Bản án số 26/2024/HNGĐ-PT ngày 02/12/2024 của TAND TP. Đà Nẵng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 26/2024/HNGĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 26/2024/HNGĐ-PT ngày 02/12/2024 của TAND TP. Đà Nẵng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Đà Nẵng
Số hiệu: 26/2024/HNGĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 02/12/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Đỗ K khởi kiện bà Đặng H về việc tranh chấp ly hôn, con chung, tài sản chung
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Đỗ Thị Thúy Năng
Các Thẩm phán: Bà Thái Thị Phi Yến
Ông Ngô Hà Nam
- Thư phiên tòa: Ông Bùi Minh An - TTòa án nhân dân thành phố Đà
Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phĐà Nẵng tham gia phiên tòa:
Bà Lương Thị Chung- Kiểm sát viên.
Ngày 02 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 18/2024/TLPT-HNGĐ ngày 03 tháng 10
năm 2024 về việc ly hôn, nuôi con chung, tài sản chung
Do Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 24/2024/HNGĐ-ST ngày 26 tháng 7
năm 2024 của Tòa án nhân dân quận K, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2024/QĐ-PT ngày 30 tháng 10 năm
2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Đỗ V, sinh năm: 1974; Địa chỉ: Số A, tổ B, phường H,
quận K, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Phạm H, Luật sư
thuộc Văn phòng luật B; Địa chỉ: số V, phường N, quận Hải Châu, thành phố Đà
Nẵng.Có mặt.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Bản án số: 26/2024/HNGĐ-PT
Ngày: 02- 12 - 2024
V/v: Tranh chấp ly hôn,
nuôi con chung, tài sản chung”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
2. Bị đơn: Đặng H, sinh năm: 1988; Địa chỉ: Số Z, phường A, quận K, thành
phố Đà Nẵng. Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Bà Lê H Luật sư Công ty
Luật J; Địa chỉ: phường X, quận K, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông A, sinh năm: 1990; Địa chỉ: Số A, phường N, quận H, thành phố Đà
Nẵng. Vắng mặt.
Đại diện theo ủy quyền: Bà Đặng D, sinh năm: 1990. Địa chỉ: A, phường N,
quận H, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.
- Ông Đỗ T, sinh năm: 1952 Phù D, sinh năm: 1955; Địa chỉ: tổ C,
phường T, quận K, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
- Ngân hàng T. Địa chỉ liên hệ: Số Q, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.
4. Người kháng cáo:Đặng H - bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo án sơ thẩm, nội dung vụ án như sau:
* Nguyên đơn là ông Đỗ V trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Tôi và bà Đặng H kết hôn năm 2011 tại UBND phường
T, quận K, thành phố Đà Nẵng. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ
chồng chung sống tại nhà cha mẹ tôi. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2020
thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có
sự tôn trọng cũng như không tin tưởng lẫn nhau nên thường xuyên xảy ra to tiếng, cãi
vả. Mặc đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng mâu thuẫn vẫn không được cải
thiện. Hiện nay vợ chồng đã sống ly thân mỗi người mỗi nơi, không còn quan tâm đến
nhau. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt
được, nên đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với bà Đặng H.
- Về con chung: Vợ chồng 02 con chung tên Đỗ K, sinh ngày 25/10/2012
Đỗ N, sinh ngày 29/10/2018. Ly hôn, tôi nguyện vọng được trực tiếp nuôi
dưỡng cháu Đỗ K giao cháu Đỗ N cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các
con đủ tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Không bên nào cấp dưỡng nuôi con cho bên nào.
- Về tài sản chung: Trong quá trình chung sống, chúng tôi những tài sản
chung là:
3
+ Xe ô nhãn hiệu Hyundai Tucson 5 chỗ, số máy G4NAHU803293, số
khung W13BIN001076, biển kiểm soát 43A-XXX.27, giấy chứng nhận đăng xe ô
số 049906 được Phòng Cảnh sát giao thông Công an thành phố Đà Nẵng cấp ngày
22/01/2018 do ông Lê A đứng tên.
+ Kiot tại số A, tầng 2, chợ Hàn, số 119 đường Trần Phú, phường Hải Châu
1, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng do bà Đặng H đứng tên
Tôi không ý kiến gì thống nhất về kết quả thẩm định giá của Công ty
thẩm định giá ngày 09/5/2024 mà Tòa án vừa công bố như sau: Giá trị quyền thuê
sử dụng Kiot kinh doanh giày dép là: 189.116.280 đồng; giá trị chiếc xe Hyundai
Tucson 5 chỗ ngồi, biển kiểm soát 43A-XXX.27 549.530.110đ. Tổng giá trị
738.646.390 đồng.
Tôi yêu cầu nhận hết tài sản và thối trả 50% giá trị tài sản cho bà Huyền, nếu
H nhận tài sản thì có nghĩa vụ thối trả 50% giá trị tài sản cho tôi.
- Về nợ chung: Trong quá trình chung sống, chúng tôi những khoản nợ
chung là: Vay mượn của ông Đỗ T bà Phù D số tiền 300.000.000đồng. Tôi đề
nghị cả tôi và bà H cùng phải có trách nhiệm trả nợ cho ông T và bà D.
* Bị đơn bà Đặng H trình bày:
Tôi thống nhất với ông Đỗ V vthời gian nơi đăng kết hôn. Hôn nhân
hoàn toàn tự nguyện. Ông V khởi kiện yêu cầu ly hôn thì tôi đồng ý thuận tình ly hôn
vì hiện nay vợ chồng tôi không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa.
- Về quan hệ con chung: Tôi xác nhận chúng tôi 02 con chung: Đỗ K, sinh
ngày 25/10/2012 Đỗ N, sinh ngày 29/10/2018. Ly hôn, tôi nguyện vọng trực
tiếp nuôi dưỡng cháu Đỗ N, ông V người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đỗ K, ông
V có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 10.000.000đ/1 tháng.
- Về tài sản chung:
+ Đối với xe ô nhãn hiệu Hyundai Tucson 5 chỗ ngồi và nhờ ông Lê A đứng
tên giùm ttôi ý kiến: Đây tài sản chung của vợ chồng, trước khi chia tài sản
chung này tôi đề nghị trích 40% giá trị để làm stiết kiệm cho con gái Đỗ N, còn
lại sẽ chia đôi cho cả hai người.
+ Đối với Kiot tại số A, tầng 2, chợ Hàn, số 119 đường Trần Phú, phường
Hải Châu 1, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng do tôi đứng tên, tôi xác nhận đây
4
tài sản thuê của Nhà nước không phải tài sản chung của vợ chồng nên không đồng ý
phân chia.
Ngoài ra chúng tôi có 02 Công ty là Công ty nhưng tôi chưa có yêu cầu gì.
- Về nợ chung: Tôi xác định tôi không nợ D ông T khoản tiền nào cả.
Việc ông V khai nợ thì đó là nợ riêng của ông V và ông V có trách nhiệm trả.
* Đại diện theo ủy quyền người quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông A
Đặng D trình bày:
Chị gái tôi Đặng H và ông Đỗ V vợ chồng. Đầu năm 2018, khi nghe ông
Đỗ V trình bày muốn mua xe ôtô để phục vụ đi lại kinh doanh nhưng không thể
đứng ra vay ngân hàng được nên có nhờ vợ chồng tôi đứng tên làm hồ sơ vay hộ.
Sau khi nghe ông V chị H trao đổi, vợ chồng tôi bàn bạc, thấy rằng đtạo
điều kiện cho anh rể chị gái làm ăn, tăng thu nhập để nuôi dưỡng các cháu nên vợ
chồng tôi đồng ý, đứng ra làm hồ vay tại Ngân hàng T với số tiền 700.000.000
đồng cho ông V chị H mua xe ô 5 chỗ ngồi, số máy G4NAHU803293, số
khung W13BIN001076, biển kiểm soát 43A-XXX.27; Giấy chứng nhận đăng xe
số 049906 được Phòng Cảnh sát giao thông Công an thành phố Đà Nẵng cấp ngày
22/01/2018.
Trong quá trình sử dụng xe ô 43A-XXX.27, ông Đỗ V nhiều lần mang xe đi
cầm cố, anh A đứng ra giúp giấy tvay mượn với bên nhận cầm đồ. Sau đó,
nhiều lần ông Đỗ V còn xúc phạm hai vợ chồng tôi (thể hiện qua một số tin nhắn
tôi đính kèm bản tự khai này).
Hơn thế, trong khi ông Đỗ V và chị Đặng H mâu thuẫn, ông V lại yêu cầu
chúng tôi sang tên xe ô tô 43A-XXX.27 cho lái xe của ông V. Khi bị chúng tôi phát
hiện và có phản hồi, tông V lại yêu cầu sang tên cho cá nhân ông ấy.
Chúng tôi nhận thấy, việc tự ý sang tên cho lái xe của ông V hay cá nhân ông V
trong khi còn tranh chấp với chị Đặng H là việc làm trái pháp luật nên không thực
hiện sự việc kéo dài cho đến nay. Từ trình bày trên, tôi thay mặt chồng tôi ý
kiến như sau:
1. Đề nghị Toà án yêu cầu ông Đỗ V cung cấp các tài liệu, giấy tờ thể hiện hiện
nay xe ô tô 43A-XXX.27 không thế chấp, cầm cố ở bất kỳ đâu.
5
2. Yêu cầu ông Đỗ V công khai xin lỗi vợ chồng tôi trước phiên họp hoà giải
tại Toà án trước đó ông V đã nhắn tin chửi bới, xúc phạm đến vợ chồng tôi anh
Lê A.
3. Chúng tôi sẽ sang tên xe ô 43A-XXX.27 cho người được Toà án phán
quyết khi bản án có hiệu lực pháp luật.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Đỗ T, bà Phù D trình bày:
Chúng tôi xác định cho ông V H stiền 300.000.000đồng tkhoảng
năm 2014-2015. tin tưởng người trong gia đình, chúng tôi giao tiền không lập
giấy tờ, văn bản nào. Nay, tôi yêu cầu ông V H mỗi người có trách nhiệm trả ½
số tiền còn đang nợ chúng i, tương ứng mỗi người phải trả cho chúng tôi số tiền
150.000.000đồng. Ngày 26/7/2024, ông T D đơn rút yêu cầu này nên không
xem xét giải quyết về khoản nợ này.
* Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Ngân hàng T văn bản trình
bày:
Hiện nay, việc vay nợ của ông A Đặng D đã tất toán tại Ngân hàng
nhưng giấy đăng xe ô 43A-323.27 Ngân hàng đang tạm giữ người đứng tên
trong giấy đăng xe chưa đến làm thủ tục nhận. Các bên hiện nay tranh chấp về
xe ô tô thì đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật để giải quyết.
*Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn đề nghị:
- Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa ông V và bà H.
- Giao Đỗ K, sinh ngày 25/10/2012 cho ông V nuôi dưỡng, giao Đỗ N, sinh
ngày 29/10/2018 cho H nuôi dưỡng ông V tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi
tháng 2.000.000đ.
- Chia tài sản chung vợ chồng xe ô và quyền thKiot theo tỷ lệ 50/50,
giao xe cho ông V sử dụng, giao Kiot cho H tiếp tục thuê các bên thối trả phần
chênh lệch trị giá tài sản.
Với nội dung như trên, Bản án thẩm số 24/2024/HNGĐ-ST ngày 26 tháng 7
năm 2024, Tòa án nhân dân quận K, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
- Căn cứ vào Điều 51, 55, 59, 81, 82, 83, 116 Luật Hôn nhân Gia đình; Điều
246, Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;
6
- Căn cứ vào Nghị Quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa ông Đỗ V
Đặng H.
2. Về quan hệ con chung: Giao con chung là Đỗ K, sinh ngày 25/10/2012 cho
ông Đỗ V trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung Đỗ N, sinh ngày 29/10/2018 cho
Đặng H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến tuổi thành niên (18 tuổi). Ông V có trách nhiệm
đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con Đỗ N mỗi tháng 4.000.000đ. Thời gian thực hiện
nghĩa vụ kể từ khi bản án hiệu lực pháp luật cho đến khi con khả năng lao động
hoặc có tài sản nuôi sống bản thân.
Các bên đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của
pháp luật.
3. Về tài sản chung:
Xử:
- Giao cho ông Đỗ V được quyền sở hữu xe ô nhãn hiệu Hyundai Tucson 5
chỗ ngồi, số máy G4NAHU803293, số khung W13BIN001076, biển kiểm soát 43A-
XXX.27, Giấy chứng nhận đăng xe ôtô số 049906 do Phòng Cảnh sát giao thông
Công an thành phố Đà Nẵng cấp ngày 22/01/2018 đứng tên ông Lê A.
Ông Đỗ V trách nhiệm liên hệ Ngân hàng T để nhận Giấy chứng nhận đăng
xe ô số 049906 do Phòng Cảnh sát giao thông Công an thành phố Đà Nẵng cấp
ngày 22/01/2018 đứng tên ông A liên hệ các quan Nhà nước thẩm quyền
để làm thủ tục đứng tên chủ sở hữu đối với tài sản nói trên.
- Bà Đặng H được quyền tiếp tục thuê và sử dụng Kiot kinh doanh giày dép tại
số A, tầng 2, chợ Hàn, địa chỉ: số 119 Trần Phú, phường Hải Châu 1, quận Hải
Châu, thành phố Đà Nẵng theo các thỏa thuận tại hợp đồng thuê mặt bằng kinh doanh
số 290/2--MB ngày 16.12.2014 ký kết giữa bà Đặng H với Ban Quản lý chợ Hàn.
- Ông Đỗ V có nghĩa vụ thối trả cho bà Đặng H số tiền chênh lệch trị giá tài sản
là 180.207.055đ.
Kể từ ngày bên được thi hành án đơn yêu cầu thi hành án, bên phải thi hành
án còn phải chịu tiền lãi tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án theo mức
lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.
7
4. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000 đồng, ông V phải chịu, nhưng
được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ ông V đã nộp theo biên lai số 1140
ngày 15.12.2023 của Chi cục thi hành án dân sự quận K, thành phố Đà Nẵng.
5. Án phí về việc chia tài sản khi ly hôn:
- Ông Đỗ V phải chịu 18.466.000đ, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí
11.000.000đ đã nộp theo biên lai số 1141 ngày 15.12.2023 của Chi cục thi hành án
dân sự quận K, thành phố Đà Nẵng, ông V còn phải nộp số tiền án phí thẩm
7.466.000đ.
- Bà Đặng H phải chịu 18.466.000đ.
6. Chi phí định giá tài sản 9.000.000đ, ông V phải chịu 4.500.000đ, bà H phải
chịu 4.500.000đ. Do ông V đã nộp chi cho Công ty thẩm định giá nên buộc H
có nghĩa vụ trả lại cho ông V 4.500.000đ.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo của các bên đương sự,
nghĩa vụ thi hành án.
Sau khi xét xử thẩm, ngày 06/8/2024 bị đơn Đặng H đơn kháng cáo
một phần Bản án thẩm số 24/2024/HN-ST ngày 26 tháng 7 năm 2024 của Tòa
án nhân dân quận K, đề nghị cấp phúc thẩm xem xét với hai nội dung:
Thứ nhất về cấp dưỡng nuôi con chung: Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm chấp
nhận yêu cầu của đối với việc yêu cầu ông Đỗ V trích 40% trong khối tài sản
chung của vợ chồng để làm quỹ riêng sử dụng cho cháu N. Nếu Tòa án cấp phúc thẩm
không chấp nhận thì đề nghị ông V cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 10.000.000 đồng,
đây là khoản thời gian phù hợp với thời gian sau này khi cháu N lớn lên.
Thứ hai về việc định gtài sản Kiot chợ Hàn: Theo kết quả thẩm định
giá thì xác định quyền chuyển nhượng 189.116.280 đồng, nhưng đây là Kiot do
thuê của Ban Quản lý chợ Hàn, việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định Kiot tại chợ Hàn có
giá trị đưa vào tài sản để chia không căn cứ, đề nghị cấp phúc thẩm không
chấp nhận đưa Kiot tại chợ Hàn là tài sản chung của vợ chồng để chia khi ly hôn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn giữ nguyên đơn khởi kiện, đề nghị HĐXX không chấp nhận
kháng cáo của bà Đặng H, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
8
Bđơn rút một phần nội dung kháng cáo về mức cấp dưỡng nuôi con trình
bày bổ sung về khoản thua lỗ như sau: Trong thời gian kinh doanh tại Kiot tại chợ
Hàn năm 2022-2024, việc kinh doanh bị thua lỗ sau cùng 253.857.403 đồng. Nếu
ông V không đòi quyền chia Kiot thì tự chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ
đang còn nợ khách hàng cũng như khoản vay nhân vay ngân hàng. Trường hợp
ông V vẫn cương quyết đòi chia thì yêu cầu Tòa án buộc ông Vcùng chịu trách nhiệm
với số tiền thua lỗ 253.857.403 đồng.
Các đương sự không thống nhất được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Luật bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn đề nghị HĐXX
không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tham gia phiên tòa phát
biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Quá trình
giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử Thư đã tuân
theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự thực hiện đầy đủ quyền
nghĩa vụ của mình.
- Về nội dung:
Tại phiên tòa, H rút một phần nội dung kháng cáo vmức cấp dưỡng nuôi
con chung, đnghị HĐXX căn cứ khoản 3 Điều 289 của Bluật Tố tụng dân sự:
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với nội dung kháng cáo về mức cấp dưỡng nuôi con.
Không chấp nhận kháng cáo của Đặng H vchia tài sản chung. Tuy nhiên,
do Bản án thẩm tính sai về án phôn nhân gia đình thẩm chưa buộc ông
Vphải án phí cấp dưỡng theo định kỳ là không đúng, nên cần phải sửa án sơ thẩm.
Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị HĐXX sửa Bản
án thẩm số: 24/2024/HNGĐ-ST ngày 26/7/2024 của Tòa án nhân dân quận K,
thành phố Đà Nẵng theo hướng: Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm ông V H
mỗi người phải chịu 75.000 đồng án phí cấp dưỡng theo định kỳ ông V phải chịu
300.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa kết quả tranh
tụng tại phiên toà, sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử
nhận định:
9
[1] Về tố tụng: Người quyền lợi nghĩa vliên quan ông A và người
đại diện theo ủy quyền ông A là Đặng D được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai
nhưng vắng mặt, HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự xét x vắng
mặt.
[2] Về nội dung: Xét các nội dung kháng cáo của bà Đặng H:
[2.1] Về mức cấp dưỡng nuôi con chung: Tại phiên tòa phúc thẩm, H rút
kháng cáo về nội dung này, nên HĐXX căn cứ khoản 3 Điều 289 Bộ luật Tố tụng dân
sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm nội dung này, quyết định của Bản án thẩm về mức
cấp dưỡng nuôi con có hiệu lực thi hành.
[2.2] Về tài sản chung: Xét kháng cáo của Hvề việc đề nghị cấp phúc thẩm
không chấp nhận đưa Kiot tại chợ Hàn là tài sản chung của vợ chồng để chia khi ly
hôn, thấy:
Đối với chiếc xe Hyundai Tucson 5 chỗ ngồi, biển kiểm soát 43A-XXX.27 giá
trlà 549.530.110đ, ông Vvà bà H thống nhất đây là tài sản chung của vợ chồng.
Đối với Kiot tại lô số A, tầng 2, chợ Hàn, số 119 đường Trần Phú, phường Hải
Châu 1, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng trong hợp đồng thuê với Ban Quản
chợ Hàn do Đặng H đứng tên, đây không phải là tài sản chung của vợ chồng mà là
tài sản của Nhà nước giao cho Ban Quản chợ Hàn quản lý, cho thuê, nên cấp
thẩm đã không phân chia tài sản này.
Tuy nhiên, xét về quyền thuê Kiot là một giá trị cụ thể khi người được thuê
sử dụng phải trả cho bên thuê một khoản tiền. Theo kết quả định giá thì quyền thuê
Kiot tại thời điểm xét xử thẩm giá trị 189.116.280 đồng, vậy cấp thẩm
đã xử giao bà Đặng H được quyền tiếp tục thuê sử dụng Kiot kinh doanh; còn ông
Vđược quyền sở hữu xe ô tô và nghĩa vụ thối trả cho bà Hsố tiền chênh lệch trị giá
tài sản 180.207.055đ phù hợp. Vì vậy Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không
chấp nhận nội dung kháng cáo này của bà Huyền, giữ nguyên án sơ thẩm.
[2.3] Về số tiền bị thua lỗ trong kinh doanh: Bà H trình bày trong thời gian kinh
doanh Kiot tại chợ Hàn năm 2022-2024, bị thua lỗ sau cùng là 253.857.403 đồng
yêu cầu Tòa án buộc ông V cùng chịu trách nhiệm với số tiền thua lỗ 253.857.403
đồng. Xét thấy, trong suốt qtrình tố tụng tại cấp thẩm H không yêu cầu
giải quyết về nội dung này, căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự, qui định phạm vi
xét xử phúc thẩm, HĐXX cấp phúc thẩm không xem xét giải quyết.
10
[3] Về án phí hôn nhân gia đình thẩm: Tuy không bị kháng cáo kháng
nghị, nhưng xét thấy: Về quan hệ hôn nhân, tại biên bản hòa giải ngày 30/5/2024, ông
V H đã thuận tình ly hôn, nên quy định tại khoản 3 Điều 11 Nghị quyết
01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao quy định “..3. Trường hp trước khi mở phiên tòa, các bên đương sự tự nguyện ly
hôn nhưng không thỏa thuận được về con chung và tài sản chung mà Tòa án xét xử và
ra bản án thẩm thì các đương sự phải chịu 50% mức án phí quy định đối với yêu
cầu xin ly hôn (mỗi bên phải chịu 25% mức án phí quy định);…”. Như vậy, ông Vvà
Hmỗi người phải chịu 75.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm mới đúng,
nhưng cấp sơ thẩm tuyên buộc ông Vphải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình
sơ thẩm là không đúng, HĐXX cấp phúc thẩm sửa án về nội dung này.
[4] Về án p cấp dưỡng định kỳ: Tuy không kháng cáo kháng nghị,
nhưng HĐXX thấy: Theo quy định tại điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số
326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp quản sử dụng án phí lệ phí Tòa án, thì: “Người
nghĩa vụ cấp dưỡng định kỳ theo quyết định của Tòa án phải chịu án pdân sự
thẩm như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch”.
Cấp sơ thẩm tuyên buộc ông V có trách nhiệm đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con
Đỗ N mỗi tháng 4.000.000đ, nhưng không buộc ông Vphải chịu án phí dân sự
thẩm theo quy định như trên là thiếu sót, cấp phúc thẩm sửa nội dung này, cấp
thẩm nghiêm túc rút kinh nghiệm.
[5] Về án phí phúc thẩm:
HĐXX cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của Đặng H, tuy nhiên
do sửa án thẩm về án phí hôn nhân gia đình thẩm án phí cấp dưỡng định kỳ,
nên bà H không phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 3 Điều 289 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Đình chỉ xét xphúc thẩm nội dung kháng cáo của Đặng H về mức cấp
dưỡng nuôi con chung, quyết định của Bản án sơ thẩm về mức cấp dưỡng nuôi con có
hiệu lực thi hành.
- Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
11
Không chấp nhận kháng cáo của Đặng H, sửa một phần Bản án hôn nhân
gia đình thẩm số 24/2024/HNGĐ-ST ngày 26 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân
dân quận K, thành phố Đà Nẵng về án phí hôn nhân gia đình thẩm và án phí cấp
dưỡng định kỳ.
- Căn cứ các Điều 33, 59 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
- Căn cứ vào điểm a khoản 5 điểm a khoản 6 Điều 27; khoản 2 Điều 29 Nghị
quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án .
Xử:
1. Về tài sản chung:
- Giao cho ông Đỗ V được quyền sở hữu xe ô nhãn hiệu Hyundai Tucson 5
chỗ ngồi, số máy G4NAHU803293, số khung W13BIN001076, biển kiểm soát 43A-
XXX.27, Giấy chứng nhận đăng xe ôtô số 049906 do Phòng Cảnh sát giao thông
Công an thành phố Đà Nẵng cấp ngày 22/01/2018 đứng tên ông Lê A.
Ông Đỗ V trách nhiệm liên hệ Ngân hàng T để nhận Giấy chứng nhận đăng
xe ô số 049906 do Phòng Cảnh sát giao thông Công an thành phố Đà Nẵng cấp
ngày 22/01/2018 đứng tên ông A liên hệ các quan Nhà nước thẩm quyền
để làm thủ tục đứng tên chủ sở hữu đối với tài sản nói trên.
- Bà Đặng H được quyền tiếp tục thuê và sử dụng Kiot kinh doanh giày dép tại
số A, tầng 2, chợ Hàn, địa chỉ: số 119 Trần Phú, phường Hải Châu 1, quận Hải
Châu, thành phố Đà Nẵng theo các thỏa thuận tại Hợp đồng thuê mặt bằng kinh doanh
số 290/2--MB ngày 16.12.2014 ký kết giữa bà Đặng H với Ban Quản lý chợ Hàn.
- Ông Đỗ V có nghĩa vụ thối trả cho bà Đặng H số tiền chênh lệch trị giá tài sản
là 180.207.055 đồng.
2. Án phí về việc chia tài sản chung khi ly hôn:
- Ông Đỗ V phải chịu 18.466.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án
phí 11.000.000 đồng đã nộp theo biên lai số 1141 ngày 15 tháng 12 năm 2023 của Chi
cục Thi hành án dân sự quận K, thành phố Đà Nẵng, ông V còn phải nộp số tiền án
phí chia tài sản chung là 7.466.000 đồng.
- Bà Đặng H phải chịu 18.466.000 đồng.
3. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm:
Bà Đặng H phải chịu 75.000 đồng.
12
Ông Đỗ V phải chịu 75.000 đồng, nhưng được trừ vào tạm ứng án phí 300.000
đồng ông Vđã nộp theo biên lai số 1140 ngày 15 tháng 12 năm 2023 của Chi cục Thi
hành án dân sự quận K, thành phố Đà Nẵng. Ông V được hoàn lại 125.000 đồng án
phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
4. Án phí cấp dưỡng nuôi con định kỳ: Ông Đỗ V phải chịu là 300.000 đồng.
5. Chi phí định giá tài sản 9.000.000 đồng, ông V phải chịu 4.500.000 đồng,
Hphải chịu 4.500.000 đồng. Do ông V đã nộp chi cho Công ty thẩm định giá
nên buộc bà H có nghĩa vụ trả lại cho ông V 4.500.000 đồng.
Kể từ ngày bên được thi hành án đơn yêu cầu thi hành án, bên phải thi hành
án còn phải chịu tiền lãi tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án theo mc
lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.
6. Về án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm: Đặng H không phải chịu,
hoàn lại 300.000 đồng tạm ứng án phí cho bà Đặng H đã nộp theo biên lai số 0005790
ngày 14 tháng 8 năm 2024 của Chi Cục Thi hành án dân sự quận K, thành phố Đà
Nẵng.
Các phần quyết định khác của bản án thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng
cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 9 Luật Thi hành án dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân
sự.
Nơi nhận
- Viện kiểm sát nhân dân TP. Đà Nẵng;
- Chi Cục thi hành án dân sự quận K;
- Tòa án nhân dân quận K;
- Các đương sự;
- Lưu HS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
13
Đỗ Thị Thúy Năng
Tải về
Bản án số 26/2024/HNGĐ-PT Bản án số 26/2024/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 26/2024/HNGĐ-PT Bản án số 26/2024/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất