Bản án số 65/2025/HNGĐ-PT ngày 24/09/2025 của TAND tỉnh Đồng Tháp về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 65/2025/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 65/2025/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 65/2025/HNGĐ-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 65/2025/HNGĐ-PT ngày 24/09/2025 của TAND tỉnh Đồng Tháp về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đồng Tháp |
| Số hiệu: | 65/2025/HNGĐ-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 24/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Vụ án xin ly hôn giữa NĐ |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TI
̉
NH ĐÔ
̀
NG THA
́
P
Bản án số: 65/2025/HNGĐ-PT
Ngày: 24-9-2025
“V/v tranh chấp về hôn nhân và
gia đình về ly hôn.”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Kiều Kim Xuân;
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Thúy Hằng;
Ông Nguyễn Chí Dững.
Thư ký phiên tòa: Bà Lâm Hồng Diễm - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Đồng
Tháp.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp tham gia phiên tòa: Bà
Huỳnh Thị Đạm - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 21 tháng 3 năm 2025, 19 tháng 6 năm 2025 và 24 tháng 9 năm
2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án
thụ lý số: 52/2024/TLPT-HNGĐ, ngày 20 tháng 12 năm 2024, về “Tranh chấp về
hôn nhân và gia đình về ly hôn”;
Do bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 54/2024/HNGĐ-ST ngày 27-9-2024
của Tòa án nhân dân huyện C (nay là Tòa án nhân dân khu vực 0), tỉnh Đồng Tháp
bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 04/2025/QĐ-PT ngày 21
tháng 01 năm 2025; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 06/2025/QĐ-PT ngày
21/02/2025; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 03/2025/QĐPT-HNGĐ ngày
21/3/2025; Thông báo thời gian mở lại phiên tòa xét xử phúc thẩm số 300/TB-TA
ngày 06/6/2025; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 06/2025/QĐPT-HNGĐ ngày
19/6/2025; Thông báo thời gian mở lại phiên tòa xét xử phúc thẩm số 454/TB-TA
ngày 12/9/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Cao Thành L, sinh năm 1991;
Địa chỉ: Số nhà 00, ấp An H, xã T, huyện C, Đồng Tháp.
(Nay là xã Tân P, tỉnh Đồng Tháp.)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn:
Bà Nguyễn Thị Kim L1 – Luật sư Văn phòng L4, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đ;
Địa chỉ: Số C, Tỉnh lộ 848, khóm T, phường A, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp.
(Nay là phường S, tỉnh Đồng Tháp).
2
2. Bị đơn: Chị Huỳnh Thị N, sinh năm 1990.
Địa chỉ: Số nhà D, ấp A, xã T, huyện C, Đồng Tháp.
(Nay là xã T, tỉnh Đồng Tháp.)
3. Người kháng cáo: Chị Huỳnh Thị N, là bị đơn.
(Nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích của nguyên đơn, bị đơn có mặt
tại phiên tòa.)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện xin ly hôn, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án
và tại phiên tòa, nguyên đơn anh Cao Thành L trình bày:
Anh Cao Thành L và chị Huỳnh Thị N chung sống với nhau vào năm 2011,
có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Đồng Tháp cấp
giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 54/2012 ngày 06 tháng 4 năm 2012. Anh L và
chị N chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn: Nguyên
nhân là do chị N không trung thực, có tính trộm cắp vặt tài sản của hàng xóm gần
nhà, anh L phải thường xuyên bồi thường tiền cho họ. Anh L có khuyên nhiều lần
nhưng chị N không thay đổi. Vì vậy, anh L và chị N đã sống ly thân từ tháng 5 năm
2023 cho đến nay. Nay anh L không còn tình cảm với chị N nên yêu cầu Toà án giải
quyết cho anh ly hôn chị Huỳnh Thị N.
Về con chung: Anh L và chị N chung sống với nhau có có 02 (hai) con chung
tên là Cao Ngọc Phương L2, sinh ngày 28/7/2012 và Cao Ngọc Kỳ D, sinh ngày
15/6/2020, hai con đang sinh sống cùng chị N. Anh L yêu cầu được nuôi hai con,
không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 16/11/2023, quá trình tố tụng, bị đơn chị Huỳnh Thị N trình
bày:
Chị N thống nhất lời trình bày của anh L về thời gian chung sống và đăng ký
kết hôn. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc, không có mâu thuẫn gì lớn.
Hiện nay Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C, tỉnh Đồng Tháp đang thụ lý
vụ trộm cắp tài sản mà chị là bị can còn anh Cao Thành L là đồng phạm. Vụ việc
đang trong giai đoạn điều tra chưa kết thúc. Anh L muốn trốn tránh trách nhiệm
hình sự trong vụ án trộm cắp tài sản của bà Trần Thị Bích N1 nên xin ly hôn chị. Vì
vậy, chị N không đồng ý ly hôn anh Cao Thành L.
Về con chung: Chị N thống nhất với anh L là vợ chồng có 02 con chung là
Cao Ngọc Phương L2, sinh ngày 28/7/2012 và Cao Ngọc Kỳ D, sinh ngày
15/6/2020. Hai con đang sống cùng chị N. Chị N không đồng ý giao con cho anh L
nuôi.
Tại phiên toà:
3
Anh Cao Thành L yêu cầu được ly hôn chị Huỳnh Thị N, đồng ý giao hai con
cho chị N nuôi dưỡng và tự nguyện cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp
luật.
Chị Huỳnh Thị N không đồng ý ly hôn anh L và yêu cầu được tiếp tục nuôi
con.
Tại bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 54/2024/HNGĐ-ST ngày 27-9-
2024, Tòa án nhân dân huyện C (nay là Tòa án nhân dân khu vực 0), tỉnh Đồng
Tháp, đã tuyên xử:
“ Chấp nhận yêu cầu của anh Cao Thành L.
- Về quan hệ hôn nhân: Anh Cao Thành L được ly hôn chị Huỳnh Thị N.
- Về nuôi con chung: Giao cháu Cao Ngọc Phương L2, sinh ngày 28/7/2012
và Cao Ngọc Kỳ D, sinh ngày 15/6/2020 cho chị Huỳnh Thị N trực tiếp nuôi dưỡng.
Ghi nhận sự tự nguyện của anh Cao Thành L cấp dưỡng nuôi 02 con chung
Cao Ngọc Phương L2 và Cao Ngọc Kỳ D mỗi con là ½ mức lương cơ sở/tháng.
Thời gian cấp dưỡng từ tháng 10 năm 2024 cho đến khi Phương L2 và Kỳ D đủ 18
tuổi.
Anh Cao Thành L được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung,
không ai được quyền cản trở anh L thực hiện quyền này.
- Về tài sản chung và nợ chung: Anh L và chị N không yêu cầu giải quyết
nên không xem xét.”
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo, thời hạn yêu cầu thi
hành án theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 02/10/2024, bị đơn chị Huỳnh Thị N kháng cáo
toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm: Không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của anh Cao Thành L.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị đơn, chị Huỳnh Thị N giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng
xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về ly hôn của anh Cao Thành L. Trước
khi xảy ra vụ việc bà N1 gửi đơn tố cáo vụ án Trộm cắp tài sản, vợ chồng không có
mâu thuẫn. Khi bà N1 gửi đơn tố cáo thì anh L và gia đình anh L sợ liên quan nên
yêu cầu ly hôn chị N. Chị N cho rằng, trong vụ án Trộm cắp tài sản của gia đình bà
N1, cha, mẹ anh L và anh L đều biết và có tham gia, có con gái của chị là cháu Cao
Ngọc Phương L2 làm chứng. Tòa án nhiều lần trả hồ sơ bổ sung làm rõ đồng phạm
nhưng chưa tìm ra chứng cứ. Chị N không đồng ý với kết luận điều tra và truy tố
của Viện Kiểm sát, chị N cảm thấy uất ức, không công bằng. Nay anh L kiên quyết
ly hôn, đẩy 03 mẹ con chị ra khỏi nhà. Chị không cam tâm. Chị N xác định, về tình
cảm với anh L đến nay thật sự không còn, nhưng chị N không muốn ly hôn trong
hoàn cảnh này. Lý do, anh L đưa ra để Tòa sơ thẩm xử ly hôn là chị không đồng ý.
Chị N muốn bảo vệ các con nên tạm thời chưa đồng ý ly hôn. Khi có kết quả xét xử
vụ án hình sự trộm cắp tài sản, chị sẽ tự nguyện ly hôn.
4
Anh L giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu ly hôn chị N, yêu cầu giữ
nguyên bản án sơ thẩm vì mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, vợ chồng đã ly
thân từ tháng 5/2023, hiện nay anh L đã đi Bình Dương làm việc. Cơ quan điều tra
xác định anh không có đồng phạm cùng chị N trộm cắp tài sản của bà N1. Cha mẹ
anh đã lớn tuổi, cần yên tĩnh, nhưng do chị N còn ở chung nhà, không có sự tôn
trọng cha mẹ anh, dạy con ngỗ nghịch, không tôn trọng ông, bà và cha.
Luật sư, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh L trình bày: Thực tế, mâu
thuẫn vợ chồng, mâu thuẫn giữa gia đình giữa anh L và chị N đã trầm trọng, vợ
chồng ly thân từ tháng 5/2023 đến nay. Cho dù Tòa án không chấp nhận yêu cầu ly
hôn của anh L thì suốt cuộc đời vợ chồng không thể đoàn tụ. Còn trong vụ án hình
sự, nếu có chứng cứ anh L là đồng phạm thì anh L chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Bản án sơ thẩm tuyên giao con cho chị N nuôi, trường hợp chị N không nuôi thì
giao cho anh L nuôi, anh L vẫn đồng ý. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp
nhận yêu cầu kháng cáo của chị N.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu ý kiến (có văn
bản phát biểu kèm theo):
- Về thủ tục tố tụng: Hội đồng xét xử phúc thẩm, thư ký phiên tòa cũng như
các đương sự đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Xét thấy: Từ trước tháng 5/2023 thì cuộc sống vợ chồng của
anh L, chị N vẫn hạnh phúc. Hiện nay, chị N và 02 con vẫn còn sống chung với cha
mẹ ruột anh L, ổn định. Anh L không có chứng cứ chứng minh mâu thuẫn vợ chồng
kéo dài, đời sống chung không đạt được để xin ly hôn. Do đó, chị N kháng cáo yêu
cầu bác yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh L là có căn cứ.
Ngoài ra, từ khi chị N bị cơ quan có thẩm quyền làm việc về hành vi trộm cắp
đến nay, thì các con của anh L và chị N cần có sự chăm sóc, chia sẻ của cả cha mẹ
để ổn định về cuộc sống và tâm sinh lý, nhất là anh L; trong khi nếu cho ly hôn thì
anh L lại giao con cho chị N nuôi con. Do đó, cần có thời gian để anh L suy nghĩ để
hàn gắn tình cảm vợ chồng, chăm sóc con chung.
Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự
2015, chấp nhận kháng cáo của chị Huỳnh Thị N, sửa Bản án dân sự sơ thẩm số
54/2024/HNGĐ-ST ngày 27-9-2024 của Toà án nhân dân huyện C (nay là Khu vực
00) theo hướng bác yêu cầu xin ly hôn của anh Cao Thành L.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Xét kháng cáo của bị đơn chị Huỳnh Thị N, về việc không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện về ly hôn của anh Cao Thành L. Hội đồng xét xử xét thấy:
[1.1] Quan hệ hôn nhân giữa anh Cao Thành L và chị Huỳnh Thị Nghĩa L3 tự
nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Đồng
5
Tháp cấp Giấy chứng nhận kết hôn số: 54/2012 ngày 06/4/2012. Do đó, có căn cứ
xác định quan hệ hôn nhân của anh L và chị Nghĩa L3 hợp pháp.
[1.2] Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc. Nguyên nhân anh L
đưa ra xin ly hôn chị N vì cho rằng chị N không trung thực, có tính trộm cắp vặt
trong nhà và hàng xóm, nhiều lần gia đình anh L phải bồi thường. Chị N không
đồng ý lý do anh L xin ly hôn chị, vì cho rằng việc chị trộm cắp tài sản của bà N1
(hàng xóm) cả cha mẹ chồng và anh L đều biết và có tham gia tiêu thụ. Sự việc này,
có con gái lớn Cao Ngọc Phương L2 chứng kiến. Anh L xin ly hôn chị để trốn tránh
trách nhiệm. Vụ án hình sự “Trộm cắp tài sản” do chị Nghĩa là bị cáo bị Tòa án trả
hồ sơ nhiều lần nhưng chưa xác định đồng phạm. Chị N không đồng ý lý do ly hôn
của anh L, không đồng ý ly hôn.
[1.3] Xét thấy: Tại phiên tòa phúc thẩm, anh L và chị N xác định: Vợ chồng
ly thân từ tháng 5/2023, anh N tự ra phía sau vườn của cha mẹ cất nhà ở, còn chị N
vẫn còn ở chung nhà cha mẹ chồng. Chị N cũng xác định không còn tình cảm với
anh L do cách đối xử của anh L và gia đình anh L đối với chị làm chị uất ức. Tuy
nhiên, chị N muốn bảo vệ các con nên tạm thời chưa đồng ý ly hôn. Khi có kết quả
xét xử vụ án hình sự trộm cắp tài sản, chị sẽ tự nguyện ly hôn.
[1.4] Xét thấy, Bản án số 54/2024/HNGĐ-ST ngày 27-9-2024 của Toà án
nhân dân huyện C (nay là Khu vực 0) giải quyết cho anh L và chị N ly hôn chưa có
căn cứ, vì lý do anh L đưa ra chưa thuyết phục, chưa xác định được mâu thuẫn
“...làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo
dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”, vì trước tháng 5/2023, vợ chồng
không có phát sinh mâu thuẫn, không có “căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo
lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng”. Mặt khác,
theo trình bày của anh L, việc ly hôn tại thời điểm hiện nay, chưa phải là yêu cầu
bức thiết trong khi chị N và các con cần chỗ ở ổn định. Nhằm bảo vệ quyền lợi của
phụ nữ và trẻ em, để hai con của chị N và anh L tạm thời có môi trường sinh sống
ổn định, để các con nhận sự quan tâm, chăm sóc của cả cha và mẹ, hạn chế thấp
nhất ảnh hưởng tâm sinh lý của các con, để anh L có thời gian suy nghĩ lại về trách
nhiệm của người chồng, người cha, để vợ chồng có cơ hội đoàn tụ, chăm sóc, nuôi
dạy con. Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của chị N.
[1.5] Từ những căn cứ, phân tích trên, đối chiếu quy định của pháp luật, Hội
đồng xét xử xét thấy: Bản án số 54/2024/HNGĐ-ST ngày 27-9-2024 của Toà án
nhân dân huyện C (nay là Khu vực 0) giải quyết cho anh L và chị N ly hôn là chưa
đủ căn cứ. Kháng cáo của chị Nghĩa L3 có căn cứ. Hội đồng xét xử chấp nhận
kháng cáo của chị N, sửa án sơ thẩm.
[2] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp là phù
hợp, có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Xét đề nghị của Luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn anh Cao Thành L, là chưa đủ căn cứ, không phù hợp quy định của pháp
luật nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
6
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do chấp nhận kháng cáo nên chị N không
phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Khoản 2 Điều 308, Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 2 Điều 29
của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và
lệ phí Tòa án.
- Chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn chị Huỳnh Thị N.
- Sửa Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 54/2024/HNGĐ-ST ngày 27-9-
2024 của Tòa án nhân dân huyện C (nay là Tòa án nhân dân khu vực 0), tỉnh Đồng
Tháp.
1. Về hôn nhân: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về ly hôn của anh Cao
Thành L.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Cao Thành L phải chịu 300.000 đồng án
phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Số tiền này, được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí
anh L đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0005781 ngày 23/10/2023 của Chi
cục thi hành án dân sự huyện C (nay là Phòng Thi hành án dân sự Khu vực 0), tỉnh
Đồng Tháp.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Hoàn trả cho chị Huỳnh Thị N số tiền tạm
ứng án phí phúc thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0013637 ngày
18/10/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện C (nay là Phòng Thi hành án dân
sự Khu vực 0), tỉnh Đồng Tháp.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Đương sự;
- UBND xã Tân Phú Trung;
- Viện Kiểm sát nhân dân Tỉnh;
- Tòa án ND Khu vực 0;
- Phòng Thi hành án Dân sự
Khu vực 0;
- Phòng Giám đốc, Kiểm tra, TT
&THA, TA. Tỉnh;
- Lưu hồ sơ vụ án và VT;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký
Kiều Kim Xuân
7
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 17/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 29/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 28/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 23/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 23/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 22/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 21/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 19/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 19/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 13/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm