồng và bà Lan A đã giao
cho bà P và ông S 4.258.000.000 đồng. Bà Lan A đã tiến hành đăng ký việc mua
bán, chuyển nhượng nhà, đất trên theo quy định của pháp luật đã được
UBND Q 6 cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài
sản gắn liền với đất ngày 28/6/2010. Do đó, người đại diện hợp pháp của ông S
cho rằng nhà đất trên là tài sản chung của vợ chồng nhưng hợp đồng công chứng
chỉ P ký, ông S không tham gia, không biết nên hiệu không cơ sở
chấp nhận.
[3]. Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy người kháng cáo nhưng
không cung cấp được tài liệu chứng cứ mới, để chứng minh cho yêu cầu kháng
cáo; lời trình bày người đại diện hợp pháp của ông Sanh tại phiên tòa không phù
hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận. Quan điểm
của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phù
hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Bác kháng cáo của
ông Sanh, giữ nguyên bản án thẩm nên ông Sanh phải chịu án phí dân sự
phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
8
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
I. Không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Lâm S; giữ nguyên Bản án
dân sự thẩm số 614/DS-ST ngày 04/5/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh như sau:
- Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm c khoản 1 Điều
39 khoản 2, khoản 4 Điều 91, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228,
Điều 271, Điều 273, Điều 474, Điều 477 và Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015; Căn cứ khoản 2 Điều 155, Điều 430, Điều 434, Điều 357 Điều
468 Bộ luật Dân sự năm 2015; Căn cứ khoản 1 Điều 26, Điều 27, khoản 1 Điều
29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án
phí lệ phí Tòa án và Pháp lệnh án phí, lệ phí tòa án năm 2009; Căn cứ Luật
Thi hành án Dân sự năm 2008, đã sửa đổi bổ sung năm 2014;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Lan A.
- Buộc bị đơn bà Hà Yến P (Ha Phương Y), ông Lâm Sanh và những người
đang trú tại nhà đất đã bán s24.. đường Phạm Văn C, P 3, Q 6, Thành phố
Hồ Chí Minh phải bàn giao nhà đất này cho nguyên đơn bà Nguyễn Lan A.
- Buộc nguyên đơn Nguyn Lan A phải trả cho bị đơn Yến P (Ha
Phuong Y), ông m S số tin 42.000.000 đồng do ngun đơn giữ lại khi mua
nhà.
- Ghi nhận Tổng Công ty Viễn thông quân đội, nay Tập đoàn ng nghip
vin thông quân đi (Viettel) bên thuê, bà Yến P (Ha Phương Y) và ông Lâm
S n cho thuê do ông m S đại diện các phụ lục hợp đồng thuê đặt trạm
vin thông tại địa chỉ 24.. Phm n C, P 3, Q 6, Thành ph HC Minh theo hợp
đồng th mặt bng s 1470/HCM/HĐTMB ngày 28/03/2008 thng nht chm dt
hợp đồng thmặt bằng trên vào ngày 02/05/2023 do hết hạn thuê. Việc thanh
hợp đồng do c n tham gia hp đồng tự thc hiện theo quy định pp luật.
2. Thi nh vic giao nhà, nhn tiền ngay sau khi án hiu lực pháp luật
ới s gm sát của quan thi hành án dân s có thẩm quyn.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án, nếu
người phải thi hành án không thi hành hoặc thi hành không đầy đủ số tiền như
đã thỏa thuận trên thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu thêm
khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 Điều 468 Bộ luật Dân
sự năm 2015 tương ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành.
3. n phí n s thẩm: Yến P (Ha Phương Y) ông m S phải
chu án phí dân s thm không g ngch 300.000 đồng.
Nguyn Lan A phải chịu án p dân s sơ thẩm là 2.100.000đ nhưng đưc
khu tr o số tin tm ng án phí đã tạm nộp 200.000 đồng theo Biên lai thu
tin số 0002432 ngày 21/10/2015 của Chi cục Thi nh án n sự Qun 6, Thành
ph Hồ Chí Minh. Bà Nguyễn Lan A còn phi nộp tm 1.900.000 đng án phí n
9
sự thẩm.
Trưng hợp bản án được thi nh theo quy định tại Điều 2 Luật thi nh án
n sự thì ngưi đưc thi hành án n sự, ngưi phải thi nh án dân sự có quyn
thỏa thuận thi nh án, quyền yêu cầu thi nh án, tự nguyện thi nh án hoặc bị
ỡng chế thi hành án theo quy định ti các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật Thi nh án
n sự; thời hiệu thi nh án đưc thực hin theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
nh án dân sự.
II. V án phí n sự phúc thm: Ông Lâm S phải chịu 300.000 đồng,
được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu số 0001516
ngày 01/6/2023 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.
III. Bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
THÀNH VIÊN THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trần Thị Hòa Hiệp - Vương Minh Tâm Đặng Văn Ý
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- TAND TP.HCM;
- VKSND cấp cao tại TP.HCM;
- VKSND TP.HCM;
- Cục THADS TP.HCM;
- c đương sự;
- Lưu: VP, hồ sơ vụ án.
Tải về
Bản án số 710/2024/DS-PT Bản án số 710/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 710/2024/DS-PT Bản án số 710/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất