Bản án số 59/2024/DSST ngày 28/09/2024 của TAND huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 59/2024/DSST

Tên Bản án: Bản án số 59/2024/DSST ngày 28/09/2024 của TAND huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Krông Năng (TAND tỉnh Đắk Lắk)
Số hiệu: 59/2024/DSST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Phùng Văn N khởi kiện tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà Phùng Thị L
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN



- - 
Bản án số: 59/2024/DS-ST
Ngày 28-9-2024
V/v Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng QSD đất
NHÂN DANH

TOÀ ÁN NHÂN DÂN 
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trương Xuân Hải.
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Nguyễn Văn Lam;
2. Ông Phan Ngọc Đài;
- Thư Toà án ghi biên bản phiên tòa: Nguyễn Thị Thùy Dung - Thư
ký Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng tham gia phiên tòa:
Ông Trần Minh Hoàng – Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Năng,
tỉnh Đắk Lắk tiến hành xét xử thẩm công khai vụ án thụ số: 187/2024/TLST-
DS ngày 08 tháng 11 năm 2023 về việc “Tranh chấp hp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2024/QĐXXST-DS
ngày 05 tháng 9 m 2024 Quyết định hoãn phiên tòa số 67/2024/QĐST-DS
ngày 20 tháng 9 năm 2024, giữa:
- Nguyên đơn: Ông Phùng Văn N, Nguyễn Thị L; trú tại: Thôn Đ, T,
huyện N, tỉnh Đắk Lắk. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Công H1; trú tại:
17 đường X, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (có mặt)
- Đồng bị đơn:
1. Ông Lê Viết H, bà Phùng Thị L1; trú tại: Thôn Đ, T, huyện N, tỉnh Đắk
Lắk (vắng mặt);
2. Phùng Thị N; trú tại: Thôn Đ, T, huyện N, tỉnh Đắk Lắk. Người đại
diện theo ủy quyền: Ông Hữu A; trú tại: Thôn Đ, T, huyện N, tỉnh Đắk Lắk
(có mặt);
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện N (vắng mặt);
2. Văn phòng công chứng Đ; địa chỉ: 38 đường Q, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo y quyền: Ông Nguyễn Minh H, chức vụ: Nhân viên; địa chỉ:
38 đường Q, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk(có đơn xin xét xử vắng mặt);
3. Văn phòng công chứng H; địa chỉ: 03 đường D, thị trấn N, huyện N, tỉnh
Đắk Lắk. Người đại diện theo pháp luật: Ông Đàm Mạnh H chức vụ: Trưởng văn
2
phòng; địa chỉ: 03 đường D, thị trấn N, huyện N, tỉnh Đắk Lắk (có đơn xin xét xử
vắng mặt);
4. Ông Lê Hữu A; trú tại: Thôn Đ, xã T, huyện N, tỉnh Đắk Lắk (có mặt);
5. Chị Thị Ngọc L; Anh Hữu Đ; trú tại: Thôn Đ, T, huyện N, tỉnh
Đắk Lắk (vắng mặt);

- Theo đơn khởi kiện, qtrình tham gia ttụng tại phiên tòa đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn ông Phạm Công H1 trình bày:
Ngày 13/2/2006, vợ chồng ông H, bà L1 chuyển nhượng cho vợ chồng ông N,
L một thửa đất diện tích 300m
2
(đất nông nghiệp); thuộc thửa đất 101, 103; tờ
bản đồ số 45; theo GCNQSD đất số AC486516 do UBND huyện N cấp ngày
26/12/2005 cho hộ Phùng Thị L1. Khi chuyển nhượng lập giấy sang nhượng
đất đề ngày 13/2/2006 và có xác nhận của UBND xã T. Thửa đất có tứ cận thửa đất:
Phía Đông giáp đất của bà Nguyễn Thị T, chiều dài khoảng 15m;
Phía Tây giáp đất ông Bùi Văn P, chiều dài khoảng 15m;
Phía Bắc giáp phần còn lại của thửa đất của L1 đã chuyển nhượng cho vợ
chồng ông C bà D (nay ông C, bà D chuyển nhượng cho bà Phan Thị P) có chiều dài
khoảng 20m;
Phía Nam giáp phần còn lại của thửa đất của L1 (nay N đang sử dụng)
có chiều dài khoảng 20m;
Giá chuyển nhượng 4.000.000 đồng, vợ chồng ông N, L đã giao cho
L1 số tiền 3.000.000 đồng và nhận đất sử dụng từ năm 2006 cho tới nay. Hiện tại, vợ
chồng ông NL vẫn còn nợ bà L1 số tiền 1.000.000 đồng.
Vợ chồng ông N, L đã nhận đất sử dụng, năm 2006 được chính quyn địa
phương y dựng cho một căn nhà tình nghĩa trên đất, xây dựng chuồng heo, ng
trình ph sdụng ổn định từ đó cho tới nay.
Năm 2013, vợ chồng ông H, bà L1 chuyển nhượng thửa đất số 101, 103, 104;
tờ bản đồ số 45; diện tích 4447m
2
tại xã T, huyện N, theo GCNQSD đất số
AC486516 do UBND huyện N cấp ngày 26/12/2005 cho vợ chồng N, ông C thì
vợ chồng ông N, bà L không biết.
Nguyên đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết các nội dung sau:
- Công nhận Giấy sang nhượng đất ngày 13/2/2006 giữa Phùng Thị L1,
ông Viết H với ông Phùng Văn N, Nguyễn Thị L được UBND T xác nhận
hiệu lực pháp luật. Đối với thửa đất Thửa diện tích 300 m
2
(đo đạc thực tế
293,8m
2
), thuộc một phần thửa thuộc thửa đất 101, 103 tờ bản đồ số 45; theo
GCNQSD đất số AC486516 do UBND huyện N cấp ngày 26/12/2005 cho hộ
Phùng Thị L1, được Chi nhánh văn phòng đăng đất đai chỉnh trang 4 cho
Phùng Thị N ngày 22/11/2019. Thửa đất có tứ cận:
Phía bắc giáp phần còn lại của thửa đất 101, dài 9,93m + 3,92m + 3m;
Phía Nam giáp phần còn lại của thửa đất số 103, dài 16.23m;
Phía Đông giáp phần còn lại của thửa đất số 101, 103, dài 18,90m;
Phía Tây giáp đất ông Bùi Văn Phương, dài 13,19m + 3,27m.
- Hủy một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Phùng
Thị L1, ông Viết H với ông Hữu C, Phùng Thị N đối với thửa đất số 101,
3
103, 104; tờ bản đồ số 45; diện tích 4447m
2
tại T, huyện N, tỉnh Đắk Lắk, hợp
đồng được n phòng ng chứng Đ công chng số 7313, quyển sổ số 11/CC-
SCC/HĐGD ngày 25/11/2013.
- Hủy một phần Văn bản phân chia di sản thừa kế của ông Hữu C đối với
thửa đất s101, 103, 104; tờ bản đồ số 45; diện tích 4447m
2
tại T, huyện Krông
Năng, tỉnh Đắk Lắk, hợp đồng được Văn phòng công chứng H công chứng số
003784, quyển sổ số 01/2019/CC-SCC/HĐGD ngày 03/10/2019.
- Buộc Phùng Thị N phải mở lối đi trên thửa đất số 101, tờ bản đồ số 45,
diện tích 120m
2
(rộng 4m, dài 30m).
- Tuyên hủy phần chỉnh biến động chủ sử dụng cho ông Hữu C,
Phùng Thị N được Chi nhánh văn phòng đăng đất đai huyện N chỉnh ngày
04/12/2013 đối với GCNQSD đất số AC486516 do UBND huyện N cấp ngày
26/12/2005.
- Tuyên hủy phần chỉnh biến động chủ sử dụng cho Phùng Thị N được
Chi nhánh văn phòng đăng đất đai huyện N chỉnh ngày 22/11/2019 đối với
GCNQSD đất số AC486516 do UBND huyện N cấp ngày 26/12/2005.
Tại phiên tòa nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với các nội
dung:
- Hủy một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Phùng
Thị L1, ông Viết H với ông Hữu C, Phùng Thị N đối với thửa đất số 101,
103, 104; tờ bản đồ số 45; diện tích 4447m
2
tại T, huyện N, tỉnh Đắk Lắk, hợp
đồng được n phòng ng chứng Đ công chng số 7313, quyển sổ số 11/CC-
SCC/HĐGD ngày 25/11/2013.
- Hủy một phần Văn bản phân chia di sản thừa kế của ông Hữu C đối với
thửa đất số 101, 103, 104; tờ bản đồ số 45; diện tích 4447m
2
tại xã T, huyện N, tỉnh
Đắk Lắk, hợp đồng được Văn phòng công chứng H công chứng số 003784, quyển
sổ số 01/2019/CC-SCC/HĐGD ngày 03/10/2019.
- Buộc Phùng Thị N phải mở lối đi trên thửa đất số 101, tờ bản đồ số 45,
diện tích 120m
2
(rộng 4m, dài 30m).
- Tuyên hủy phần chỉnh biến động chủ sử dụng cho ông Hữu C,
Phùng Thị N được Chi nhánh văn phòng đăng đất đai huyện N chỉnh ngày
04/12/2013 đối với GCNQSD đất số AC486516 do UBND huyện N cấp ngày
26/12/2005.
- Tuyên hủy phần chỉnh biến động chủ sử dụng cho Phùng Thị N được
Chi nhánh văn phòng đăng đất đai huyện N chỉnh ngày 22/11/2019 đối với
GCNQSD đất số AC486516 do UBND huyện N cấp ngày 26/12/2005.
Nguyên đơn chỉ đề nghị Tòa án giải quyết: Công nhận Giấy sang nhượng đất
ngày 13/2/2006 giữa Phùng Thị L1, ông Viết H với ông Phùng Văn N,
Nguyễn Thị L được UBNDT xác nhận có hiệu lực pháp luật.
Nguyên đơn tự nguyện chịu toàn bộ các chi phí, thuế, phí xin cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo đúng hiện trạng sử dụng đất.
Đối với số tiền 1.000.0000 đồng chuyển nhượng đất còn thiếu. Giữa L1,
ông H với ông N, L tnguyên thỏa thuận được với nhau. Đề nghị Tòa án công
nhận sự thỏa thuận ông N, bà L phải trả cho bà L1, ông H số tiền 8.100.000 đồng.
4
- Quá trình tham gia tố tụng bị đơn ông Viết H, Phùng Thị L1 trình
bày:
Ngày 13/2/2006, vợ chồng ông H, bà L1 chuyển nhượng cho vợ chồng ông N,
L một thửa đất diện tích 300m
2
(đất nông nghiệp), thuộc thửa đất 101, 103 tờ
bản đồ số 45; theo GCNQSD đất số AC486516 do UBND huyện N cấp ngày
26/12/2005 cho hộ Phùng Thị L1. Khi chuyển nhượng lập giấy sang nhượng
đất đề ngày 13/2/2006 và có xác nhận của UBND xã T. Thửa đất có tứ cận thửa đất:
Phía Đông giáp đất của bà Nguyễn Thị T, chiều dài khoảng 15m;
Phía Tây giáp đất ông Bùi Văn P, chiều dài khoảng 15m;
Phía Bắc giáp phần còn lại của thửa đất của L1 đã chuyển nhượng cho vợ
chồng ông C bà D (nay ông C, bà D chuyển nhượng cho bà Phan Thị P) có chiều dài
khoảng 20m;
Phía Nam giáp phần còn lại của thửa đất của L1 (nay N đang sử dụng)
có chiều dài khoảng 20m;
Diện tích chuyển nhượng 300m
2
.
Giá chuyển nhượng 4.000.000 đồng, vợ chồng ông N, L đã giao cho
L1 số tiền 3.000.000 đồng và nhận đất sử dụng từ năm 2006 cho tới nay. Hiện tại, vợ
chồng ông NL vẫn còn nợ bà L1 số tiền 1.000.000 đồng.
Vợ chồng ông N, bà L đã nhận đất sử dụng từ năm 2006 được chính quyền địa
phương y dựng cho một căn nhà tình nghĩa trên đất, xây dựng chuồng heo, công
trình ph sdụng ổn định từ đó cho tới nay.
Năm 2007, vợ chồng L1, ông H thế chấp GCNQSD đất số AC486516 do
UBND huyện N cấp ngày 26/12/2005 cho hộ bà Phùng Thị L1 cho Ngân hàng N thì
vợ chồng ông N, bà L không biết.
Do không khả năng trả nợ nên vợ chồng L1, ông H đã làm văn bản ủy
quyền cho Ngân hàng được quyền bán tài sản thế chấp để xử nợ. Ngày
25/11/2013, Ngân hàng N chuyển nhượng toàn bộ tài sản thế chấp cho vợ chồng
N, ông C. Khi chuyển nhượng thì N, ông C biết việc một phần thửa đất đã
chuyển nhượng cho ông N, L nhưng N, ông C vẫn đồng ý và không ý kiến
gì.
Nay, nguyên đơn khởi kiện thì bà L1, ông H có ý kiến như sau:
- Đối với yêu cầu công nhận Giấy sang nhượng đất ngày 13/2/2006 giữa
Phùng Thị L1, ông Lê Viết H với ông Phùng Văn N, Nguyễn Thị L được UBND
T xác nhận hiệu lực pháp luật. Vợ chồng L1, ông N thống nhất đồng ý đề
nghị Tòa án công nhận Giấy sang nhượng đất ngày 13/2/2006 giữa Phùng Thị
L1, ông Lê Viết H với ông Phùng Văn N, bà Nguyễn Thị L có hiệu lực. Nguyên đơn
phải chịu toàn bộ các chi phí, thuế, phí xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
theo đúng hiện trạng sử dụng đất.
Đối với số tiền 1.000.000 đồng chuyển nhượng đất còn thiếu. Giữa L1,
ông H với ông N, L tnguyên thỏa thuận được với nhau. Đề nghị Tòa án công
nhận sự thỏa thuận của các bên, buộc ông N, L phải trả cho bà L1, ông H số tiền
8.100.000 đồng (tính theo giá trị hiện nay).
Đối với các yêu cầu khởi kiện khác của nguyên đơn thì đề nghị Tòa án giải
quyết theo quy định của pháp luật.
5
- Qtrình tham gia tố tụng tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của bị
đơn bà Phùng Thị N là ông Lê Hữu A trình bày:
Ngày 25/11/2013, vợ chồng N nhận chuyển nhượng thửa đất số 101,
103, 104; tờ bản đồ số 45; diện tích 4447m
2
tại T, huyện N, theo GCNQSD đất
số AC486516 do UBND huyện N cấp ngày 26/12/2005 cho hộ Phùng Thị L1.
Ngày 04/12/2013, được Chi nhánh văn phòng đăng đất đai chỉnh biến động
chủ sử dụng cho Phùng Thị N, ông Hữu C. Năm 2017 ông Hữu C chết,
ngày 03/10/2019 các thành viên trong gia đình làm thtục phân chia di sản thừa kế
của ông Lê Hữu C. Ngày 22/11/2019, Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai chỉnh lý
biến động chủ sử dụng cho bà Phùng Thị N.
Khi nhận chuyển nhượng thửa đất của ông H, bà L1 thì vợ chồng C, bà N biết
việc một phần thửa đất đã được L1, ông H chuyển nhượng cho vợ chồng ông N,
L vào năm 2006. Vợ chồng ông N, L đã nhận đất sử dụng từ năm 2006 được
chính quyền địa phương xây dựng cho một căn nhà tình nghĩa trên đất, xây dựng
chuồng heo, công trình phụ sử dụngn định từ đó cho tới nay.
Nay, ông N, bà L khởi kiện thì bà N ý kiến như sau:
- Đồng ý đề nghị Tòa án công nhận Giấy sang nhượng đất ngày 13/2/2006
giữa Phùng Thị L1, ông Viết H với ông Phùng Văn N, Nguyễn Thị L
hiệu lực pháp luật.
Thửa diện tích 293,8m
2
, thuộc một phần thửa thuộc thửa đất 101, 103 tờ
bản đồ số 45; theo GCNQSD đất số AC486516 do UBND huyện N cấp ngày
26/12/2005 cho hộ Phùng Thị L1, được Chi nhánh văn phòng đăng đất đai
chỉnh lý trang 4 cho bà Phùng ThN ngày 22/11/2019. Thửa đất có tứ cận:
Phía bắc giáp phần còn lại của thửa đất 101, dài 9,93m + 3,92m + 3m;
Phía Nam giáp phần còn lại của thửa đất số 103, dài 16.23m;
Phía Đông giáp phần còn lại của thửa đất số 101, 103, dài 18,90m;
Phía Tây giáp đất ông Bùi Văn Phương, dài 13,19m + 3,27m.
Nguyên đơn phải chịu toàn bộ các chi phí, thuế, phí xin cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo đúng hiện trạng sử dụng đất.
Đối với các yêu cầu khởi kiện còn lại tại phiên tòa nguyên đơn xin rút yêu cầu
khởi kiện thì phía bị đơn đồng ý và không có ý kiến gì.
- Quá trình tham gia tố tụng đại diện văn phòng công chứng Đ trình bày:
Ngày 25/11/2013, các bên tham gia giao dịch có đến Văn phòng công chứng
Đ công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 101,
103, 104; tờ bản đồ số 45; diện tích 4447m
2
tại T, huyện N, theo GCNQSD đất
số AC486516 do UBND huyện N cấp ngày 26/12/2005 cho hộ Phùng Thị L1.
Căn cứ vào hồ giấy tờ các bên cung cấp, đất không bị biên ngăn chặn, các
bên tham gia giao dịch đầy đủ năng lực nh vi dân sự. Quy trình tiếp nhận, kiểm
tra và giải quyết hồ sơ công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói
trên đã được Văn phòng thực hiện đầy đủ và đúng quy định của pháp luật.
Nay nguyên đơn khởi kiện đề nghị: Hủy một phần hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa Phùng Thị L1, ông Viết H với ông Hữu C,
Phùng Thị N đối với thửa đất số 101, 103, 104; tờ bản đồ số 45; diện tích 4447m
2
tại
T, huyện N, tỉnh Đắk Lắk, hợp đồng được Văn phòng công chứng Đ công chứng
6
số 7313, quyển s số 11/CC-SCC/HĐGD ngày 25/11/2013, t Văn phòng công
chứng Đ đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Quá trình tham gia tố tụng đại diện văn phòng công chứng H trình bày:
Ngày 08/9/2019, Văn phòng công chứng H tiếp nhận hồ sơ của bà Phùng Thị
N cùng các con đề nghị phân chia di sản thừa kế của ông Hữu C (chết ngày
28/6/2017) là quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 101, 103, 104; tờ bản đồ số 45;
diện tích 4447m
2
tại xã T, huyện N, theo GCNQSD đất số AC486516 do UBND
huyện N cấp ngày 26/12/2005 cho hộ bà Phùng Thị L1, được Chi nhánh văn phòng
đăng ký đất đai chỉnh lý biến động chủ sử dụng cho bà Phùng Thị N, ông Lê Hữu C
ngày 04/12/2013.
Căn cứ vào hồ giấy tờ các bên cung cấp, việc phân chia di sản thừa kế
trên tinh thần tự nguyện, không trái pháp luật, đạo đức hội. Quy trình tiếp nhận,
kiểm tra và giải quyết hcông chứng đã được Văn phòng thực hiện đầy đủ
đúng quy định của pháp luật.
Nay nguyên đơn khởi kiện đề nghị: Hủy một phần Văn bản phân chia di sản
thừa kế của ông Hữu C đối với thửa đất số 101, 103, 104; tờ bản đồ số 45; diện
tích 4447m
2
tại xã T, huyện N, tỉnh Đắk Lắk, hợp đồng được Văn phòng công
chứng H công chng số 003784, quyển sổ số 01/2019/CC-SCC/HĐGD ngày
03/10/2019, thì Văn phòng công chứng H đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định
của pháp luật.
- Qtrình tham gia tố tụng người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông
Lê Hữu A trình bày:
Đồng ý với ý kiến đã trình bày với cách đại diện theo ủy quyền của bị
đơn bà Phùng Thị N. Đề nghị Tòa án giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
- Tại phn tòa, đi diện Viện kim sát nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh
Đắk Lắk phát biểu quan đim giải quyết vụ án như sau:
+ Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, từ khi thụ cho đến ngày xét
xử vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán Hội đồng xét xử, thư đã
thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, đưa vụ án ra
xét xử đúng hạn luật định, thủ tục mở phiên tòa đảm bảo. Bị đơn chưa thực hiện đầy
đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
+ Về nội dung: Qua phân tích, đánh giá các tài liệu chng cứ trong hồ
vụ án, lời khai ý kiến của các bên đương sự, đại diện Viện kiểm sát tham gia
phiên tòa ý kiến như sau: Đề nghị HĐXX, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn về việc công nhận Giấy sang nhượng đất ngày 13/2/2006 giữa bà Phùng
Thị L1, ông Viết H với ông Phùng Văn N, bà Nguyễn Thị L hiệu lực pp
luật.
Tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xin rút một phần yêu
cầu khởi kiện đối với các yêu cầu còn lại. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ
giải quyết đối với các yêu cầu nêu trên.
Về án phí: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên bị đơn phải
chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

7
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả
tranh luận; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ đã được thu thập
trong hồ sơ vụ án; ý kiến của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về thẩm quyền quan hệ tranh chấp: Quan htranh chấp giữa các
đương sự là “Tranh chấp hợp đồng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, bị đơn nơi trú tại huyện N, tỉnh Đắk
Lk nguyên đơn đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Krông Năng
giải quyết. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của a án nhân dân
huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về nguồn gốc thửa đất tranh chấp: Ngày 13/2/2006, vợ chồng ông H, bà
L1 chuyển nhượng cho vợ chồng ông N, L một thửa đất diện tích 300m
2
,
thuộc thửa đất 101, 103 tờ bản đồ số 45; theo GCNQSD đất số AC486516 do
UBND huyện N cấp ngày 26/12/2005 cho hộ Phùng Thị L1. Khi chuyển nhượng
lập giấy sang nhượng đất đề ngày 13/2/2006 xác nhận của UBND T.
Thửa đất có tứ cận thửa đất:
Phía Đông giáp đất của bà Nguyễn Thị T, chiều dài khoảng 15m;
Phía Tây giáp đất ông Bùi Văn P, chiều dài khoảng 15m;
Phía Bắc giáp phần còn lại của thửa đất của L1 đã chuyển nhượng cho vợ
chồng ông C bà D (nay ông C, bà D chuyển nhượng cho bà Phan Thị P) có chiều dài
khoảng 20m;
Phía Nam giáp phần còn lại của thửa đất của L1 (nay N đang sử dụng)
có chiều dài khoảng 20m;
Diện tích chuyển nhượng 300m
2
.
Giá chuyển nhượng 4.000.000 đồng, vợ chồng ông N, L đã giao cho
L1 số tiền 3.000.000 đồng và nhận đất sử dụng từ năm 2006 cho tới nay. Hiện tại, vợ
chồng ông NL vẫn còn nợ bà L1 số tiền 1.000.000 đồng.
Vợ chồng ông N, L đã nhận đất sử dụng, năm 2006 được chính quyn địa
phương xây dựng cho nhà tình nghĩa trên đất diện tích 21m
2
(rộng 4,4m; dài
4,77m), xây dựng chuồng heo, ng trình phụ sử dụng ổn định từ đó cho tới nay.
Năm 2007, vợ chồng L1, ông H thế chấp GCNQSD đất số AC486516 do
UBND huyện N cấp ngày 26/12/2005 cho hộ bà Phùng Thị L1 cho Ngân hàng N.
Do không khả năng trả nợ nên vợ chồng bà L1, ông H đã làm văn bản ủy
quyền cho Ngân hàng được quyền bán tài sản thế chấp để xử nợ. Ngày
25/11/2013, Ngân hàng N chuyển nhượng toàn bộ tài sản thế chấp cho vợ chồng
N, ông C. Ngày 04/12/2013, được Chi nhánh văn phòng đăng đất đai chỉnh
biến động chủ sử dụng cho bà Phùng Thị N, ông Lê Hữu C. Ngày 22/11/2019, được
Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai chỉnh lý biến động chủ sử dụng cho bà Phùng
Thị N.
[2.2]. Xét giấy sang nhượng đất đề ngày 13/2/2006 giữa Phùng Thị L1,
ông Viết H với ông Phùng Văn N, Nguyễn Thị L. Hội đồng xét xử nhận định
như sau:
8
Ngày 13/2/2006, vợ chồng ông H, bà L1 lập hợp đồng chuyển nhượng cho vợ
chồng ông N, L một thửa đất diện tích 300m
2
, thuộc thửa đất 101, 103 tờ bản
đồ số 45; theo GCNQSD đất số AC486516 do UBND huyện N cấp ngày 26/12/2005
cho hộ bà Phùng Thị L1. Khi chuyển nhượng lập giấy sang nhượng đất đề ngày
13/2/2006 và có xác nhận của UBND xã T. Thửa đất chuyển nhượng theo giấy sang
nhượng có tứ cận thửa đất: Phía Đông giáp đất của Nguyễn Thị T; Phía Tây giáp
đất ông Bùi Văn P; Phía Bắc giáp đất ông C D; Phía Nam giáp phần còn lại của
thửa đất của L1, diện tích chuyển nhượng 300m
2
(diện tích đo đạc thực tế
293,8m
2
), gchuyn nhượng 4.000.000 đồng, vợ chồng ông N, L đã giao cho
L1 số tiền 3.000.000 đồng nhận đất sử dụng từ năm 2006 cho tới nay. Năm
2006, ông N, bà L được chính quyền địa phương xây dựng nhà tình nghĩa trên đất
diện tích 21m
2
(rộng 4,4m; dài 4,77m), ông Nbà L xây dựng 01 chuồng heo diện
tích 40m
2
(rộng 4m; dài 10m), công trình phụ và cây ăn trái trên thửa đất.
Giấy sang nhượng ngày 13/2/2006 viết tay, không được công chứng, chứng
thực là vi phạm về mặt hình thức. Tuy nhiên, các bên đã giao tiền, nhận đất, quản lý
sử dụng từ năm 2006. Quá trình sdụng đất vợ chồng ông N, L được chính
quyền địa phương xây dựng nhà tình nghĩa có diện tích 21m
2
(rộng 4,4m; dài 4,77m)
trên thửa đất, ông N L xây dựng 01 chuồng heo diện tích 40m
2
(rộng 4m; dài
10m), không bị quan Nhà nước xử phạt vi phạm hành chính. Như vậy, mặc
giấy sang nhượng ngày 13/2/2006 giữa Phùng Thị L1, ông Viết H với ông
Phùng Văn N, Nguyễn Thị L vi phạm quy định về mặt hình thức, tuy nhiên các
bên đã giao nhận tiền, ông N L đã nhận đất, làm nhà quản lý, sử dụng n
định từ năm 2006 đến nay. Thời điểm chuyển nhượng đất đã giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, đất không tranh chấp, không bị biên để đảm bảo thi hành
án, trong thời hạn sử dụng đất, nên đủ điều kiện thực hiện việc chuyển nhượng. Do
đó, theo quy định tại Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015 Án lệ số 55/2022/AL
của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao thì trường hợp này Toà án công
nhận hiệu lực của hợp đồng nói trên.
Mặc dù, phần diện tích đất chuyển nhượng có diện tích 293,8m
2
, mục đích sử
dụng đất nông nghiệp, không đủ điều kiện để tách thửa theo Quyết định số
07/2022/QĐ UBND ngày 21/01/2022 (được sửa đổi, bổ sung tại Quyết định số
45/2023/QĐ UBND ngày 29/12/2023) của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Tuy
nhiên, khoản 1 Điều 146 Luật đất đai 2024 quy định: “1. Thửa đất đang sử dụng
được hình thành trước ngày văn bản quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về diện
tích tối thiểu được tách thửa có hiệu lực thi hành mà diện tích thửa đất nhỏ hơn diện
tích tối thiểu theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nhưng đủ điều kiện
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất thì
người đang sdụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu tài sản gắn liền với đất”.
Đối chiếu tại thời điểm chuyển nhượng ngày 13/02/2006 thì Luật đất đai năm
2003 và Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk chưa quy định về hạn mức tối thiểu để được
tách thửa đối với đất nông nghiệp. Ngày 03/01/2008, Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk
ban hành Quyết định số: 01/2008/QĐ-UBND v“Ban hành quy định diện tích tối
thiểu được phép tách thửa đối với một số loại đất; diện tích đất nông nghiệp, đất
9
vườn, ao được tính để hỗ trợ bằng tiền đối với trường hợp quy định tại khoản 2
khoản 3 Điều 43 nghị định số: 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ”. Do
đó, thời điểm trước m 2006 không quy định về diện tích tối thiểu để tách thửa
đối với đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
vậy, căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Công
nhận giấy sang nhượng đất đề ngày 13/2/2006 giữa bà Phùng Thị L1, ông Lê Viết H
với ông Phùng Văn N, Nguyễn Thị L đối với thửa đất diện tích 300m
2
(diện tích
đo đạc thực tế 293,8m
2
), thuộc một phần thửa thuộc thửa đất 101, 103 tờ bản đồ số
45; theo GCNQSD đất sAC486516 do UBND huyện N cấp ngày 26/12/2005 cho
hộ Phùng Thị L1, được Chi nhánh văn phòng đăng đất đai chỉnh trang 4
cho bà Phùng Thị N ngày 22/11/2019. Thửa đất có tứ cận:
Phía bắc giáp phần còn lại của thửa đất 101, dài 9,93m + 3,92m + 3m;
Phía Nam giáp phần còn lại của thửa đất số 103, dài 16.23m;
Phía Đông giáp phần còn lại của thửa đất số 101, 103, dài 18,90m;
Phía Tây giáp đất ông Bùi Văn Phương, dài 13,19m + 3,27m.
[2.2]. Quá trình giải quyết vụ án tại phiên hòa giải, nguyên đơn ông Phùng
Văn N, bà Nguyễn Thị L với bị đơn bà Phùng Thị L1, ông Lê Viết H tự nguyện thỏa
thuận với nhau về việc: Ông Phùng Văn N, Nguyễn Thị L phải trả cho bà Phùng
Thị L1, ông Viết H số tiền chuyển nhượng đất còn thiếu 1.000.000 đồng,
tương đương với giá trị hiện tại 8.100.000 đồng. Việc thỏa thuận hoàn toàn tự
nguyện, nội dung thoả thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm của luật và
không trái đạo đức xã hội. Do đó, hội đồng xét xử cần công nhận sự thỏa thuận nêu
trên.
[3]. Tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xin rút một phần
yêu cầu khởi kiện cụ thể: Hủy một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa Phùng Thị L1, ông Viết H với ông Hữu C, bà Phùng Thị N đối
với thửa đất số 101, 103, 104; tờ bản đồ số 45; diện tích 4447m
2
tại T, huyện N,
tỉnh Đắk Lắk, hợp đồng được Văn phòng công chứng Đ công chứng số 7313, quyển
sổ số 11/CC-SCC/HĐGD ngày 25/11/2013; Hủy một phần Văn bản phân chia di sản
thừa kế của ông Hữu C đối với thửa đất số 101, 103, 104; tờ bản đồ số 45; diện
tích 4447m
2
tại xã T, huyện N, tỉnh Đắk Lắk, hợp đồng được Văn phòng công
chứng H công chng số 003784, quyển sổ số 01/2019/CC-SCC/HĐGD ngày
03/10/2019; Buộc Phùng Thị N phải mở lối đi trên thửa đất số 101, tờ bản đồ số
45, diện tích 120m
2
(rộng 4m, dài 30m); Tuyên hủy phần chỉnh biến động chủ sử
dụng cho ông Hữu C, Phùng Thị N được Chi nhánh văn phòng đăng ký đất
đai huyện N chỉnh ngày 04/12/2013 đối với GCNQSD đất số AC486516 do
UBND huyện N cấp ngày 26/12/2005; Tuyên hủy phần chỉnh biến động chủ sử
dụng cho Phùng Thị N được Chi nhánh văn phòng đăng đất đai huyện N
chỉnh ngày 22/11/2019 đối với GCNQSD đất số AC486516 do UBND huyện N
cấp ngày 26/12/2005.
Xét việc rút đơn hoàn toàn tự nguyện. Do đó, căn cứ điểm c khoản 1 Điều
217 Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ giải quyết đối với cácu cầu khởi kiện nêu trên
của nguyên đơn ông Phùng Văn N, Nguyễn Thị L.
10
[4]. Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn tự nguyện chịu 8.000.000 đồng chi phí đo
đạc, thẩm định tại chỗ định giá tài sản. Nguyên đơn đã nộp đủ số tiền 8.000.000
đồng và không phải nộp thêm
[5] Về án phí: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên b đơn
Phùng Thị L1, ông Viết H, Phùng Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí dân
sự sơ thẩm không có giá ngạch.
Do các đương sự thỏa thuận được với nhau trước khi mở phiên tòa nên
nguyên đơn, bị đơn phải chịu (8.100.000 đồng x 5%) x 50% = 202.500 đồng án phí
dân sự sơ thẩm có giá ngạch. Cụ thể, ông Phùng Văn N, bà Nguyễn Thị L phải chịu
101.250 đồng án phí dân sự có giá ngạch. Khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp
tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền s 0002310 ngày 24/10/2023 tại Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Krông Năng, ông Phùng Văn N, Nguyễn Thị L được nhận
lại số tiền 198.750 đồng. Bị đơn bà Phùng Thị L1, ông Lê Viết H phải chịu 101.250
đồng án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.
Vì các lẽ trên;

- Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều
147; Điều 217; Điều 227; Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ các Điều 116; Điều 119; Điều 122; Điều 129; Điều 130 của Bộ luật
dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 106 Luật đất đai 2003; Điều 146 Luật đất đai 2024;
- Căn cứ Án lsố 55/2022/AL của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao;
- Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phùng Văn N,
bà Nguyễn Thị L.
1. Công nhận giấy sang nhượng đất đề ngày 13/2/2006 giữaPhùng Thị L1,
ông Lê Viết H với ông Phùng Văn N, bà Nguyễn Thị L đối với thửa đất có diện tích
293,8m
2
, thuộc một phần thửa thuộc thửa đất 101, 103 tờ bản đồ số 45; theo
GCNQSD đất số AC486516 do UBND huyện N cấp ngày 26/12/2005 cho hộ
Phùng Thị L1, được Chi nhánh văn phòng đăng đất đai chỉnh trang 4 cho
Phùng Thị N ngày 22/11/2019. Thửa đất có tứ cận:
Phía Bắc giáp phần còn lại của thửa đất 101;
Phía Nam giáp phần còn lại của thửa đất số 103;
Phía Đông giáp phần còn lại của thửa đất số 101, 103;
Phía Tây giáp đất ông Bùi Văn P.
Theo trích đo địa chính thửa đất của Công ty TNHH Đo đạc vấn nông
lâm nghiệp Đắk Lắk (có sơ đồ kèm theo).
Các bên quyền liên hệ với quan thẩm quyền để được cấp lại Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng hiện trạng sử dụng đất thực hiện các
nghĩa vụ khi làm thủ tục theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn ông Phùng Văn
N, bà Nguyễn Thị L phải chịu toàn bộ thuế, lệ phí, chi phí xin cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo đúng hiện trạng sử dụng đất.
11
2. Công nhận sự thỏa thuận giữa ông Phùng Văn N, Nguyễn Thị L với
Phùng Thị L1, ông Viết H. Buộc ông Phùng Văn N, Nguyễn Thị L phải trả
cho bà Phùng Thị L1, ông Lê Viết H số tiền 8.100.000 đồng.
3. Đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện: Hủy một phần hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Phùng Thị L1, ông Lê Viết H với ông Lê Hữu C,
bà Phùng Thị N đối với thửa đất số 101, 103, 104; tờ bản đồ số 45; diện tích 4447m
2
tại T, huyện N, tỉnh Đắk Lắk, hợp đồng được Văn phòng công chứng Đ công
chứng số 7313, quyển sổ số 11/CC-SCC/HĐGD ngày 25/11/2013; Hủy một phần
Văn bản phân chia di sản thừa kế của ông Hữu C đối với thửa đất số 101, 103,
104; tờ bản đồ số 45; diện tích 4447m
2
tại xã T, huyện N, tỉnh Đắk Lắk, hợp đồng
được Văn phòng công chứng H công chứng số 003784, quyển sổ số 01/2019/CC-
SCC/HĐGD ngày 03/10/2019; Buộc Phùng Thị N phải mở lối đi trên thửa đất số
101, tờ bản đồ số 45, diện tích 120m
2
(rộng 4m, dài 30m); Tuyên hủy phần chỉnh lý
biến động chủ sử dụng cho ông Hữu C, Phùng Thị N được Chi nhánh văn
phòng đăng đất đai huyện N chỉnh ngày 04/12/2013 đối với GCNQSD đất số
AC486516 do UBND huyện N cấp ngày 26/12/2005; Tuyên hủy phần chỉnh lý biến
động chủ sử dụng cho Phùng Thị N được Chi nhánh văn phòng đăng đất đai
huyện N chỉnh ngày 22/11/2019 đối với GCNQSD đất số AC486516 do UBND
huyện N cấp ngày 26/12/2005.
4. Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn ông Phùng Văn N, Nguyễn Thị L t
nguyện chịu 8.000.000 đồng chi phí đo đạc, thẩm định tại chỗ định giá tài sản.
Nguyên đơn đã nộp đủ số tiền 8.000.000 đồng.
5. Về án phí: Bị đơn bà Phùng Thị L1, ông Lê Viết H phải chịu 150.000 đồng
án phí n sự thẩm không giá ngạch 101.2500 đồng án phí dân sự giá
ngạch. Bị đơn bà Phùng Thị N phải chịu 150.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm không
có giá ngạch.
Nguyên đơn ông Phùng Văn N, bà Nguyễn Thị L phải chịu 101.250 đồng án
phí dân sự giá ngạch. Khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí
theo biên lai thu tiền số 0002310 ngày 24/10/2023 tại Chi cục Thi hành án dân s
huyện N, ông Phùng Văn N, bà Nguyễn Thị L được nhận lại số tiền 198.750 đồng.
6. Về quyền kháng o: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo
bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa
được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án,
hoặc bản án được niêm yết tại UBND xã, phường và nơi họ cư trú.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Đắk Lắk;
- VKSND huyện Krông Năng (02);
- Chi cục THADS huyện Krông Năng;
- Các đương sự;
- . . . . . . . . . . . . . ;
- Lưu HS.

- 
(Đã ký)

Tải về
Bản án số 59/2024/DSST Bản án số 59/2024/DSST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 59/2024/DSST Bản án số 59/2024/DSST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất