Bản án số 75/2022/DS-ST ngày 16/09/2022 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng hợp tác

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 75/2022/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 75/2022/DS-ST ngày 16/09/2022 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng hợp tác
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng hợp tác
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Châu Thành (TAND tỉnh Long An)
Số hiệu: 75/2022/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 16/09/2022
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 75/2022/DS-ST NGÀY 16/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG HỢP TÁC

Ngày 16 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 72/2022/TLST-DS ngày 04 tháng 5 năm 2022 về việc “tranh chấp hợp đồng hợp tác” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 114/2022/QĐXXST-DS ngày 31 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Đoàn Khánh L. Địa chỉ: ấp 1, xã P, huyện T, tỉnh Long An.

- Bị kiện: Bà Dương Thị Hồng Đ. Địa chỉ: ấp 8, xã T, huyện T, tỉnh Long An.

Người làm chứng: Ông Nguyễn Quốc T.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Tại đơn khởi kiện đề ngày 04-4-2022 của bà Lê Đoàn Khánh L là nguyên đơn trình bày: Bà và bà Dương Thị Hồng Đ là bạn bè của nhau. Vào tháng 12 năm 2021, bà và Đ có thỏa thuận miệng với nhau để hùn vốn trồng thanh long (hình thức mua thanh long đang cho trái của các nhà vườn và chăm sóc lại đến khi bán trái), hai bên thỏa thuận miệng, mỗi bên hùn 50% số tiền chăm sóc thanh long. Bà Đ phụ trách kỹ thuật chăm sóc thanh long cho đến khi thu hoạch nên bà có giao cho bà Đ cụ thể như sau:

1/ Mua 425 trụ thanh long ruột đỏ đang cho trái của bà Trần Thị T tại ấp Phú Tây A, xã Thanh Phú Long là 30.000.000 đồng, đã đặc cọc là 20.000.000 đồng.

2/ Mua 1.180 trụ thanh long ruột đỏ đang cho trái của ông Nguyễn Trung H tại ấp 4, xã Hòa Phú là 55.000.000 đồng, đã đặc cọc là 40.000.000 đồng.

3/ Mua 360 trụ thanh long ruột đỏ đang cho trái của ông Lê Minh V tại phường 7, thành phố Tân An, tỉnh Long An là 20.000.000 đồng, đã đặc cọc là 5.000.000 đồng.

4/ Mua 1.000 trụ thanh long ruột đỏ đang cho trái của ông Lê Minh T tại ấp 5, xã Hòa Phú là 60.000.000 đồng, đã đặc cọc là 27.500.000 đồng.

Tổng cộng 04 lần đặc cọc cho nhà vườn là 92.500.000 đồng do bà Đ trực tiếp giao cho nhà vườn. Bà đã giao lại cho bà Đ là 46.250.000 đồng.

Sau đó bà có đưa cho bà Đ nhiều lần với số tiền là 80.000.000 đồng để hùn vào việc chăm sóc thanh long. Trong quá trình chăm sóc thanh long bà có đến xem vườn thanh long thì phát hiện vườn thanh long không tưới nước, vuốt nghoe, không chăm sóc nên khi thu hoạch trái bị hư đến 70% (ngày 04 tết âm lịch năm 2022). Bà Đ không cho công của bà chăm sóc (thuê người chăm sóc) thanh long với lý do hai bên không thống nhất quan điểm (bị chổi nhau) nên làm không được, thanh long là do công của bà Đ hoàn toàn chăm sóc.

Tổng cộng số tiền bà giao cho bà Đ là 126.250.000 đồng.

Bà Đ bán thanh long xong không công khai số tiền thu được cho bà biết, bà Đ không công khai các khoản vật tư, phân thuốc, tiền công chăm sóc thanh long cho bà biết. Sự việc trên bà có yêu cầu Ủy ban nhân dân xã hòa giải nhưng không thành. Nay bà yêu cầu bà Đ phải hoàn trả lại bà ½ số tiền chăm sóc thanh long với số tiền là 40.000.000 đồng, trong thời gian 02 tháng kể từ ngày 17/5/2022.

Tại phiên tòa bà yêu cầu bà L phải trả cho bà 40.000.000 đồng, trong thời gian 02 tháng kể từ ngày 16/9/2022. Bà thống nhất số tiền hai bên bán thanh long và số tiền lợi nhuận của bà Đ bán thanh long của 02 nhà vườn còn lại là 14.572.000 đồng sau khi khấu trừ các chi phí khác theo lời trình bày của bà Đ.

Bà Dương Thị Hồng Đ là bị đơn trình bày: Qua lời trình bày của bà L là đúng. Bà và bà L có hùn vốn mua thanh long trái non của nhà vườn để chăm sóc và bán lại cho thương lái lời ăn lỗ chịu, còn phần kỹ thuật thì bà không có phụ trách. Tổng cộng 04 lần đặc cọc cho nhà vườn là 92.500.000 đồng do bà trực tiếp giao cho nhà vườn. Bà L đã giao lại cho bà là 46.250.000 đồng xong.

Đối với số tiền bà L có đưa cho bà Đ nhiều lần với số tiền là 80.000.000 đồng để hùn vào việc chăm sóc thanh long là không đúng, bà L chỉ có đưa cho bà nhiều lần là 46.250.000 đồng tiền đặc cọc cho nhà vườn.

Sau đó bà có đầu tư nhiều lần với số tiền là 80.514.000 đồng để chăm sóc thanh long sau khi đặc cọc cho nhà vườn xong (bao gồm tiền công chăm sóc thanh long, tưới nước, vuốt nghoe, tiền phân thuốc...). Trước yêu cầu của bà L thì bà không đồng ý, còn đối với số tiền bà đã đầu tư là 80.514.000 đồng thì bà không yêu cầu bà L hoàn trả lại ½ số tiền trên.

Tại phiên tòa: Bà thống nhất số tiền hai bên bán thanh long và số tiền lợi nhuận còn lại là 14.572.000 đồng sau khi khấu trừ các chi phí khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Người tiến hành tố tụng: Từ khi thụ lý cho đến khi giải quyết vụ án dân sự Thẩm phán tuân thủ các quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Những người tham gia phiên tòa: Các đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Bà L yêu cầu bà Đ trả lại cho bà Ly 40.000.000 đồng tiền hùn vốn trồng thanh long, bà Đ không đồng ý.

Trong quá trình thực hiện thỏa thuận của hợp đồng hợp tác hùn vốn trồng thanh long, bà L có giao cho bà Đ nhiều lần với số tiền là 80.000.000 đồng nhưng bà Đ không thừa nhận. Tại phiên tòa 02 bên xác định lợi nhuận còn lại là 14.572.000 đồng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà L đối với bà Đ về số tiền chia lợi nhuận còn lại là 7.286.000 đồng.

Tại phiên toà các đương sự không cung cấp thêm tài liệu chứng cứ, cũng như không yêu cầu đưa thêm người tham gia tố tụng khác và không có yêu cầu gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Căn cứ vào các chứng cứ của vụ án và kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thẩm quyền: Bà Lê Đoàn Khánh L khởi kiện bà Dương Thị Hồng Đ về việc “tranh chấp hợp đồng hợp tác” được quy định tại các điều 26, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành.

[2]. Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu khởi kiện của Bà Lê Đoàn Khánh L đối với bà Dương Thị Hồng Đ về tranh chấp hợp đồng hợp tác. Bà L yêu cầu bà Đ phải trả lại cho bà L 40.000.000 đồng số tiền hùn vốn trồng thanh long. Tòa án tiến hành hòa giải nhưng không thành.

Qua lời trình bày của các bên đương sự, người làm chứng, biên bản đối chất và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy, tháng 12 năm 2021 giữa bà L và bà Đ có thỏa thuận miệng hợp tác với nhau về việc hùn vốn để mua thanh long (mua thanh long non) của nhà vườn để tiếp tục chăm sóc và thu hoạch trái thanh long. Bà L cho rằng đã đưa cho bà Đ nhiều lần 80.000.000 đồng hai bên không có ký nhận, bà Đ không thừa nhận, bà L không có tài liệu, chứng cứ chứng minh nên không có cơ sở chấp nhận lời trình bày của bà L.

Tại phiên tòa 02 bên đương sự xác định số tiền bán thanh long, tổng cộng của 02 nhà vườn là 45.712.000 đồng, lợi nhuận còn lại là 14.572.000 đồng sau khi khấu trừ các chi phí khác là 31.140.000 đồng nên cần chấp nhận và buộc bà Đ có trách nhiệm hoàn trả cho bà L là 7.286.000 đồng. Do đó, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà L đối với bà Đ theo quy định tại Điều 504 Bộ luật dân sự năm 2015.

[3]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành về toàn bộ nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà L là phù hợp.

[4]. Về án phí: Bà L, bà Đ phải chịu án một phần án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

- Căn cứ các điều 26, 35, 39, 147, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 504 Bộ luật dân sự năm 2015.

- Áp dụng Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện về việc “tranh chấp hợp đồng hợp tác” của bà Lê Đoàn Khánh L đối với bà Dương Thị Hồng Đ đối với số tiền 7.286.000 đồng (bảy triệu hai trăm tám mươi sáu đồng).

Buộc bà Đ có trách nhiệm hoàn trả cho bà L số tiền hùn vốn trồng thanh long là 7.286.000 đồng.

Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà L đối với bà Đ về số tiền hùn vốn trồng thanh long là 32.714.000 đồng (ba mươi hai triệu bảy trăm mười bốn nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hằng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

2. Về án phí:

Bà L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm với số tiền là 1.635.700 đồng (một triệu sáu trăm ba mươi lăm nghìn bảy trăm đồng), khấu trừ số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu số 0007813 ngày 27 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Long An. Bà L phải nộp tiếp là 135.700 đồng (một trăm ba mươi lăm nghìn bảy trăm đồng).

Bà Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm với số tiền là 364.300 đồng (ba trăm sáu mươi bốn nghìn ba trăm đồng).

3. Về kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án (quyết định) được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Tải về
Bản án số 75/2022/DS-ST Bản án số 75/2022/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất