Bản án số 03/2024/DS-PT ngày 06/09/2024 của TAND tỉnh Lào Cai về tranh chấp hợp đồng hợp tác

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 03/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 03/2024/DS-PT ngày 06/09/2024 của TAND tỉnh Lào Cai về tranh chấp hợp đồng hợp tác
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng hợp tác
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lào Cai
Số hiệu: 03/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 06/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Công ty D khởi kiện Công ty T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÀO CAI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 03/2024/KDTM-PT
Ngày 06 - 9- 2024
V/v Tranh chấp hợp đồng xây dựng
NHÂN DANH
ỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Đặng Phi Long
Các Thẩm phán: Bà Trần Thị Khánh Vân
Ông Trương Quyết Thắng
- Thư ký phiên toà:Vũ Thị Lan - Thư ký Toà án nhân dân tỉnh Lào Cai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Phượng - Kiểm sát viên.
Ngày 06 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lào Cai xét xử
phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ số: 04/2024/TLPT-
KDTM ngày 07/5/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng xây dựng” do bản án
thẩm số 03/2024/KDTM-ST ngày 20/3/2024 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh
Lào Cai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 983/2024/QĐ-PT ngày 05/7/2024;
Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 1185/2024/QĐ-PT ngày 24/7/2024 giữa
các đương sự:
1. Nguyên đơn:ng ty D
Địa ch: Khu công nghiệp T, huyện B, tỉnh Lào Cai.
Ngưi đi diện theo pháp lut: Ông Vũ Vit T - Chức vụ: Tổng Giám đốc.
Người đại diện theoy quyền của Nguyên đơn:
- Ông Phạm Huy Đức; Phạm P - Có mặt
- Nguyễn ThHoài P; Ông Đăng T; Ông Nguyễn Bảo L -Vắng mặt
ng địa ch: Công ty D. Khu công nghiệp T, huyện B, tỉnh o Cai.
2. Bị đơn: Công ty T
2
Địa chỉ: Số 106, đường Nguyễn Văn T, phường 08, quận Phú N, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông C - Chủ tịch Hội đồng thành viên.
Người đại diện theo ủy quyền của Bị đơn:
- Ông Nguyễn Văn T; Bà Ngô Thị D; Ông Trần Quốc Đ; Đồng Khánh P.
ng địa chỉ: Công ty T. Lầu 11, Tòa n Centre Point, số 106, đường Nguyễn Văn
T, pờng 08, quận PN, Thành phHồ C Minh - Có mặt.
- Bà Nguyễn Minh Thủy T. Địa chỉ: ng ty T. Lầu 11, a nCentre Point,
số 106, đường Nguyễn n T, phường 08, quận P N, Thành phố Hồ Chí Minh -
Vắng mặt.
3. Người kháng cáo: Bị đơn Công ty T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn Công ty D trình bày:
Ngày 26/11/2011 Công ty D (sau đây gọi CÔNG TY D) hợp đồng số
26.12.2011/HD-CÔNG TY D về gói thầu số 3 với 5 nhà thầu liên doanh gồm:
Công ty Trách nhiệm hữu hạn đại chúng TTCL; Công ty T (sau đây gọi là CÔNG
TY T); Công ty cổ phần thiết kế công nghiệp hoá chất; Công ty trách nhiệm hữu
hạn kỹ thuật đóng tàu Mitsui; Tổng công ty cổ phần xây dựng công nghiệp việt
Nam.
Nội dung hợp đồng: Thiết kế kỹ thuật mặt bằng toàn bộ c hạng mục
công trình trong nhà máy; Thiết kế, chuyển giao công nghệ, mua sắm vật tư thiết
bị, xây lắp, vận hành các xưởng sản xuất chính một số hạng mục đồng bộ
liên quan đến Dán đầu xây dựng Nhà máy sản xuất phân bón Điamôn Phốt
phát (DAP) số 2. Địa điểm thực hiện hợp đồng: Khu công nghiệp T, huyện B, tỉnh
Lào Cai.
Trong đó 5 nhà thầu trên, CÔNG TY T là nhà thầu Việt Nam tham gia cung
cấp thiết bị cho dự án và thực hiện một số phần việc khác theo hợp đồng. Quá
trình thực hiện hợp đồng, một số nhà thầu trong đó CÔNG TY T thay đổi
thông số kỹ thuật, số lượng, xuất xứ của thiết bị so với hợp đồng. CÔNG TY D
và các nhà thầu đã nhiều lần tổ chức họp để xem xét phương án giải quyết đối với
các thiết bị có thay đổi. Theo đó hai bên thống nhất để CÔNG TY D đứng ra thuê
đơn vị chức năng thẩm định lại giá của các thiết bị thay đổi so với hợp đồng.
Các phiên họp thống nhất hai bên sẽ ký phụ lục hợp đồng sau khi thực hiện xong
thẩm định giá của các thiết bị có thay đổi thông số kỹ thuật.
CÔNG TY D đã ký hợp đồng thẩm định giá với Công ty cổ phần giám định
thẩm định Sài Gòn (gọi tắt là SG) và CÔNG TY D đã thanh toán 50% giá trị hợp
đồng cho SG tương đương 137.500.000 đồng. Do CÔNG TY T không cung cấp
tài liệu có giá nên SG không thể tiến hành thẩm định được và CÔNG TY D phải
chấm dứt hợp đồng với SG.
3
Ngày 14/11/2017, CÔNG TY D đã hợp đồng với Công ty trách nhiệm
hữu hạn Thẩm định giá và đại lý thuế Việt Nam (gọi tắt là VTA) tiến hành thẩm
định giá và đã thanh toán cho VTA số tiền chi phí thẩm định giá 443.240.000
đồng. Sau khi thẩm định giá, CÔNG TY D đã cung cấp kết quả cho nhà thầu
yêu cầu nhà thầu phải thanh toán chi phí thẩm định giá nhưng nhà thầu không
thực hiện. Ngày 09/02/2021 CÔNG TY D Văn bản số 193/2021/CV-CÔNG
TY D về việc giải quyết tồn đọng về quyết đoán, trong đó tại mục 5 đã yêu cầu
nhà thầu thanh toán chi phí thẩm định thiết bị thay đổi so với hợp đồng thời
gian không muộn hơn ngày 26/02/2021. Tuy nhiên hết thời hạn trên nhà thầu vn
không thanh toán.
Ngày 25/3/2022, CÔNG TY D khởi kiện CÔNG TY T ra Trung tâm trọng
tài Quốc tế Việt Nam, yêu cầu CÔNG TY T thanh toán một phần chi phí thẩm
định giá tương ứng 97.512.800 đồng (Số tiền được phân bổ dựa trên tỷ lệ gthiết
bị sau thẩm định của từng nhà thầu trên tổng giá trị thiết bị sau thẩm định của toàn
bộ thiết bị thay đổi so với hợp đồng). Theo đó giá thiết bị sau thẩm định của
CÔNG TY T chiếm 22% tổng giá trị toàn bộ thiết bị có thay đổi nên CÔNG TY
T phải thanh toán 22% chi phí thẩm định giá.
Ngày 18/01/2023 Hội đồng trọng tài ra phán quyết số 105/VIAC vụ tranh
chấp số 17/22 chấp nhận yêu cầu khởi kiện cua CÔNG TY D, buộc CÔNG TY T
phải thanh toán cho DAP số tiền phí thẩm định 97.512.800 đồng tiền lãi
chậm thanh toán 16.937.840 đồng. Tuy nhiên phán quyết sau đó bhuỷ bởi
quyết định số 868/QĐ-PQTT ngày 05/6/2023 ca Toà án nhân dân thành phố Hồ
Chí Minh.
Do đó Công ty CÔNG TY D khởi kiện yêu cầu Toà án nhân dân huyện B
giải quyết buộc Công ty T (CÔNG TY T) phải thanh toán cho CÔNG TY D khoản
chi phí thẩm định glà 97.512.800 đồng tiền lãi chậm thanh toán tạm tính đến
ngày 29/8/2023 là 24.364.824 đồng.
Bị đơn ng ty T (viết tắt NG TY T) trình y:
Yêu cầu khởi kiện của công ty CÔNG TY D đã hết thời hiệu khởi kiện.
do thực tế CÔNG TY D đã biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm ktừ thời điểm CÔNG TY D thực hiện thanh toán chi pphát sinh. Tuy
nhiên khi nhà thầu đưa ra ý kiến để bác bỏ và phản đối việc chịu trách nhiệm đối
với khoản tiền này thì CÔNG TY D đã không thực hiện quyền khởi kiện. Cụ thể
thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện ngày 27/12/2017 (ngày CÔNG TY D
thanh toán cho công ty thẩm định giá VTA) nên thời điểm kết thúc thời hiệu
27/12/2019. Do vậy CÔNG TY D đã mất quyền khởi kiện.
Đối với việc thẩm định giá thiết bị, theo biên bản họp ngày 08-09/6/2017
các bên thống nhận lựa chọn SG làm đơn vị thẩm định giá. Tuy nhiên trong quá
trình thẩm định giá, SG yêu cầu cung cấp hợp đồng mua bán thiết bị giữa nthầu
với đơn vị cung cấp giá đầy đủ, khác với thống nhất ban đầu chỉ cung cấp
hợp đồng che giá nên CÔNG TY D đã chấm dứt hợp đồng với SG. Kết quả SG
không phát hành chứng thư thẩm định giá. CÔNG TY T đã chi trả phí cho SG
4
6.141USD. Kể từ thời điểm chấm dứt hợp đồng với SG, hai bên chưa thống nhất
về việc lựa chọn đơn vị thẩm định giá khác. Việc DAP tự lựa chọn VTA để định
giá đơn phương không thông báo cho CÔNG TY T biết nên đã ảnh hưởng
nghiêm trọng đến quyền thương lượng, thoả thuận chi phí thẩm định giá cũng như
quyền giao kết, kết hợp đồng với đơn vị thẩm định giá của CÔNG TY T. Bị
đơn đề nghị Toà án bác bỏ toàn bộ yêu cầu khởi kiện ca CÔNG TY D.
Bản án kinh doanh thương mại thẩm số 03/2024/KDTM-ST ngày
20/3/2024 của Tòa án nhân dân thành huyện B, tỉnh Lào Cai đã quyết định:
Căn cứ các Điều 30, 35, 40, khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 278 Bộ luật dân sự; Điều 306, 319 Luật Thương mại; Điều 113, 138 Luật
xây dựng; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu phí, miễn, giảm, thu nộp, quản sdụng án phí và lệ phí
Tòa án. Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty D.
Buộc ng ty T phải hoàn tr cho Công ty D số tiền chi phí thẩm định giá
là 97.512.800 đồng và tin lãi do chậm thanh toán đến ngày xét x là
29.841.588 đồng. Tổng cộng là 127.354.388 đồng.
Kể từ ngày người được thi hành án đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi
thi hành án xong, Công ty T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, 468 của Bộ luật Dân sự năm
2015.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về về án phí, quyền kháng cáo, quyền yêu cầu thi
hành án cho các đương sự.
Ngày 01/4/2024, Bị đơn Công ty T kháng cáo toàn bộ bản án thẩm, yêu
cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án số 03/2024/KDTM-ST ngày 20/3/2024 của
Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị đơn giữ nguyên nội dung kháng cáo, nguyên
đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Quan đim của đại diện Viện kim t nhân n tỉnh o Cai tham gia phn a:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của thẩm phán, Hội đồng xét xử trong
quá trình giải quyết vụ án và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia
tố tụng tại phiên tòa đều đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 4 Điều
308; Điều 311 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, chấp nhận kháng cáo của bị đơn
huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Tuyên án phí theo quy định của
pháp luật.
5
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên sở xem xét, đánh
giá đầy đủ, toàn diện các chứng cứ. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của Bị đơn Công ty T nộp trong hạn luật định, có đầy đủ
nội dung theo quy định tại Điều 272 Bộ luật Tố tụng dân s, là căn cứ để Tòa án
nhân dân tỉnh Lào Cai đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm theo quy định.
[2] Xét nội dung kháng cáo của Bị đơn Công ty T:
[2.1] Về thời hiệu khởi kiện:
Theo Đơn khởi kiện, Nguyên đơn Công ty D (gọi tắt CÔNG TY D) yêu cầu
Tòa án giải quyết: Buộc bị đơn Công ty T (gọi tắt: CÔNG TY T) phải thanh toán
cho NG TY D khoản chi phí thẩm định giá97.512.800 đồng và tiền lãi chậm
thanh toán tạm tính đến ngày 29/8/2023 24.364.824 đồng. Nguyên nhân phát
sinh tranh chấp xuất phát từ việc thực hiện Hợp đồng số 26.12.2011/HĐ-CÔNG
TY D ngày 26/11/2011 giữa NG TY D với 5 nhà thầu liên doanh trong đó
CÔNG TY T nhà thầu Việt Nam tham gia cung cấp thiết bị cho dự án thực
hiện một số phần việc khác theo hợp đồng. Nguyên đơn cho rằng trong quá trình
thực hiện hợp đồng, CÔNG TY T đã nhiều lần thay đổi thông số kỹ thuật, số lượng,
xuất xứ của thiết bị so với hợp đồng, nên CÔNG TY D c nhà thầu đã nhiều
lần tổ chức họp để xem xét phương án giải quyết đối với các thiết bị có thay đổi.
Sau khi các bên thống nhất về việc Chủ đầu (CÔNG TY D) thực hiện thẩm
định giá các thiết bị có thay đổi thông số kỹ thuật và xuất xứ thì CÔNG TY D đã
ký Hợp đồng định giá với Công ty cổ phần giám định thẩm định Sài Gòn (gọi tắt:
SG), tuy nhiên do không đủ tài liệu nên không tiến hành thẩm định được. Do
đó, ngày 14/11/2017 CÔNG TY D đã hợp đồng với Công ty TNHH Thẩm định
giá và đại lý thuế Việt Nam (gọi tắt: VTA) và đã thanh toán số tiền chi phí thẩm
định giá là 443.240.000 đồng.
Xét thấy, tranh chấp giữa các bên phát sinh từ quá trình thực hiện Hợp đồng
xây dựng nên xác định là tranh chấp thương mại. Tại Điều 319 Luật Thương mại:
“Thời hiệu khởi kiện áp dụng đối với các tranh chấp thương mại hai năm, kể
từ thời điểm quyền lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp quy định
tại điểm e khoản 1 Điều 237 của Luật này”. Quá trình giải quyết vụ án bđơn
CÔNG TY T cho rằng cần xác định thời điểm quyền lợi ích hợp pháp của
CÔNG TY D bị xâm phạm là ngày 27/12/2017 tức ngày CÔNG TY D thanh
toán chi phí thẩm định cho VTA, đến thời điểm CÔNG TY D khởi kiện thì đã q
2 năm nên thời hiệu đã hết. Nguyên đơn CÔNG TY D cho rằng sau khi kết quả
thẩm định giá của VTA thì ngày 09/02/2021 CÔNG TY D đã Văn bản số
193/2021/CV-CÔNG TY D về việc giải quyết tồn đọng về quyết toán, trong đó
tại mục 5 đã yêu cầu nhà thầu thanh toán chi phí thẩm định thiết bị có thay đổi so
với hợp đồng, thời gian không muộn hơn ngày 26/02/2021 nên xác định thời điểm
tính thời hiệu là từ sau ngày 26/02/2021.
6
Căn cứ vào lời khai của các đương sự và tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án
thấy rằng, thời điểm quyền lợi ích hợp pháp của CÔNG TY D bị xâm phạm
liên quan đến khoản tiền chi phí thẩm định giá ngày 27/12/2017 tức ngày
CÔNG TY D thanh toán chi phí thẩm định giá cho VTA là phù hợp. Bởi lẽ, trong
quá trình thực hiện hợp đồng ktừ khi phát sinh việc có sự thay đổi về thông số
kỹ thuật, số lượng, xuất xứ ca các thiết bị so với hợp đồng thì giữa CÔNG TY D
với các nhà thầu trong đó CÔNG TY T đã nhiều lần họp, thỏa thuận để giải
quyết trong đó thỏa thuận vviệc thực hiện thẩm định giá đối với thiết bị
sự thay đổi (Biên bản họp 3 bên ngày 26.4.2017 giữa CÔNG TY D; CÔNG TY T
SG). Sau khi sự đồng thuận, CÔNG TY D đã Hợp đồng thẩm định giá
với đơn vị thẩm định giá SG, đồng thời đưa ra yêu cầu thanh toán đối với CÔNG
TY T kể từ ngày SG báo giá chi phí thẩm định giá. Sau khi chấm dứt hợp đồng
thẩm định giá với SG, CÔNG TY D tiếp tục ký hợp đồng với VTA và đã trả tiền
thẩm định cho VTA, thì CÔNG TY D phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình
bị xâm phạm để yêu cầu các nhà thầu thanh toán chi phí thẩm định giá. Tuy
nhiên, ngày 27/12/2017 CÔNG TY D đã thanh toán chi phí thẩm định giá cho
VTA, nhưng đến ngày 09/02/2021 mới văn bản yêu cầu CÔNG TY T thanh
toán không phù hợp. Như vậy, xác định thời điểm CÔNG TY D biết phải
biết quyền lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm liên quan đến việc thanh toán
chi phí thẩm định giá cho VTA là ngày 27/12/2017 đến ngày 09/02/2021 CÔNG
TY D mới văn bản yêu cầu CÔNG TY T thanh toán khoản phí thẩm định thì
đã hết thời hạn 02 năm theo quy định tại Điều 319 Luật Thương mại. Bản án
thẩm nhận định yêu cầu khởi kiện của CÔNG TY D vẫn còn thời hiệu khởi kiện
là không phù hợp với quy định của pháp luật.
[2.2] Về yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án buộc NG TY T thanh toán, chi
trả tiền thẩm định:
Trong Đơn kháng cáo bản trình bày ý kiến tại cấp phúc thẩm, bị đơn
CÔNG TY T cho rằng Hợp đồng xây dựng số 26.12.2011/HD-CÔNG TY D ngày
26/12/2011 không bất kỳ điều khoản nào quy định CÔNG TY T nghĩa vụ
phải thanh toán cho CÔNG TY D chi phí thẩm định giá liên quan đến thay đổi
thiết bị. Quá trình giải quyết vụ án CÔNG TY D không cung cấp được tài liệu,
chứng cứ chứng minh CÔNG TY T đồng ý chọn VTA đơn vị thẩm định
đồng ý chi trả tiền thẩm định cho VTA như CÔNG TY T đã từng thỏa thuận với
CÔNG TY D về việc lựa chọn Công ty cổ phần Giám định thẩm định Sài Gòn
(SG). Ngoài ra, việc CÔNG TY T nhất trí thanh toán chi phí thẩm định của SG
sự tự nguyện thiện chí của CÔNG TY T trong việc hợp tác với Chủ đầu
nhằm đánh gảnh hưởng của các thiết bị đến mục tiêu chất lượng mục đích
sử dụng ban đầu của Dự án chkhông phải nghĩa vụ của CÔNG TY T được ràng
buộc theo Hợp đồng.
Xét thấy: Hợp đồng xây dựng số 26.12.2011/HD-CÔNG TY D ngày
26/12/2011 giữa Chủ đầu tư CÔNG TY D với 5 nhà thầu trong đó có CÔNG TY
T mặc dù không thỏa thuận cụ thể về việc CÔNG TY T phải nghĩa vụ thanh
toán cho CÔNG TY D chi phí thẩm định gliên quan đến thay đổi thiết bị, tuy
7
nhiên tại mục 11.2 Điều 11 Hợp đồng quy định vtrách nhiệm đối với các sai sót
như sau:
“Tất cả công việc được nêu trong phần (b) của khoản 11.1 [hoàn thành công
việc dở dang và sửa chữa sai sót] sẽ được tiến hành Nhà thầu phải chịu rủi ro
và các chi phí, nếu và ở mức độ công việc được quy cho là:
a.........
b. Thiết bị, các vật liệu hoặc tay nghề không phù hợp với Hợp đồng”.
Theo đó, trường hợp thiết bị, các vật liệu hoặc tay nghề không phù hợp với
Hợp đồng thì Nhà thầu phải chịu rủi ro và các chi phí liên quan.
Sau khi sự thay đổi thông số kỹ thuật, số lượng, xuất xứ của thiết bso
với hợp đồng thì CÔNG TY D các nhà thầu đã nhiều lần tổ chức họp để xem
xét phương án giải quyết. Tại Biên bản họp ngày 31/3/2017 ngày 20/4/2017
các bên thống nhất về việc Chủ đầu (CÔNG TY D) thực hiện thẩm định giá
của các thiết bị có thay đổi thông số kỹ thuật và xuất xứ. Ngày 26.4.2017 CÔNG
TY D cùng với CÔNG TY T và công ty thẩm định SG thỏa thuận nhất trí để SG
thực hiện công việc thẩm định, phí thẩm định CÔNG TY T nhất tmức giá
250.000.000 đồng. Về việc cung cấp hồ sơ thẩm định giá, ngày 10 và 11.5.2017,
CÔNG TY D cùng với CÔNG TY T thống nhất cung cấp hợp đồng che giá
CÔNG TY T đã thực hiện đúng thỏa thuận, đến ngày 29.6.2017, CÔNG TY D đã
có văn bản phản hồi với đơn vị thẩm định SG về việc tài liệu đã được cung cấp
đủ theo thỏa thuận giữa CÔNG TY D với SG, nvậy việc không tiến hành thẩm
định được do lỗi của NG TY D với SG không phải do lỗi ca NG TY T,
tuy nhiên phần chi phí thẩm định này đã được CÔNG TY T chi trả. Như vy
thể thấy rằng trong quá trình SG thực hiện thẩm định giá thì các bên đều có biên
bản họp trong đó nội dung thống nhất liên quan đến việc cung cấp hồ cho
công tác thẩm định, phí dịch vụ thẩm định, nội dung biên bản họp ghi cụ thể đơn
vị thẩm định giá là SG. Tuy nhiên, sau khi CÔNG TY D chấm dứt hợp đồng với
SG không phải do lỗi CÔNG TY T tự ý ký hợp đồng thẩm định với VTA
không có ý kiến gì với các nhà thầu là thiếu sót.
Từ những phân tích trên thấy rằng, mặc dù việc thực hiện thẩm định giá các
thiết bị thay đổi so với Hợp đồng phát sinh từ lỗi của CÔNG TY T khi thay đổi
các thiết bị so với hợp đồng nên chi phí thẩm định giá được xác định chi phí
liên quan, CÔNG TY T phải chịu khoản chi pnày phù hợp với thỏa thuận
hợp đồng. Thực tế, CÔNG TY T cũng đã nhất trí và đã thanh toán chi phí thẩm
định cho SG, nhưng khi CÔNG TY D chấm dứt hợp đồng với SG ký hợp đồng
với VTA đã không thông báo, thỏa thuận với các nhà thầu trong đó có CÔNG TY
T. Việc không thẩm định được giá là do lỗi của CÔNG TY D, nên CÔNG TY D
khởi kiện yêu cầu CÔNG TY T có trách nhiệm phải trả chi phí thẩm định giá lần
2 là không có căn cứ chấp nhận.
[3] Trên cơ sở những nhận định phần trên, thấy rằng kháng cáo của Bị đơn
Công ty TNHH TTCL Việt Nam về thời hiệu khởi kiện căn cứ chấp nhận.
Ngoài ra, trường hợp thời hiệu khởi kiện vẫn còn thì yêu cầu khởi kiện của CÔNG
8
TY D cũng không căn cứ chấp nhận. vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét
thấy cần sửa Bản án thẩm của Tòa án nhân dân huyện B theo hướng không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện.
[4] Về án phí:
Về án phí thẩm: Do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận nên Nguyên
đơn Công ty D phải chịu tiền án phí kinh doanh thương mại thẩm theo quy định
của pháp luật.
Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận, nên người kháng cáo
không phải chịu tiền án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm theo quy định của
pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309, Điều 147, Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân
sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Căn cứ Điều 278 Bộ luật Dân sự; Điều 306, Điều 319 Luật Thương mại; Điều
113, Điều 138 Luật Xây dựng.
1. Chấp nhận kháng cáo của Bị đơn Công ty T. Sửa Bản án kinh doanh thương
mại thẩm số 03/2024/KDTM-ST ngày 20/3/2024 của Tòa án nhân dân huyện
B, tỉnh Lào Cai như sau:
Xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty D về việc: Buộc Công
ty T phải hoàn trả cho Công ty D số tiền chi phí thẩm định giá 97.512.800 đồng
và tiền lãi do chậm thanh toán đến ngày xét xử là 29.841.588 đồng. Tổng cộng là
127.354.388 đồng.
2. Về án phí:
Về án phí thẩm: ng ty D phải chịu 6.367.700 đồng (Sáu triệu, ba trăm sáu
ơi bảy ngn, bảy tm đng) tiền án phí kinh doanh tơng mại sơ thẩm. Được
khấu trvào số tiền tạm ứng án phí thẩm đã nộp 3.046.900 đồng (Ba triệu,
không trăm bốn ơi u nghìn, chín trăm đồng). ng ty D n phải nộp
3.320.800đồng (Ba triệu, ba trăm hai mươi ngn, tám trăm đồng) tiền án phí sơ
thẩm.
Về án phí phúc thẩm: Công ty T không phải chịu tiền án phí kinh doanh
thương mại phúc thẩm. Trả lại cho Công ty T số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm
đã nộp 2.000.000đồng (Hai triệu đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí
hiệu BLTU/23P, số 0000873 ngày 25/4/2024 của Chi cục Thi hành án dân s
huyện B, tỉnh Lào Cai.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
“Tờng hợp bản án được thi hành theo quy định điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người
9
phải thi hành án dân sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành
án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các
điều 6,7,7 a, 9 Luật thi hành án Dân sự. Thời hiệu thi hành án được quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án Dân sự”.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lào Cai (2);
- TAND huyện B;
- Chi cục THADS huyện B;
- Các đương sự;
- Lưu VT, HSVA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đặng Phi Long
10
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
CÁC THẨM PHÁN
Trương Quyết Thng Trần Thị Khánh Vân
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đặng Phi Long
Tải về
Bản án số 03/2024/DS-PT Bản án số 03/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 03/2024/DS-PT Bản án số 03/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất