Bản án số 59/2018/HNGĐ-ST ngày 30/08/2018 của TAND huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 59/2018/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 59/2018/HNGĐ-ST ngày 30/08/2018 của TAND huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Tiền Hải (TAND tỉnh Thái Bình)
Số hiệu: 59/2018/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/08/2018
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hôn nhân gia đình giữa H và L
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 59/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 30 tháng 8 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện TH, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 157/2018/TLST- HNGĐ ngày 19 tháng 6 năm2018 về tranh chấp Hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2018/QĐXX-ST ngày 01 tháng 8 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 46/QĐST-HPT ngày 22 tháng 8 năm 2018 giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H – Sinh năm 1976

2. Bị đơn: Anh Bùi Trọng L – Sinh năm 1972

Địa chỉ cư trú: Thôn Q, xã VT, huyện TH, Thái Bình

Chị Nguyễn Thị H có mặt, anh Bùi Trọng L vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Chị Nguyễn Thị H và anh Bùi Trọng L tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VT, huyện TH, tỉnh Thái Bình vào ngày 12/01/1997. Theo chị H trình bày, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng do anh L thường xuyên uống rượu, có khi còn xúc phạm vợ con, chị quá mệt mỏi, không còn tình cảm với anh L nữa nên chị xin được ly hôn.Theo anh L thì mâu thuẫn vợ chồng không trầm trọng, anh muốn con cái có bố có mẹ nên không đồng ý ly hôn.

Anh chị có 02 con chung là Bùi Minh Ng sinh ngày 26/01/1998, hiện nay đang học Đại học ở tHnh phố Hồ Chí Minh và Bùi Thị M sinh ngày 08/5/2010. Khi ly hôn chị Nguyễn Thị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Bùi Thị M. Chị không yêu cầu anh Bùi Trọng L cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

Về tài sản, công nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, của người tham gia tố tụng và đề nghị Hội đồng xét xử: Xử cho chị Nguyễn Thị H và anh Bùi Trọng L được ly hôn. Giao con chung Bùi Thị M cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Nguyễn Thị H không yêu cầu anh Bùi Trọng L phải cấp dưỡng nuôi con chung. Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết tài sản. Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị H và anh Bùi Trọng L đều có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã VT, huyện TH, tỉnh Thái Bình nên Tòa án nhân dân huyện TH có thẩm quyền giải quyết vụ án. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã gửi Thông báo thụ lý, Giấy triệu tập anh Bùi Trọng L nhưng anh Bùi Trọng L không đến Tòa án.Tòa án đã đến nơi cư trú của anh L ghi lời khai của anh đồng thời xác minh thu thập chứng cứ. Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Bùi Trọng L vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tòa án nhân dân huyện TH mở phiên tòa vào ngày 22/8/2018, anh Bùi Trọng L vắng mặt. Hôm nay, anh Bùi Trọng L vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân huyện TH căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Bùi Trọng L tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VT, huyện TH, tỉnh Thái Bình vào ngày 12/01/1997, đó là hôn nhân hợp pháp. Về nguyên nhân mâu thuẫn, anh L cho rằng mâu thuẫn vợ chồng không lớn nhưng chị H cho rằng mâu thuẫn đã trầm trọng, chị xác đình tình cảm của chị với anh không còn, chị không thể chịu đựng nổi khi sống cùng anh, mặt khác anh L không đồng ý ly hôn nhưng khi Tòa án hòa giải, anh không có mặt để trình bày biện pháp khắc phục mâu thuẫn; vì vậy Hội đồng xét xử có cơ sở để xác định mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình để xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Bùi Trọng L.

[3] Về con chung: Anh chị có hai con chung; con lớn là Bùi Minh Ng, sinh ngày 26/01/1998 đã trên 18 tuổi nên không phải giải quyết người trực tiếp nuôi dưỡng. Con nhỏ là Bùi Thị M, sinh ngày 08/5/2010. Khi ly hôn chị Nguyễn Thị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Bùi Thị M. Xét thấy, chị H là giáo viên, có thu nhập ổn định, nguyện vọng của cháu M muốn được ở cùng mẹ. Vì vậy, Hội đồng xét xử giao cháu Minh Anh cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Chị H không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung nên không phải giải quyết.

[4] Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.Sau ly hôn các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết bằng một vụ án khác.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ khoản 1 điều 28; khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 56, Điều 58, Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2015. Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị H và anh Bùi Trọng L được ly hôn.

2. Về con chung: Con lớn Bùi Minh N đã trưởng tHnh nên không phải giải quyết người trực tiếp nuôi dưỡng. Giao con Bùi Thị M, sinh ngày 08/5/2010 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Nguyễn Thị H không yêu cầu anh Bùi Trọng L cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Bùi Trọng L có quyền thăm nom, chăm sóc con chung.

3. Về tài sản, công nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết trong vụ án này. Các đương sự có quyền yêu cầu tòa án chia tài sản sau ly hôn.

4. Về án phí: anh Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp theo biên lai số 008730 ngày 19/6/2018 tại chi cục Thi hành án dân sự huyện TH được chuyển tHnh tiền án phí.

5. Quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh Bùi Trọng L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Tải về
Bản án số 59/2018/HNGĐ-ST Bản án số 59/2018/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất