Bản án số 91/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp hợp đồng hợp tác

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 91/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 91/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp hợp đồng hợp tác
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng hợp tác
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hải Dương
Số hiệu: 91/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Anh Nguyễn Duy N kiện tranh chấp hợp đồng hợp tác với vợ chồng ông Nguyễn Kim N1
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HẢI DƯƠNG
Bản án số: 91/2024/DS-PT
Ngày: 30-9-2024
V/v tranh chấp hợp đồng hợp tác
và phân chia tài sản chung
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
ỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Trần Hữu Hiệu.
Các Thẩm phán: Ông Bùi Đăng Huy, ông Phạm Anh Tuyết
- Thư phiên toà: Thị Mai Trang - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Hải Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương tham gia phiên tòa:
Bà Phan Thị Thu Huyền - Kiểm sát viên trung cấp.
Trong các ngày 29 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh
Hải Dương, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 52/2024/TLPT-
DS ngày 22 tháng 7 năm 2024 về việc tranh chấp hợp đồng hợp tác và phân chia
tài sản chung; do Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2024/DS-ST ngày 29 tháng 5 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương bị kháng cáo; theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 101/2024/QĐXX-PT ngày 06 tháng
9 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 95/2024/QĐ-PT ngày 24 tháng 9 năm
2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Duy N, sinh năm 1984 chị Nguyễn Thị Thu
T, sinh năm 1984; địa chỉ: Số B phố H, thành phố H, tỉnh Hải Dương; chị T ủy
quyền cho anh N tham gia tố tụng, anh N có mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Kim N1, sinh năm 1965 Mạc Thị T1, sinh
năm 1971; địa chỉ: Thôn V, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương; có mặt.
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Phạm Văn Â, sinh năm
1979; địa chỉ: Số B, phố N, phường N, thành phố H, tỉnh Hải Dương; có mặt.
4. Người làm chứng: Anh Phùng Văn H, sinh năm 1989; có mặt.
5.. Người kháng cáo: Bị đơn Mạc Thị T1.
Bản án sơ thẩm không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Nội dung các đương sự thng nhất trình bày:
2
Ngày 01/5/2018 vợ chồng anh N chị T, vợ chồng anh N1 chị T1 anh Â
ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với các nội dung chính sau: Ba bên cùng hợp tác
nuôi thủy sản sạch trên diện tích 18.200m
2
đất tại thôn U, xã M, huyện N. Đất do
anh N1, chị T1 thuê của UBND xã M, huyện N từ trước đó. Thời gian hợp tác
10 năm kể từ ngày hợp đồng. Vợ chồng anh N vợ chồng anh N1 mỗi bên
góp 450.000.000đồng (45% giá trị), anh  góp 100.000.000đồng (10% giá trị) và
chịu trách nhiệm hoàn toàn về kỹ thuật, trông nom và các công việc khác liên
quan. Cách thức phân chia lợi nhuận và rủi ro: Trong 02 năm đầu trích trả vợ
chồng anh N1 15% lợi nhuận cho việc sử dụng đất, 85% lợi nhuận còn lại chia
đều cho ba bên. Tnăm thứ 03 trở đi, trích trả vợ chồng anh N1 20% lợi nhuận
cho việc sử dụng đất, 80% lợi nhuận còn lại chia đều cho ba bên. Rủi ro nếu
thì chia đều cho ba bên, trong đó vợ chồng anh N tự nguyện chịu phần rủi ro của
anh Â. Việc phân chia lợi nhuận và rủi ro thực hiện vào ngày 31/12 hằng năm.
Sau khi hợp đồng, các bên đã góp vốn thực hiện việc nuôi thủy sản
như cam kết. Khi các bên góp tiền chi phí, chị T1 ghi vào một quyển sổ; khi
chị T1 chi tiền cho ai thì người đó vào sổ của chị T1 hoặc nếu họ có hóa đơn
mua bán cho việc làm chung thì họ mang hóa đơn về, chị T1 ghi vào sổ và thanh
toán với nhau sau khi thu hoạch tôm. Từ 01/5/2018 đến ngày 12/10/2019, các bên
thanh toán, quyết toán với nhau không tranh chấp. Tuy nhiên do việc hợp tác
nuôi thủy sản bị thua lỗ nên các bên thống nhất không góp tiền nuôi thủy sản
chung nữa, anh  không tham gia hợp đồng hợp tác nữa, vợ chồng anh N vợ
chồng anh N1 mỗi bên sử dụng mặt bằng nuôi trồng thủy sản 01 năm. Từ tháng
10/2019 đến tháng 10 năm 2020 vợ chồng anh N nuôi trồng thủy sản trên diện
tích đất thuộc phạm vi hợp đồng hợp tác.
Tháng 9/2021, UBND huyện N đã quyết định thu hồi toàn bộ diện tích
đất vợ chồng anh N1 thuê của UBND M (kiểm đếm tài sản bồi thường ngày
16/3/2020). Tổng số tiền vchồng anh N1 được bồi thường khi giải phóng mặt
bằng thu hồi đất là 10.701.332.000đồng trong đó có phần ao, cơ sở hạ tầng thuộc
phạm vi hợp đồng hợp tác giữa ba bên.
Sau khi đất tài sản bị thu hồi, vợ chồng anh N1 đã được nhận toàn bộ
tiền bồi thường, tại giai đoạn sơ thẩm các bên thống nhất được các khoản tiền bồi
thường sau khoản tiền bồi thường cho các ng trình đầu hợp tác kinh doanh:
- Bồi thường tường xây gạch nhà kho 6.696.101đồng;
- Bồi thường công tháo dỡ 03 đồng hồ điện: 879.300đồng;
- Bồi thường 21 giếng khoan: 25.200.000đồng;
Tiền bồi thường cây khế 600.000đồng là của riêng vợ chồng anh N.
2. Các bên không thống nhất được khoản tiền bồi thường khác cho các hạng
mục khác và có yêu cầu Tòa án giải quyết các nội dung sau:
2.1 Tiền bồi thường 05 ao nuôi thủy sản chưa thu hoạch 580.000.000đồng
Anh N, chị T anh  xác định tại thời điểm kiểm đếm tài sản để lập
phương án bồi thường, toàn bộ cá giống trong 05 ao là của anh N, chT và anh Â.
3
từ thời điểm tháng 9/2019, hai bên đã không còn đầu tư nuôi thủy sản chung
do phía anh N đầu toàn bộ thủy sản giống nuôi theo thỏa thuận. Khoảng
tháng 5 năm 2019, anh N mua giống của anh Ngô Văn C, loại phi, giá
200đồng/con, thành tiền là 4.000.000đồng để thả vào tất cả các ao trên diện tích
khoảng 15.000m
2
. Sau đó, anh N tiếp tục mua chép vàng của anh T2 G, số
lượng là 40.000 con, giá 500đồng/con, thành tiền là 20.000.000đồng. Số tiền này
anh N không hạch toán với T1 nên không có trong sổ ghi chép của bà T1.
Phía ông N1, T1 xác định toàn bộ cá giống trong 05 ao là của ông N, bà
T1anh N, anh  sử dụng ao nuôi thủy sản theo thỏa thuận đến tháng 10/2020
nhưng thực tế anh N, anh  để đến tháng 2/2021 mới bàn giao 05 ao cho v
chồng ông N1. Ngay sau đó, vợ chồng ông N1 đã mua giống thả cả 05 ao để
nuôi trồng. Sau khi cơ quan giải phóng mặt bằng kiểm điếm xong thủy sản trong
05 ao tông N1, T1 đã thuê nhờ người di chuyển toàn bộ sang ao
khác nằm ở khu vực ông bà xây phim trường.
2.2. Tiền bồi thường bể xây bằng gạch (trải bạt lên) 31.452.971đồng;
Tháo dỡ 05 đồng hồ điện 1.465.500đồng; Ống nhựa P phi110 17.124.450đồng.
Ống nhựa đường kính 27mm 6.300.000đng; Ống kẽm nhà kho 8.014.200đồng;
T3 xây nhà kho 6.696.101đồng. Cộng bằng 71.080.522đồng làm tròn thành
71.000.000đồng.
Vợ chồng anh N anh  xác định bể xây bằng gạch 15m
3
được bồi thường
31.452.971 đồng bể do hai bên đầu mua vật liệu để làm blọc nước giếng
khoan phục vụ nuôi thủy sản. Trong sổ sách do T1 theo dõi ghi nội dung
mua gạch, xi măng, cát là để xây bể lọc nêu trên. Đây không phải là bể làm bằng
cát trải bạt lên vì bể đó không được bồi thường. Toàn bộ ống nhựa P phi 110mm
và phi 27mm được bồi thường là do hai bên mua đầu tư để lắp đặt dưới đáy ao
để xung quanh sục khí. Toàn bộ ống nổi ống làm chõ máy bơm các bên đã thỏa
thuận phân chia bằng hiện vật. Ống kẽm nhà kho tường xây nhà kho cũng
do hai bên đầu xây dựng khi hợp tác làm ăn đều ghi chép trong sổ sách
của bà T1.
Vợ chồng ông N1 xác định b15m
3
vợ chồng ông N1 xây trước đó để chứa
nước. Quá trình thực hiện hợp đồng hợp tác, hai bên chỉ xây dựng một bể cát trải
bạt lên. Bể này không được bồi thường và thực tế mỗi bên đã chia nhau 01 cái bạt
khi phá bể cát này. Số ống nhựa PVC110mm được bồi thường của vợ chồng
ông N1 đã đầu tư từ trước và được chôn ở dưới đất để lấy nước từ sông T vào các
ao. Ống nhựa đường kính 27mm là ng chôn dưới lòng đất để ông bà tưới cây và
mục này cũng đã đầu tư từ trước khi làm ăn chung với anh Nanh Â. Khi làm
ăn chung, các bên mua ống nhựa loại 110mm nhưng chỉ làm chõ của máy bơm
hút nước do tháo dỡ được nên Nhà nước không bồi thường. Tháng 10 năm
2020 anh N bàn giao lại ao cho vợ chồng ông N1 nhưng không bàn giao tất cả các
máy móc, thiết bị, ống làm chõ, máy bơm ….dùng để nuôi tôm. Thực tế, vợ chồng
ông N1 không nuôi tôm nên không dùng đến các máy móc đó. Ống 27mm không
đầu chung không sử dụng vào việc gì. Đối với ống kẽm loại 800mm cột
của nhà kho: Nhà này vợ chồng ông N1 xây dựng từ trước khi làm chung với anh
4
N. Trong 05 đồng h diện bị tháo dỡ thì 04 đồng hồ điện của vchồng ông N1
bằng 1.172.000đồng nên anh chị không đồng ý chia trả cho anh N và anh Â.
2.3. Chi phí đầu tư vào đất (ở mục VI của phương án bồi thường, hỗ trợ):
Anh N, chị T, anh  xác định chỉ tham gia cải tạo một cái ao rộng 5.000m
2
nên số tiền yêu cầu chia bằng 1/5 số tiền cải tạo ao bằng 761.400.000đồng/5=
152.000.000đồng.
Vợ chồng ông N1 xác định các ao của vợ chồng ông N1 đã được đào từ
trước khi đầu chung. Các ao này đều chỗ sâu nhất 2m, chỗ nông nhất
khoảng 1,2m. Quá trình làm chung, vợ chồng ông N1 có đào đất dưới đáy một cái
ao, đắp làm bờ ngăn một chiếc ao to thành hai chiếc ao nhỏ. Hoàn toàn không có
việc cải tạo ao từ mặt bằng thùng vũng để thành ao nuôi trồng thủy sản.
2.4. Tiền được bồi thường đối với 2.500 cây cau là 375.000.000đồng;
Vợ chồng anh N anh  trình bày: Tháng 9/2019 anh N mua 2.500 cây
cau ăn quả cùng anh  trồng trên diện tích đất trang trại hợp tác với vchồng ông
N1. Toàn bộ chi phí tiền giống là 25.000đồng. Việc đầu tư trồng cau là hoàn toàn
bằng tiền của vợ chồng anh N. Sau khi vợ chồng ông N1 nhận bồi thường s tiền
cau nêu trên, anh N và anh  nhiều lần đến yêu cầu vợ chồng ông N1 thanh toán
trả tiền bồi thường cho anh N nhưng hai bên không thống nhất được với nhau. Bà
T1 mới thanh toán tạm cho anh  32.500.000đồng.
Vợ chồng ông N1 trình bày, tháng 9/2019 vợ chồng ông N1 với anh  thỏa
thuận miệng với nhau mua cau giống về trồng trên đất trang trại. Anh  mua được
2.500 cây cau với giá 15.000.000đồng. Sau đó, vợ chồng ông N1 đã trả cho anh
 tiền giống cây, công vận chuyển, công trồng cây và tiền lãi của Âu là
17.500.000đồng, cộng bằng 32.500.000đồng. Số tiền này anh  đã nhận đủ. Do
đó, toàn bộ tiền đền 2500 cây cau của vợ chồng ông N1, không liên quan
đến việc đầu tư chung.
3. Những người làm chứng trìnhy:
Anh Tiêu Công L: Anh L1 biết anh N làm trang trại nuôi khu vực chân
Cầu H thường xuyên đến đó để hỗ trợ, bắt tôm cho anh N. Lần cuối cùng
anh đến tham gia bắt tôm cùng anh Nhất l khoảng tháng 01/2021, lúc đó còn
một ít cá ở đầm, anh còn giúp anh N bắt để mang sang đầm ở ng P nuôi tiếp.
Ông Nguyễn Xuân L2: Năm 2019, ông thấy anh N nói chuyện về việc anh
N đầu tư làm cùng vợ chồng ông N1 T1 ở trang trại bên chân cầu H. Ông tham
gia làm giúp anh N và trực tiếp tại trang trại làm công việc nuôi cá, vệ sinh ao….
Khi đủ điều kiện mặt nước thì mới thả cá, tôm. Khi ông đến thì thấy ở khu trang
trại trên có 03 ao to, sau đó thì ngăn 01 ao thành hai ao nhỏ. Anh N không đào đất
thành ao mà sử dụng các ao có sẵn để nuôi tôm, cá. Trên đất lúc đó đã có sẵn một
ngôi nhà tôn ba gian, một nhà che máy móc hai bể cao su. Ông không biết ai
xây dựng, kiến thiết các công trình trên đất. Không biết ai trồng cây cối trên đất,
không biết anh N ông N1 hợp tác làm ăn thế nào. Đến tháng 4/2020 thì ông
không làm ở trang trại trên nữa.
5
Anh Nguyễn Văn C1: Anh thường xuyên mua tôm của anh N, anh  tại
trang trại ở khu vực chân cầu H. Anh không mua ca vợ chồng ông N1T1 lần
nào. Lần cuối cùng anh mua tôm của anh Nhất năm 2021 (không nhớ ngày,
tháng).
Anh Phạm Văn B: Khoảng năm 2019 (không nhớ ngày tháng), anh B đi
cùng anh N, anh  sang T mua cây cau vườn nhà anh N2 đem về trồng khu
trang trại nuôi tôm chung của anh N ông N1. Sau này anh sang khu trang trại
trên nhiều lần và có thấy các cây cau được trồng ở trên đất tại khu trang trại trên
nhưng anh không xác định được phải là những cây cau anh N, anh  đã mua ở
T không.
Anh Phạm Văn N3: Khoảng tháng 10 năm 2019, anh N mua của anh
2.500 cây cau cao từ 30-40cm, đường kính gốc khoảng 2-3cm, giá tiền
10.000đ/cây. Do anh anh T4 cùng một số người nữa làm chung nên anh lấy
hóa đơn của nhà vườn Thắm T5 viết cho anh N1 mang về thanh toán. Hôm đó có
anh Â, anh B đi cùng anh N. Anh không biết anh N đem các cây cau kia về trồng
ở đâu hay sử dụng vào việc gì.
Anh Phạm Văn M (B1): Anh làm thuê cho anh N, công việc trông nom
đầm tôm, nuôi tôm, trồng cây, tưới cây khu trang trại dưới dân cầu H. Anh
không nhớ ngày tháng nhưng thấy anh N, anh  mang cau về trồng khu trang
trại. Anh không nhớ bao nhiêu cây cau. Anh chỉ biết làm thuê theo yêu cầu của
anh N. Sau khi các quan kiểm đếm cây khu trang trại của anh N, anh  để
thu hồi đất, ông N1 bảo anh đánh những cây cau trang trại của anh N, anh Â
sang trồng ở khu phim trường mới của ông N1.
Chị Vũ Thị N4: Chị N4 có khu trang trại ở gần khu đất của anh N1 nên chị
chứng kiến anh N, anh  đầu nuôi tôm tại đầm ao đã sẵn của gia đình
anh N1. Anh N1 tham gia nuôi tôm cùng anh N không tchị không rõ. Chị
thấy các anh đặt đường ống nhựa ở đáy ao, làm guồng, sủi …. để nuôi tôm. Anh
N, anh  làm tại khu đất trên cho đến khi UBND huyện N cùng các cơ quan đến
kiểm đếm tài sản trên đất để thu hồi đất.
UBND huyện N cung cấp: Biên bản kiểm kê diện tích đất, tài sản, cây cối,
hoa màu trên đất bị thu hồi ngày 16/03/2020, hộ số 74, chủ hộ sử dụng đất, tài
sản, cây cối: Ông Nguyễn Kim N1, bà Mạc Thị T1, thể hiện diện tích đất, các tài
sản, cây cối, hoa màu trên đất bị thu hồi, của hộ ông Nguyễn Kim N1, Mạc Thị
T1; Phương án bồi thường, hỗ trợ ngày ngày 30/09/2021. Ngày 01/11/2021,
UBND huyện N ban hành Quyết định số 4975/QĐ-UBND phê duyệt dán bồi
thường cho 06 hộ dân trong đó có hộ gia đình ông Nguyễn Kim N1 với số tiền là
10.701.332.000đồng Quyết định số 4973/QĐ-UBND về việc thu hồi đất để
thực hiện dự án: Xây dựng khu đô thị mới phía Bắc cầu Hàn (giai đoạn 1) tại
M, huyện N, trong đó có 22.796m
2
đất của UBND xã M do hộ ông Nguyễn Kim
N1 đang quản lý, sử dụng.
4. Yêu cầu của anh N, chị T và anh Â:
Đối với các tài sản anh N anh  tự bỏ tiền đầu tư, yêu cầu vchồng ông
N1, T1 trả các anh toàn bộ số tiền đã được bồi thường. Cụ thể: Số tiền được
6
bồi thường đối với 2.500 cây cau bằng 375.000.000đồng; 01 cây khế bằng
600.000đồng; 21 giếng khoan bằng 25.200.000đồng. Đối trừ số tiền anh  đã
nhận là 32.500.000đồng. Còn lại số tiền là 368.300.000đồng.
Đối với các tài sản đầu chung, yêu cầu vợ chồng ông N1, bà T1 trả các
anh số tiền được đề bù theo t lệ % đã thỏa thuận, ký kết tại Điều 3 của Hợp đồng
hợp tác ngày 01/05/2018. Các tài sản các bên đầu chung gồm: giống 05
ao bằng 580.000.000đồng; 15m
3
bể xây bằng 31.000.000đồng; tháo dỡ 03 đồng
hồ điện bằng 900.000đồng; ống nhựa PVC110mm bằng 17.200.000đồng; ống
nhựa đường kính 27mm bằng 6.300.000đồng; Ống kẽm nhà kho 8.014.000đồng;
T3 xây nhà kho bằng 6.696.000đồng (các số liệu trên đều đã được làm tròn); Tiền
cải tạo 01 cái ao bằng 152.000.000đồng. Tổng số tiền được đền chung
802.000.000đồng (làm tròn). Trừ trả chị T1 15% tiền thuê đất bằng
120.300.000đồng. Số tiền còn lại 681.700.000đồng chia làm ba phần, anh N
anh  được hai phần bằng 454.460.000đồng (làm tròn), anh N1 được 01 phần
bằng 227.233.000đồng (làm tròn). Cộng với số tiền được đền bù do đầu tư riêng
368.300.000đồng, buộc anh N1, chị T1 trả số tiền 822.760.000đồng (làm
tròn).
Anh N và anh  tự nguyện thống nhất giao anh N đại diện nhận tiền từ anh
N1, chị T1. Giữa anh N và anh  sẽ tự giải quyết với nhau sau. Trước đây anh N
yêu cầu anh N1 chị T1 trả anh tiền công điện ba pha tiền dây điện
40.000.000đồng, anh tự nguyện rút không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án
này. Anh không có yêu cầu đề nghị nào khác.
5. Ý kiến của vợ chồng ông N1, T1: Chấp nhận một phần yêu cầu của
anh N, chị T và anh Â, xác định: Tài sản do hai bên đầu tư chung đã được đền bù
gồm: Công tháo dỡ 03 công tơ điện; 21 giếng khoan; 01 cây khế; T3 nhà kho
đồng ý trả tiền cho anh N, chị T, anh  theo tỉ lệ % thỏa thuận trong hợp đồng
hợp tác đầu tư. Không chấp nhận tất cả các yêu cầu còn lại của anh N, chị T, anh
Â.
6. Tại Bản án dân sự thẩm số 06/2024/DS-ST ngày 29 tháng 5 năm 2024,
Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương quyết định:
Buộc ông Nguyễn Kim N1 Mạc Thị T1 phải trả cho anh Nguyễn Duy
N, chị Nguyễn Thị Thu T, anh Phạm Văn  do anh N đại diện nhận số tiền
559.074.000đồng (làm tròn). Chấp nhận sự tự nguyện của anh  anh N sẽ tự
giải quyết với nhau.
Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của anh N về việc buộc anh N1 chị T1
thanh toán tiền công tơ điện ba pha và dây điện là 40.000.000đồng.
Ngoài ra bản án còn tuyên về nghĩa vụ chậm thi hành án, án phí, quyền thi
hành án và quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 04/6/2024, bị đơn Mạc Thị T1 kháng cáo không đồng ý với quyết
định của bản án sơ thẩm về các khoản: Tiền hỗ trợ ao nuôi cá giống chưa đến kỳ
thu hoạch; tiền bồi thường 2.500 cây cau; tiền bồi thường hệ thống ống nhựa phi
110mm và 27mm; tiền bồi thường 15m
3
bể.
7
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện giữ nguyên ý kiến đã trình
bày ở trên, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị đơn Mạc Thị T1 giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Vợ chồng ông N1 giữ
nguyên nội dung trình bày ở trên.
Người làm chứng là anh Phùng Văn H, sinh năm 1989, địa chỉ: Khu dân
S, phường A, thành phố H trình bày: Khoảng tháng 11/2021 anh được vợ chồng
ông N1 thuê dỡ phim trường trên diện tích đất bị thu hồi để chuyển sang khu vực
phim trường mới của vợ chồng ông N1. Khi đó, anh H có tham gia vận chuyển
của ông N1 tmột ao trong khu vực đất bị thu hồi sang ao của ông N1 khu phim
trường mới. Ngoài ra còn bơm nước cho mt ao của ông N1.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp
luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm và đề nghị Hội đồng
xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm; buộc
bị đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Kháng cáo của bị đơn Mạc Thị T1 trong thời hạn luật định
nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
2.1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh ngày 01/5/2018 giữa vợ chồng anh N chị
T, vợ chồng ông N1 T1 anh  được kết trên cơ sở tnguyện của các bên
đủ năng lực chủ thể theo quy định của pháp luật dân sự; nội dung của hợp đồng
không vi phạm điều cấm, không trái đạo đức hội nên hợp đồng hợp pháp
theo quy định tại Điều 504, 505, 506, 507 của Bộ luật Dân sự. Đến tháng 9/2019
do việc hợp tác nuôi thủy sản bị thua lỗ nên các bên thống nhất không góp tiền
nuôi thủy sản chung nữa, anh  thôi tham gia hợp đồng hợp tác, vợ chồng anh N
và vchồng ông N1 thỏa thuận mỗi bên sử dụng mặt bằng nuôi trồng thủy sản 01
năm. Từ tháng 10/2019 đến tháng 10 năm 2020 vợ chồng anh N nuôi trồng thủy
sản trên diện tích đất thuộc phạm vi hợp đồng hợp tác. Nvậy, đến tháng 9/2019
giữa các bên có thỏa thuận lại thay đổi phương thức hợp tác của hợp đồng. Theo
đó các bên sử dụng các tài sản đã được đầu chung để chăn nuôi riêng, lời ăn,
lỗ tchịu. Ngày 01/11/2021, UBND huyện N đã quyết định thu hồi toàn bộ
diện tích đất vợ chồng anh N1 thuê của UBND xã M (kiểm đếm tài sản bồi thường
ngày 16/3/2020). Tổng số tiền vợ chồng anh N1 được bồi thường khi giải phóng
mặt bằng thu hồi đất 10.701.332.000đồng trong đó phần ao, sở htầng
thuộc phạm vi hợp đồng hợp tác giữa ba bên. Như vậy, Hợp đồng hợp tác kinh
doanh giữa hai bên chấm dứt từ khi quyết định thu hồi đất. Hợp đồng chấm dứt
do khách quan nên không bên nào có lỗi. Do các bên không thống nhất được việc
phân chia quyền lợi do hợp đồng chấm dứt nên phát sinh tranh chấp. Suốt quá
trình tố tụng, các bên thống nhất lấy số tiền đã được bồi thường cho từng hạng
mục cụ thể để làm giá trị của các tài sản đầu tư chung.
8
Xét các yêu cầu kháng cáo của bị đơn Mạc ThT1 liên quan đến Hợp đồng
hợp tác kinh doanh ngày 01/5/2018:
- Về số tiền bồi thường 05 ao nuôi thủy sản chưa thu hoạch
580.000.000đồng: Từ tháng 9/2019 khi các bên thỏa thuận phương thức hợp tác,
vợ chồng anh N quản 05 ao tự đầu nuôi thủy sản. Tại phiên a phúc thẩm
vợ chồng ông N1 xác định theo thỏa thuận đến tháng 10/2020 anh N phải thu
hoạch cá để trả lại ao cho vợ chồng ông N1 nhưng thực tế đến tháng 2/2021 anh
N mới thu hoạch xong và bàn giao ao. Theo hồ sơ thu hồi đất do UBND huyện N
cung cấp, việc kiểm đếm toàn bộ tài sản trên đất do vợ chồng ông N1 thuê của
UBND M được thực hiện vào ngày 16/3/2020 (Biên bản kiểm kê ngày
16/3/2020 - BL 256 có chữ ký của ông N1). Như vậy, tại thời điểm kiểm kê toàn
bộ thủy sản trong 05 ao của vợ chồng anh N. Tiền bồi thường thủy sản trong
05 ao trong phương án bồi thường được UBND huyện N phê duyệt lẽ ra vợ chồng
anh N được hưởng toàn bộ. Tuy nhiên, trong suốt quá trình ttụng từ giai đoạn
thẩm đến phiên tòa phúc thẩm, vợ chồng anh N tự nguyện chia cho vchồng
ông N1 số tiền trên theo tỉ lệ thỏa thuận phân chia lợi nhuận trong Hợp đồng hợp
tác kinh doanh là lợi cho vợ chồng ông N1, T1. Do vậy, kháng cáo của bà T1
về nội dung này không có căn cứ chấp nhận.
- Về số tiền bồi thường 15m
3
bể là 31.452.971đồng (mục 67 của I): Trong
sổ ghi chép của chị T1 tại trang 5 ghi ngày 26/6/2018, khoán làm đáy bể
1.800.000đồng; trang 7 ghi ngày 15/7/2018 trả tiền xây bể + lắp ống hơi bằng
3.640.000đồng; ngày 15/8/2018 trả tiền gạch đen, cát xây, cát lấp, ximang bằng
6.410.000đồng. Tại trang sổ ghi “thanh toán với N: chị T1 tính trả cho anh N 20m
3
bể bằng 41.936.000đồng”. Tại phiên tòa phúc thẩm, anh N, anh  xác định việc
nuôi tôm hoàn toàn sử dụng nước giếng khoan, không sử dụng nước sông ô
nhiễm. Bể này bể lọc nước giếng khoan để lấy nước nuôi tôm. Vợ chồng ông
N1 xác định nước đvào ao nuôi tôm chỉ sử dụng một phần nước giếng khoan.
Như vậy, chỉ khi nuôi tôm mới phát sinh nhu cầu lọc nước giếng khoan với s
lượng lớn nên căn cứ xác định đây công trình đầu chung theo hợp đồng
hợp tác giữa các bên. Kháng cáo của bị đơn Mạc Thị T1 vnội dung này không
có căn cứ chấp nhận.
- Về số tiền thường ống nhựa P 110mm là 17.124.450đồng: Tại trang 5 sổ
ghi chép của bà T1 ghi ngày 13/6 trả phi 110, cút 110 bằng 2.190.000đồng nhưng
không ghi slượng, đơn giá mỗi sản phẩm, không ghi rõ sdụng vào việc gì. Tại
hóa đơn bán hàng ngày 13/6/2018 ghi phi100, số lượng 8, thành tiền
1.960.000đồng. Tại hóa đơn n hàng ngày 09/8/2018, số thứ tự 1 ghi ống
DM110C2, số lượng 120m, đơn giá 86.600đ, thành tiền 10.032.000đồng. Tại
trang 13 của sổ ghi chép T1 ghi tại dòng 10, 11 12: Ống nhựa Hoàn Sơn
7.622.0000đồng (ngày 9/8/2018); 975.000đồng (ngày 12/7/2018) và
6.847.000đồng (ngày 12/7/2018). Như vậy, các bên đầu chung 120+8=
128m ống nhựa PVC110mm nên cấp thẩm chấp nhận một phần yêu cầu của
nguyên đơn, xác định số tiền các bên đầu chung đã được bồi thường
10.437.000đồng (làm tròn) căn cứ. Về số ống nhựa đường kính 27mm, số
lượng 525m, đơn giá 12.000đồng, được bồi thường 6.300.000đồng (tại mục
9
40): Tại hóa đơn bán hàng ngày 12/7/2018 mục thứ 3 ghi ống DM27C2, số
lượng 8m, đơn giá 12.000đồng, thành tiền 96.000đồng. Tại hóa đơn bán hàng
ngày 12/7/2018 số thứ tự 4 ghi: ống DM27C2, số lượng 76m, đơn giá 12.000đ,
thành tiền 912.000đồng. Tại trang 13 của sổ ghi chép T1 ghi tại dòng 10, 11
12: Ống nhựa Hoàn Sơn 975.000đồng (ngày 12/7/2018) và 6.847.000đồng
(ngày 12/7/2018). Tại trang sổ có tiêu đề “Thanh toán với N(bút lục 90), bà T1
ghi: “ống nhựa 15.444.000” nhưng không ghi loại ống nhựa . Cấp thẩm
xác định các bên đầu tư chung 84m ống nhựa đường kính 27mm đã được bồi
thường 1.008.000đồng căn cứ. Số ống nhựa còn lại được bồi thường thuộc
quyền sở hữu của vợ chồng ông Nghĩa l1 phù hợp với lời khai của vợ chồng ông
N1 về việc trước khi hợp tác kinh doanh với vợ chồng anh N, vợ chồng ông N1
đã đầu chôn ống dẫn nước vào đầm. Như vậy, kháng cáo của bị đơn Mạc Thị
T1 về nội dung này không có căn cứ chấp nhận.
2.2. Về số tiền 375.000.000đồng Nhà nước bồi thường 2.500 cây cau:
Tháng 9/2019, anh N anh  mua cau giống về trồng trên diện tích đất
hợp tác kinh doanh nuôi thủy sản với vợ chồng ông N1. Vợ chồng ông N1 không
đầu tiền giống cau công sức chăm sóc như anh N, anh  trình bày phù
hợp bởi giai đoạn này các bên thỏa thuận vợ chồng anh N sử dụng ao để nuôi thủy
sản. Vợ chồng ông N1 khai thuê anh  trồng cau nhưng không có căn cứ chứng
minh trong khi anh  không thừa nhận. Lời khai của các đương sự có trong hồ
vụ án tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ xác định trên thực tế vợ chồng ông
N1 anh N, anh  thỏa thuận về việc phía anh N mua cau về trồng trên đất
của vợ chồng ông N1. Nếu có việc thu hồi đất thì sẽ phân chia số tiền bồi thường
cho số cây cau trồng trên đất. Đây là thỏa thuận khác, không cùng với thỏa thuận
hợp tác trong Hợp đồng ngày 01/5/2018. Tranh chấp này của các bên tranh chấp
phân chia tài sản. Tại đơn khởi kiện anh N đã đưa ra yêu cầu chia số tiền bồi
thường 2.500 cây cau. Cấp sơ thẩm đã thụ lý yêu cầu này đgiải quyết nhưng khi
trích yếu nội dung quan hệ pháp luật tranh chấp khi thụ tại bản án thẩm
chưa trích yếu nội dung quan hệ tranh chấp phân chia tài sản chưa phù hợp. Tại
thời điểm ngày 9/11/2021 vợ chồng ông N1 đã được nhận khoản tiền bồi thường
2.500 cây cau 375.000.000đồng nhưng không thông báo cho phía anh N biết về
số tiền này, không phân chia cho anh N chỉ thanh toán cho anh Â
23.500.000đồng là không đúng với nội dung thỏa thuận giữa các bên, không đảm
bảo quyền lợi của anh N trong việc phân chia tiền bồi thường nếu có. Cấp thẩm
chấp nhận yêu cầu của anh N, anh  phân chia số tiền trên theo phương thức phân
chia hai bên thỏa thuận trong Hợp đồng hợp tác kinh doanh ngày 01/5/2018
phù hợp lợi cho vợ chồng ông N1. Vì vậy, kháng cáo của bị đơn Mạc Thị
T1 về nội dung này là không có căn cứ chấp nhận.
Các nội dung khác không kháng cáo đã được cấp thẩm xác định
tính toán, phân chia đảm bảo quyền lợi của các bên. Do toàn bộ nội dung kháng
cáo ca bị đơn không căn cứ chấp nhận nên Hi đồng xét xử giữ nguyên quyết
định của bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí: Bị đơn Mạc Thị T1 kháng cáo không được chấp nhận nên
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo Điều 148 B luật Tố tụng dân sự và Nghị
10
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng và sử dụng án
phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
1. Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bđơn Mạc Thị T1. Giữ nguyên
Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2024/DS-ST ngày 29 tháng 5 năm 2024 của Tòa án
nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
2. Về án phí: Buộc bị đơn Mạc Thị T1 phải chịu 300.000đồng án phí dân
sự phúc thẩm được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí theo Biên
lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001421 ngày 12/6/2024 của Chi cục
Thi hành án dân shuyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, T1 đã nộp đủ án phí dân
sự phúc thẩm.
3. Bn án phúc thm có hiu lc pháp lut k t ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhn:
- VKSND tnh Hải Dương;
- Các đương sự;
- TAND huyn Nam Sách;
- Chi cc THADS huyn Nam Sách;
- Lưu: HS, THS, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN - CH TO PHIÊN T
Trn Hu Hiu
Tải về
Bản án số 91/2024/DS-PT Bản án số 91/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 91/2024/DS-PT Bản án số 91/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất