Bản án số 69/2024/DS-PT ngày 13/01/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 69/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 69/2024/DS-PT ngày 13/01/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Đà Nẵng
Số hiệu: 69/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 13/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà Nguyễn Thị Bích C kiện đòi tiền đối với bà Bà Hoàng Thúy B
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Bản án số: 69/2024/DS -PT
Ngày 25 tháng 3 năm 2024
V/v Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Hữu Thị Hảo Hảo
Các Thẩm phán: Ông Trần Đình Quảng
Ông Trần Hoài Sơn
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Mỹ Ngân - Thư ký Tòa án nhân dân thành
phố Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Văn Hưng – Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
xét xử phúc thẩm công khai
vụ án thụ số: 142/2023/TLPT-DS ngày 20 tháng 10
năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Do Bản án thẩm số 95/2023/DS-ST ngày 07 tháng 9 năm 2023 của Tòa án
nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 15/2024/QĐ-PT ngày 19
tháng 01 năm 2024 Quyết định hoãn phiên toà phúc thẩm số 92/2024/QĐ-PT
ngày 04 tháng 3 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị Bích C, sinh năm 1974; Địa chỉ: Số E đường
L, phường P, quận H, TP Đà Nẵng (bà C có mặt tại phiên toà).
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật Trịnh Anh
H, sinh năm 1973, thẻ luật số 6137/LS thuộc Đoàn luật tỉnh Q, thuộc Công ty
L - Chi nhánh Đ1. Địa chỉ: Số G đường B, quận N, thành phố Đà Nẵng (LS H
mặt tại phiên toà).
2. Bị đơn: Hoàng Thúy B, sinh năm 1963; Địa chỉ: Số F đường P, phường
H, quận H, thành phố Đà Nẵng (vắng mặt).
Người đại diện bị đơn tham gia tố tụng là: Nguyễn Thị Thu H1, sinh năm
1965, địa chỉ F đường L, phường H, quận H thành phố Đà Nẵng và Hoàng Thị
D, sinh năm1988, ttại: Số A đường B, phường K, quận C, thành phố Đà Nẵng
2
tham gia tố tụng theo Giấy uỷ quyền của Hoàng Thúy B được công chứng ngày
29/01/2024 (bà H1 và bà D có mặt tại phiên toà).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Nguyễn Trung H2, sinh năm 1983; địa chỉ: Số A đường N, tổ D
phường T, quận S, thành phố Đà Nẵng (vắng mặt)
+ Bà Huỳnh Thị Thanh H3, sinh năm 1977; địa chỉ: E đường H, thành phố Đà
Nẵng. (vắng mặt)
Người đại diện Huỳnh Thị Thanh H3 tham gia tố tụng là: Trịnh Thị
Thanh H4, sinh năm 1992; địa chỉ: 8 đường T, phường H, quận C, thành phố Đà
Nẵng theo Giấy ủy quyền được công chứng ngày 17/7/2023 (bà H4 vắng mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Huỳnh Thị Thanh H3 là: Luật
Hoàng Văn Đ, sinh năm 1994, thẻ luật số 1500/LS thuộc Đoàn Luật thành
phố Đ, thuộc Công ty L1. Địa chỉ: số H đường N, phường H, quận H, TP Đà Nẵng
(LS Đoàn có mặt tại phiên toà).
4. Người kháng cáo: - Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Bích C.
- Bị đơn: Bà Hoàng Thúy B.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Bản án sơ thẩm nội dung vụ án như sau:
* Tại đơn khởi kiện nộp ngày 18/7/2022 trong quá trình tố tụng nguyên đơn
Nguyễn Thị Bích C người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn
thống nhất trình bày:
Nguyễn Thị Bích C quen biết thân tình với Hoàng Thúy B từ lâu, C đã
cho bà B vay mượn tiền nhiều lần để B buôn bán làm ăn. Ngày 18/6/2021, B
lại đến nhà C đvay mượn, lần này B nhờ C mượn giúp tiền mục đích
mua đất đường 02 tháng 9; B mang theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất tài sản gắn liền với đất căn nhà số C đường H, thành phố Đà Nẵng nhằm
thế chấp cho khoản vay. chỗ thân quen lại tài sản thể chấp, nên C đã đi
vay ợn một số người để cho B vay stiền 20.000.000.000 đồng viết Giấy
thế chấp căn nhà số C đường H, thành phố Đà Nẵng để đảm bảo khoản vay. Thời
hạn vay tiền B hứa bằng miệng trong tin nhắn sau 07 ngày chuyển trả cho
C mượn lại rồi lại cứ như vậy bà B đang nợ C số tiền 20.000.000.000 đồng
chưa trả hết.
Đến ngày 20/7/2021, bà B vay bà C thêm 20.000.000.000 đồng và viết giấy nhận nợ
thời gian trả cũng 07 ngày và mượn lại lặp lại vòng quay 07 ngày trả.
Ngày 14/10/2021, B cầm 02 hợp đồng C H, thế chấp vay mượn thêm
4.000.000.000 đồng.
3
Tổng cộng số tiền nợ gốc B đã vay C 44.000.000.000 đồng. B đã trả
trước cho bà C 700.000.000 đồng, còn lại số tiền nợ gốc là 43.300.000.000 đồng.
B đã nhiều lần cam kết, xin gia hạn sẽ trả lại tiền gốc lãi cho bà C đang đợi
bên đối tác đặt cọc lô đất tại đường B tháng I, quận H, thành phố Đà Nẵng.
Ngày 25/10/2021, bà B đến nhà C xin mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
tài sản gắn liền với đất của căn nhà số C đường H, thành phố Đà Nẵng, nhằm
mục đích thế chấp Ngân hàng vay số tiền 15.000.000.000 đồng trả nợ cho bà C. Tuy
nhiên, sau khi Ngân hàng giải ngân, ngày 30/10/2021 thì B chỉ trả cho bà C
11.000.000.000đồng, sau đó mượn lại 11.000.000.000 đồng với mục đích đóng
thuế cho đất đường đường 02 tháng 9 để bán cũng cam kết bán sẽ trả hết nợ
gốc và lãi cho bà C. Một thời gian ngắn, bà C nghe thông tin bà B đã bán căn nhà C
H, với giá 58.000.000.000 đồng nhưng B không trả tiền cho C như đã cam
kết, đã lạm dụng stín nhiệm của C đchiếm đoạt số tiền C cho vay ợn.
Vào khoảng tháng 12/2021 bà B đã giao dịch bán lô đất đường 02 tháng 9 nhưng cố
tình không trả tiền vay và tiền lãi cho bà C.
Ngày 18/7/2022, C làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Hoàng Thúy B
phải trả cho C số tiền nợ gốc 43.300.000.000 đồng tiền lãi tạm tính từ ngày
18/02/2022 đến ngày 18/7/2022 với lãi suất 7,5% năm với số tiền 16.237.500.000
đồng. Tổng số tiền trả gốc lãi tạm tính 59.537.500.000 đồng và lãi phát sinh
cho đến khi thi hành án xong.
Trong quá trình ttụng tại Toà án, C rút một phần yêu cầu khởi kiện với stiền
20.000.000.000 đồng đế gửi đơn tố cáo quan Cảnh sát điều tra Công an quận H
và chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Hoàng Thúy B phải trả cho bà C
29.990.000.000 đồng, trong đó nợ gốc 23.300.000.000 đồng và tiền lãi tạm tính
từ ngày 18/02/2022 đến ngày 18/7/2022 với lãi suất 7,5% năm là 6.690.000.000
đồng. Trong trường hợp không dấu hiệu hình sự C sẽ tiếp tục tiến hành giải
quyết theo quy định của pháp luật.
Nay, bà Nguyễn Thị Bích C yêu cầu Tòa án buộc Hoàng Thúy B phải trả số tiền
tổng cộng là 30.538.958.904 đồng, trong đó nợ gốc 23.300.000.000 đồng, tiền lãi từ
ngày 18/02/2022 đến ngày 07/9/2023 567 ngày, với mức lãi suất 20%/năm là
7.238.958.904 đồng và lãi phát sinh cho đến khi thi hành án xong.
* Đại diện bị đơn trình bày trong quá trình tố tụng như sau:
- Đối với giao dịch giữa cá nhân bà Hoàng Thúy B Nguyễn Thị Bích C
thể hiện tại Giấy mượn tiền đề ngày 18/6/2021: Năm 2021, giữa B và C
giao dịch vay mượn tiền. Cụ thể, B mượn của C số tiền 20.000.000.000
đồng thể hiện tại Giấy mượn tiền viết ngày 18/6/2021 và Giấy thế chấp viết ngày
20/07/2021. Tuy nhiên, đây giao dịch độc lập giữa nhân B C, sau đó
4
B đã thực hiện xong nghĩa vụ trả toàn bộ số tiền này cho bà C, cụ thể trả dần
nhiều lần từ ngày 21/7/2021 đến ngày 05/8/2021.
- Đối với giấy nợ 2.000.000.000 đồng ngày 14/10/2021, B đã thực hiện
xong nghĩa vụ trả toàn bộ số tiền này vào ngày 27/10/2021 với C. Giữa B
bà C có tin nhắn xác nhận đã trả xong khoản nợ này.
- Đối với giấy nợ 2.000.000.000 đồng ngày 15/10/2021, bà B đã thực hin
xong nghĩa vụ trả toàn bộ số tiền này vào ngày 27/10/2021. B đã trả tiền thông
qua tài khoản Ngân hàng V và bà C đã xác nhận qua tin nhắn.
Từ sự việc nêu trên, bị đơn nhận thấy việc Nguyễn Thị Bích C khởi kiện
yêu cầu Hoàng Thúy B phải trả số tiền nợ là 23.300.000.000 đồng và tiền lãi tạm
tính từ ngày 18/02/2022 đến ngày 07/9/2023 7.238.958.904 đồng không
sở. Bởi lẽ, giao dịch vay mượn tiền giữa nhân bà B C theo các Giấy mượn
tiền nêu trên thì bà B đã thực hiện xong nghĩa vụ trả tiền cho C. Do vậy, không
căn cứ để xác định và buộc B phải trả cho bà C số tiền gốc và tiền lãi theo nội
dung yêu cầu khởi kiện. Do vậy, đề nghị Tòa án xem xét bác yêu cầu của bà C.
Đối với số tiền 43.588.000.000 đồng C cho rằng B vay C
cung cấp cho Tòa án vi bằng số 88/2023/VB-TPLĐN lập ngày 07/7/2023 tại Văn
phòng T, đại diện theo ủy quyền của bị đơn cho rằng B chỉ đứng ra làm trung
gian cho việc vay tiền giữa bà Huỳnh Thị Thanh H3 và bà C. Bà H3 đã lập Bản cam
kết trách nhiệm trả nợ khoản vay, khẳng định H3 người trực tiếp vay tiền của
C, bà B chỉ người chứng kiến việc vay tiền này, do vậy B không liên
quan và không có trách nhiệm gì đối với số nợ trên. Đối với số tiền bà B chuyển cho
bà C sau ngày 27/10/2021 là bà B trả nợ hộ cho H3.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Trung H2 vắng mặt
tại phiên toà, nhưng tại bản tự khai ngày 07/7/2023 ông H2 đã trình bày:
Năm 2021, do chỗ quen biết với nhau nên trước đây C liên hệ với ông
H2 cho biết có một người bạn là bà Hoàng Thúy B có nhu cầu vay tiền. Do cả nể bà
C C đứng ra cam đoan schịu trách nhiệm nên ông H2 cho B vay tiền
hai đợt, vay trong ngắn hạn, cụ thể mỗi đợt 2.000.000.000 đồng, lãi suất
0,2%/ngày. Nội dung tiền lãi không được thể hiện trong giấy nhận nợ nhưng các
bên có cam kết miệng với nhau. Bà B có viết cho ông H2 02 giấy nhận nợ vào ngày
14/10/2021 và 15/10/2021. Trong nội dung hai giấy nhận nợ, bà B có khẳng định nợ
ông H2 tổng số tiền 4.000.000.000 đồng, thời hạn trả nợ 20 ngày kể từ ngày cho
vay. Nếu quá thời hạn trên B sẽ bàn giao cho ông H2 một căn nphố thuộc dự
án C H bà B đã mua để cấn trừ nợ. Đối với số tiền trên, ông H2 không giao nhận
trực tiếp với bà B mà giao cho bà C đưa cho bà B, giữa ông H2 C lập biên
bản giao nhận tiền với nhau. Sau đó, đến thời hạn trả nợ B không thanh toán cho
ông H2. Ông H2 liên hệ đòi nhưng B không trả. C người trung gian
5
nói cam kết sẽ lấy tiền nợ về cho ông H2. Do là người bảo lãnh nên ông H2 yêu cầu
C đứng ra lấy cho ông H2 khoản tiền nợ này về nhưng đến nay C không thực
hiện được. Theo ông H2 được biết khoản tiền vay của ông H2 B đã đứng ra xác
nhận với C, C trách nhiệm thay ông H2 đòi B. vậy, nay đối với yêu
cầu khởi kiện của C, ông H2 đề nghị quý tòa giải quyết theo quy định của pháp
luật buộc bà B phải thanh toán đủ gốc và lãi số tiền nêu trên cho bà C để bà C thanh
toán cho ông H2.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Huỳnh Thị Thanh H3 thông
qua người đại diện trình bày như sau:
Đối với ý kiến của đại diện theo ủy quyền bị đơn cho rằng sau ngày
18/6/2021, B đứng ra bảo lãnh cho H3 vay tiền của bà C. Số tiền C
chuyển cho B nhiều lần tổng cộng 43.300.000.000 đồng thì B đã chuyển cho
H3 không sở. Tại Vi bằng số 88/2023/VB-TPLĐN lập ngày 07/7/2023
tại Văn phòng T. Các chứng cứ trên thể hiện tổng số tiền bà B và bà H3 còn nợ bà C
là 76.821.000.000 đồng, trong đó B nợ 43.588.000.000 đồng (bao gồm cả số tiền
nợ 24.000.000.000 đồng nêu trên), bà H3 nợ 33.233.000.000 đồng, đã trả được
821.000.000 đồng đúng. không liên quan đến số nợ 43.300.000.000 đồng của
B đối với C nên đề nghị Hội đồng xét xử không đưa H3 tham gia tố tụng
với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Với nội dung vụ án như trên, Bản án dân sự thẩm số 95/2023/DS-ST ngày
07 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã
xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị Bích C về việc
“Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” đối với bà Hoàng Thúy B.
1. Xử:
- Buộc bà Hoàng Thúy B phải trả cho bà Nguyễn Thị Bích C số tiền 26.919.479.452
đồng, trong đó nợ gốc 23.300.000.000 đồng, tiền lãi từ ngày 18/02/2022 đến ngày
07/9/2023 là 3.619.479.452 đồng.
Kể từ ngày 08/9/2023 cho đến khi thi hành án xong, Hoàng Thúy B còn phải
chịu khoản tiền lãi trên số nợ gốc theo mức lãi suất 10%/năm.
- Không chấp nhận ½ số tiền lãi 7.238.958.904 đồng 3.619.479.452 đồng
Nguyễn Thị Bích C yêu cầu Tòa án buộc bà Hoàng Thúy B trả lãi.
2. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Án phí dân sự thẩm 134.919.479,452 đồng Hoàng Thúy B phải
chịu.
- Án phí dân sự sơ thẩm là 104.389.589 đồng bà Nguyễn Thị Bích C phải chịu,
nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 83.768.750 đồng Nguyễn Thịch C
đã nộp theo biên lai thu số 6042 ngày 25/7/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự
6
quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, C còn phải nộp tiếp số tiền 20.620.839
đồng.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên vnghĩa vụ thi hành án quyền kháng cáo của
đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 15/9/2023, Tòa án nhận được đơn kháng cáo của
nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bích C đề ngày 11/9/2023 với nội dung: Kháng cáo một
phần Bản án sơ thẩm liên quan đến lãi suất đề nghị Toà án cấp phúc thẩm tính lãi từ
ngày 18/02/2022 theo mức lãi suất 20%/năm được quy định tại khoản 1 Điều 468
của Bộ luật dân sự để đảm bảo quyền lợi cho nguyên đơn.
Cùng ngày 15/9/2023, Tòa án cũng nhận đơn kháng cáo của bị đơn bà Hoàng
Thúy B đề ngày 15/9/2023 với nội dung: Kháng cáo toàn bộ Bản án thẩm, đề
nghị Toà án cấp phúc thẩm sửa Bản án thẩm, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn cho rằng Toà án cấp thẩm không xem xét toàn diện các chứng cứ
trong hồ sơ, chưa đánh giá kỹ lưỡng không sự phân tách từng văn bản
nguyên đơn sử dụng làm căn cứ khởi kiện dẫn đến ban hành Bản án không đảm bảo
quyền lợi cho bị đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn Nguyễn Thị Bích C giữ nguyên yêu
cầu khởi kiện, đồng thời rút toàn bộ nội dung kháng cáo; bị đơn Hoàng Thúy B
giữ nguyên nội dung kháng cáo, các bên không thoả thuận được hướng giải quyết
vụ án.
* Với nội dung vụ án ntrên diễn biến tại phiên toà, Đại diện Viện kiểm
sát thành phố Đà Nẵng phát biểu về việc chấp hành pháp luật và nội dung giải quyết
vụ án như sau:
+ Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng
xét xử những người tham gia tố tụng đều chấp hành đúng, tuân theo pháp luật tố
tụng dân sự.
+ Về phần nội dung giải quyết vụ án: Đối với việc nguyên đơn rút đơn kháng cáo tại
phiên toà, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng
cáo của nguyên đơn. Đối với kháng cáo của bị đơn Hoàng Thúy B không căn
cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của bị đơn giữ nguyên bản án dân s
sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét thẩm tra tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
7
[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi xét xử thẩm, nguyên đơn bị đơn đều
kháng cáo trong thời hạn luật định nên được xem xét theo trình tphúc thẩm. Quá
trình tố tụng tại giai đoạn phúc thẩm, Toà án đã triệu tập hợp lệ các đương sự tham
gia phiên toà nhưng đến ngày xét xử ông Nguyễn Trung H2 vẫn vắng mặt lần thứ
hai không do, các đương sự mặt đồng ý xét xử vắng mặt ông H2, đại diện
Viện kiểm sát ý kiến đề nghị Toà án vẫn tiến hành xét xử theo quy định. Do đó,
Hội đồng xét xvẫn tiến hành xét xử theo trình tự, thủ tục chung được quy định
trong Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt ông H2.
[2] Tại phiên toà phúc thẩm, nguyên đơn Nguyễn Thị Bích C t toàn bộ
nội dung kháng cáo. Xét thấy, việc rút kháng cáo của nguyên đơn hoàn toàn tự
nguyện nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 284 của Bộ luật Tố tụng dân sự
đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo của bà Nguyễn Thị Bích C.
[3] Xét kháng cáo của bị đơn thì thấy:
[3.1] Các đương sự đều thừa nhận, Nguyễn Thị Bích C Hoàng Thúy
B mối quan hệ làm ăn vay mượn tiền từ năm 2019, C đã nhiều lần cho B
vay mượn tiền để kinh doanh, B vay sau đó trả vay lại cứ nhiều lần n
thế. Do các bên chỗ làm ăn từ trước, nên mặc số tiền vay mượn lớn nhưng do
tin tưởng nên thực hiện giao dịch vay mượn đơn giản, nếu số tiền vay mượn mới
bằng số tiền vay thì vẫn sử dụng giấy nợ cũ. Các bên xác nhận việc vay mượn
trên giấy, hoặc chỉ xác nhận qua cuộc điện thoại hay tin nhắn và mặc dù trong tất cả
khoản vay đều không thể hiện vay lãi nhưng thực tế các bên đều thừa nhận
thoả thuận ngầm với nhau về việc trả lãi.
[3.2] Bà Hoàng Thúy B cho rằng số tiền vay của bà C tổng cộng là 24 tỷ theo
các Giấy mượn tiền ngày 18/6/2021, ngày 14/10/2021 và ngày 15/10/2021 bà đã trả
dứt điểm các khoản nợ này cho C từ tháng 10/2021 thông qua tài khoản tại Ngân
hàng TMCP C1 (V) Hội đồng xét xử xét thấy: Giữa B C liên tục nhiều
giao dịch vay mượn ngắn ngày, vay rồi trả sau đó vay lại. Tuy nhiên, theo bản sao
tại Ngân hàng thể hiện, các bên chuyển tiền cho nhau nhưng không thể hiện
nội dung giao dịch nên không xác định B chuyển trả cho C cho khoản nợ vay
nào, do vay mượn trả lãi nên không xác định được khoản tiền trả vào nợ gốc
hay trả vào nợ lãi và trả cho giao dịch vay nào nên việc B cho rằng đã trả cho bà
C thông qua tài khoản Ngân hàng là chưa đủ căn cứ.
[3.3] Trong khi đó, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan của bên bị đơn
Huỳnh Thị Thanh H3 thông qua người đại diện ng đã trình bày tại phiên toà
xác nhận Hoàng Thúy B còn nợ C stiền 43.588.000.000 đồng (bao gồm cả
số tiền 24.000.000.000 đồng C khởi kiện bà B). Điều này, cũng phù hợp với
chứng cứ trong hồ vụ án Giấy mượn tiền không ngày tháng năm nhưng
được Hoàng Thúy B và bà Huỳnh Thị Thanh H3 cùng trong đó hai khoản
8
là: 33.233.000.000 đồng và khoản 43.588.000.000đồng, theo nguyên đơn bà C
trình bày thì khoản 33.233.000.000 đồng của H3 nợ khoản 43.588.000.000
đồng là của bà B nợ.
[3.4] Ngoài ra, các tin nhắn qua lại giữa C và bà B được lập thành Vi bằng
số 88/2023/VB-TPLĐN ngày 07/7/2023 tại Văn phòng T đã thể hiện: Tin nhắn
ngày 28/01/2022, Hoàng Thúy B nhắn nội dung xác nhận còn nợ Nguyễn Thị
Bích C số tiền 43t 588 triệu đồng. Như vậy, nếu thực tế B đã trả cho bà C số nợ
vào tháng 10/2021 thì tại sao ngày 28/01/2022 lại xác nhận còn nợ C số tiền
43.588.000.000 đồng.
[3.5] Do đó, sở xác định việc Nguyễn Thị Bích C cho Hoàng
Thúy B vay số tiền 43.588.000.000 đồng là có thật, nayC khởi kiện bà B yêu cầu
trả số tiền nợ gốc 23.300.000.000 đồng, xét thấy đây quyền tự định đoạt của
đương sự, quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Toà án giải quyết của nguyên
đơn xét thấy căn cứ nên Toà án cấp thẩm chấp nhận phù hợp nên kháng
cáo của bị đơn Hoàng Thúy B là không có sở, Hội đồng xét xử không chấp
nhận.
[4] Về nghĩa vụ trả lãi trong giai đoạn thi hành án các bên không kháng cáo.
Tuy nhiên, bản án thẩm tuyên nghĩa vụ trả lãi ngày tiếp theo của ngày xét xử
thẩm “Kể từ ngày 08/9/2023… bà Hoàng Thúy B phải chịu lãi trên số nợ gốc…”
là không đúng với Nghị quyết hướng dẫn về cách tuyên phần lãi phát sinh trong giai
đoạn thi hành án mà phải tuyên “Ktừ ngày Bản án hiệu lực pháp luật, người
được thi hành án đơn yêu cầu thi hành án…” mới đúng nên mặc các bên
không kháng cáo nhưng đđảm bảo đúng pháp luật Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ
sửa án sơ thẩm về phần này.
[5] Về án phí:
[5.1] Án phí dân sự sơ thẩm:
- Giữ nguyên phần án phí dân sự sơ thẩm đối với bà Nguyễn Thị Bích C.
- Sửa phần án phí dân sự thẩm đối với Hoàng Thúy B, do B sinh
năm 1963 đến thời điểm xét xử thẩm B đã 60 tuổi thuộc trường hợp miễn án
phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
“Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí, lệ phí Tòa
án”. Tuy nhiên, tại giai đoạn phúc thẩm, B mới nộp hồ sơ đề nghị miễn án phí
nên Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét miễn án phí cho bà.
[5.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn rút kháng cáo nên được hoàn trả
lại số tiền án phí phúc thẩm đã nộp là 300.000 đồng. Bị đơn bà Hoàng Thúy B được
miễn án phí phúc thẩm do thuộc trường hợp người cao tuổi, nên bà B được hoàn trả
lại tiền án phí phúc thẩm đã nộp.
9
[6] Xét thấy lời đề nghị của Kiểm sát viên về quan điểm giải quyết ván phù
hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng:
Khoản 3 Điều 284, khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 463, 466 và 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí, lệ phí Tòa án.
I. Đình chỉ xét xphúc thẩm đối với phần kháng cáo của nguyên đơn
Nguyễn Thị Bích C.
II. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Hoàng Thúy B.
III. Sửa Bản án thẩm số: 95/2023/DS-ST ngày 07 tháng 9 năm 2023 của
Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
Tuyên xử:
1. Buộc Hoàng Thúy B phải trả cho Nguyễn Thị Bích C số tiền
26.919.479.452 đồng, trong đó:
+ Nợ gốc tiền vay là: 23.300.000.000 đồng
+ Nợ tiền lãi là: 3.619.479.452 đồng.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân s
năm 2015.
2. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Nguyễn Thị Bích C phải chịu án phí trên số tiền không được chấp nhận,
số tiền án phí dân sự thẩm bà C phải chịu là 104.389.589 đồng nhưng được khấu
trừ vào số tiền tạm ứng án phí 83.768.750 đồng Nguyễn Thị Bích C đã nộp theo
Biên lai thu số 6042 ngày 25/7/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu,
thành phố Đà Nẵng nên Nguyễn Thị Bích C còn phải nộp tiếp số tiền án phí dân
sự sơ thẩm là: 20.620.839 đồng.
- Bà Hoàng Thúy B được miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm.
IV. Án phí dân sự phúc thẩm:
- Hoàn trả cho Nguyễn Thị Bích C số tiền án phí dân sự phúc thẩm là
300.000đ theo Biên lai thu số 0001168 ngày 18/9/2023 của Chi cục Thi hành án dân
sự quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
10
- Hoàng Thúy B được miễn tiền án phí dân sự phúc thẩm, hoàn trả cho bà
B số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp là 300.000đ theo Biên lai thu số
0001171 ngày 19/9/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu, thành phố
Đà Nẵng.
V. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành
án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Các đương sự Thẩm phán- Chủ tọa phiên tòa
-VKSND TP Đà Nẵng
- TAND quận Hải Châu;
- Chi cục THADS quận Hải Châu;
- Lưu hồ sơ, VP.
Nguyễn Hữu Thị Hảo Hảo
Tải về
Bản án số 69/2024/DS-PT Bản án số 69/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 69/2024/DS-PT Bản án số 69/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất