Bản án số 54/2024/HNGĐ-ST ngày 28/05/2024 của TAND huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 54/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 54/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 54/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 54/2024/HNGĐ-ST ngày 28/05/2024 của TAND huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Mỏ Cày Nam (TAND tỉnh Bến Tre) |
Số hiệu: | 54/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/05/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Công nhận sự thuận tình ly hôn của anh D và chị Ph |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆNMỎCÀYNAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNHBẾNTRE
Bản án số: 54/2024/HNGĐ - ST
Ngày: 28-5-2024.
V/v “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con,
chia tài sản khi ly hôn”.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM, TỈNH BẾN TRE
- Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Hoàng Kim Sang.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Mai Thị Nhặc
2. Bà Trần Thị Sẩm
- Thư ký phiên tòa: Ông Đinh Nhật Trường - Thư ký Tòa án nhân dân
huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre
tham gia phiên tòa: Bà Lê Thị Diệu – Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 5 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày
Nam mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số:
05/2024/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2024 về “Ly hôn, tranh chấp về
nuôi con, chia tài sản khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
120/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 4 năm 2024 và Thông báo mở lại
phiên tòa số: 192/TB-TA ngày 14 tháng 5 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Trúc Ph, sinh năm 1985; Địa chỉ: Ấp BT,
xã AT, huyện M, tỉnh Bến Tre.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1977; Địa chỉ: Ấp AP, xã AT,
huyện M, tỉnh Bến Tre.
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm
1941; Địa chỉ: Ấp BT, xã AT, huyện M, tỉnh Bến Tre.
(Tất cả các đương sự đều có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
[
Tại đơn khởi kiện đề ngày 06/11/2023; Bản tự khai và các lời trình bày
trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm; nguyên đơn chị
Nguyễn Thị Trúc Ph trình bày:
Về hôn nhân: Trên cơ sở tự tìm hiểu quen biết nhau trước, chị và anh
2
Nguyễn Văn D tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban
nhân dân xã AT, huyện M, tỉnh Bến Tre, vào năm 2009. Sau khi kết hôn, anh chị
sống hạnh phúc đến năm 2015 thì bắt đầu mất hạnh phúc. Nguyên nhân mất
hạnh phúc là do anh D thường xuyên nhậu nhẹt về đánh đập chị, đuổi chị và các
con. Anh chị chính thức sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay. Trong thời gian
sống ly thân, anh chị không có tạo điều kiện để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nay
chị yêu cầu được ly hôn với anh D do không còn tình cảm.
Về nuôi con chung: Trong thời gian chung sống, anh chị có 02 con chung
tên Nguyễn Văn B, sinh ngày 17/7/2010 và Nguyễn Thị Trúc L, sinh ngày
18/4/2014. Sau khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi hai con chung
và yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi hai con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng/01
cháu cho đến khi cháu B, cháu L tròn 18 tuổi. Chị không biết mức thu nhập hiện
tại của anh D là bao nhiêu do chị không sống chung với anh D đã lâu.
Về chia tài sản:
Về tài sản chung: Không có.
Về nợ chung: Trong thời gian chung sống, anh chị có nợ bà Nguyễn Thị L
(bà nội) số tiền 38.000.000 đồng. Sau khi ly hôn, chị yêu cầu anh D hoàn trả cho
bà L 28.000.000 đồng, chị đồng ý hoàn trả cho bà L 10.000.000 đồng. Số tiền
mượn bà L đa số anh D tự mượn, có vài lần anh chị cùng đi mượn, khi mượn
không có lập biên nhận, chị tự ghi số tiền theo dõi, có khi mượn vài trăm ngàn,
có khi vài triệu để đi đám tiệc, chi xài trong gia đình. Thời gian đầu mượn không
có ghi ngày tháng năm, từ năm 2014 về sau mới ghi thời gian cụ thể. Số tiền chi
tiết mượn được ghi rõ trong các giấy tập học sinh chị đã cung cấp cho Tòa án.
Chị không có nhận của anh D số tiền 11.600.000 đồng để trả cho bà L như anh
D trình bày. Tại các giấy tập học sinh chị cung cấp cho Tòa án, chị có ghi mượn
cô 2 (bà M) là do bà L nói tiền bà L cho chị và anh D mượn có một số là tiền
của bà M. Nay chị xác định chị chỉ trực tiếp hỏi mượn tiền của bà L và nhận tiền
từ bà L, không có mượn tiền của bà M.
Tại bản tự khai và các lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án cũng
như tại phiên tòa sơ thẩm; bị đơn anh Nguyễn Văn D trình bày như sau:
Về hôn nhân: Anh thống nhất hoàn toàn phần trình bày của chị Ph về điều
kiện, thời gian kết hôn và quá trình chung sống. Về nguyên nhân mất hạnh phúc
anh thừa nhận có nhậu nhẹt như chị Ph trình bày nhưng việc anh đánh, chửi chị
Ph là có lý do và anh chỉ đánh một lần, sau đó chị Ph bỏ về nhà cha mẹ ruột và
anh chị sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay anh đồng ý ly hôn với chị Ph do
không còn tình cảm.
Về nuôi con chung: Trong thời gian chung sống, anh chị có 02 con chung
tên Nguyễn Văn B, sinh ngày 17/7/2010 và Nguyễn Thị Trúc L, sinh ngày
3
18/4/2014. Hiện các con chung đang sống với chị Ph từ lúc anh chị ly thân cho
đến nay. Sau khi ly hôn, anh yêu cầu mỗi người nuôi một con chung, cháu nào
cũng được và không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Trường hợp Tòa án giao hai
con chung cho chị Ph trực tiếp nuôi, anh không cấp dưỡng nuôi con, anh có bao
nhiêu tiền thì cho con bấy nhiêu do hiện tại anh không có thu nhập.
Về chia tài sản:
Tài sản chung: Không có.
Nợ chung: Trong thời gian chung sống, anh chị không có nợ ai.
Anh thừa nhận trước đây anh và chị Ph có hỏi mượn tiền của bà Nguyễn
Thị L tổng cộng 11.600.000 đồng, mục đích để mua ti vi, vô điện, mua cây ca
cao, ghế nhựa, đi đám tiệc nhưng anh đã đưa số tiền này cho chị Ph đi trả cho bà
L xong. Số tiền mượn bà L thường là chị Ph đi mượn, anh cũng có cùng chị Ph
đi mượn vài lần. Ngoài ra, anh còn mượn bà L một đôi bông tai 01 chỉ vàng và
đã trả xong. Nay anh không còn nợ bà L số tiền nào nên không đồng ý yêu cầu
của bà L.
Tại đơn yêu cầu độc lập đề ngày 23/02/2024, bản tự khai và các lời trình
bày trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, người có quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị L trình bày như sau:
Bà là bà nội của chị Nguyễn Thị Trúc Ph. Vào thời gian nào không nhớ rõ,
do đã rất lâu, bà có cho vợ chồng chị Ph và anh D mượn tiền, cho mượn làm
nhiều lần, có khi anh D, có khi chị Ph đến hỏi mượn nhưng chị Ph đến hỏi mượn
nhiều lần hơn. Tổng số tiền bà cho vợ chồng chị Ph và anh D mượn là
38.000.000 đồng, không có viết biên nhận. Như bà trình bày ở trên, do thời gian
đã lâu nên bà không nhớ rõ chính xác những lần bà cho chị Ph và anh D mượn
tiền có đúng như giấy chị Ph đã tự ghi để cung cấp cho Tòa án không. Bà không
có nhận số tiền 11.600.000 đồng từ chị Ph, bà chỉ có nhận một đôi bông 01 chỉ
vàng.
Nay chị Ph và anh D ly hôn nên bà yêu cầu chị Ph và anh D có nghĩa vụ
liên đới hòa trả cho bà số tiền 38.000.000 đồng.
Tại biên bản lấy ý kiến đề ngày 22/01/2024, cháu Nguyễn Văn B và cháu
Nguyễn Thị Trúc L đều trình bày như sau:
Nếu cha và mẹ cháu ly hôn với nhau, cháu có nguyện vọng được tiếp tục
sống với mẹ.
Tại Biên bản xác minh đề ngày 25/01/2024 về nguyên nhân mâu thuẫn
của chị Nguyễn Thị Trúc Ph và anh Nguyễn Văn D có nội dung như sau:
Chị Nguyễn Thị Trúc Ph và anh Nguyễn Văn D có thời gian sinh sống tại
ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre. Anh D và chị Ph có hai người con chung,
hiện đang đi học và sinh sống tại xã T. Trong quá trình sinh sống tại địa phương
4
và đến thời điểm hiện tại, xã không có tiếp nhận yêu cầu nào của chị Ph và anh
D nhờ chính quyền địa phương giải quyết các vấn đề phát sinh trong cuộc sống
hôn nhân nên địa phương không nắm rõ về tình trạng hôn nhân cũng như
nguyên nhân phát sinh tranh chấp của chị Ph và anh D.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam phát
biểu quan điểm giải quyết vụ án:
- Về tố tụng: Việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và
Thư ký là đảm bảo đúng pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của những người
tham gia tố tụng là đảm bảo đúng quy định pháp luật.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 55, 58, 81,
82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; các Điều 463, 466, 468 của
Bộ luật Dân sự năm 2015: Ghi nhận sự thuận tình ly hôn của chị Nguyễn Thị
Trúc Ph và anh Nguyễn Văn D. Về nuôi con chung: Chị Ph được tiếp tục trực
tiếp nuôi hai con chung tên Nguyễn Văn B, sinh ngày 17/7/2010 và Nguyễn Thị
Trúc L, sinh ngày 18/4/2014; Anh D có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai con chung
mỗi tháng 1.000.000 đồng/01 cháu cho đến khi cháu B và cháu L tròn 18 tuổi.
Về tài sản chung: Không có nên không xem xét giải quyết. Về nợ chung: Buộc
anh D và chị Ph có nghĩa vụ liên đới hoàn trả cho bà L số tiền 11.600.000 đồng,
trong đó chia theo phần anh D, chị Ph, mỗi người có nghĩa vụ hoàn trả
5.800.000 đồng. Buộc chị Ph có nghĩa vụ hoàn trả cho bà L số tiền 26.400.000
đồng. Ghi nhận bà L không yêu cầu tính lãi đối với số tiền chị Ph, anh D có
nghĩa vụ hoàn trả. Về án phí: Các đương sự phải chịu theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được
xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng, Tòa án nhân dân huyện
Mỏ Cày Nam nhận định:
[1] Về hôn nhân: Hôn nhân của chị Nguyễn Thị Trúc Ph và anh Nguyễn
Văn D là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, anh chị sống hạnh phúc đến năm
2015 thì bắt đầu mất hạnh phúc. Theo chị Ph trình bày nguyên nhân mất hạnh
phúc là do anh D thường xuyên nhậu nhẹt về đánh đập chị, đuổi chị và các con.
Anh chị chính thức sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay. Nay chị yêu cầu
được ly hôn với anh D do không còn tình cảm. Anh D thừa nhận anh có nhậu
nhẹt như chị Ph trình bày nhưng việc anh đánh, chửi chị Ph là có lý do và anh
chỉ đánh một lần, sau đó chị Ph bỏ về nhà cha mẹ ruột sống cho đến nay. Nay
anh đồng ý ly hôn với chị Ph do không còn tình cảm. Xét thấy, chị Ph và anh D
đã có thời gian chung sống hạnh phúc và có với nhau 02 con chung nhưng chỉ vì
những mâu thuẫn trong cuộc sống hôn nhân, anh chị không tìm giải pháp hàn
gắn mà lại sống ly thân. Tại phiên tòa, chị Ph, anh D đều thuận tình ly hôn do
5
không còn tình cảm. Điều đó chứng tỏ rằng cuộc sống hôn nhân của anh chị đã
lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn
nhân không đạt được nên áp dụng Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 ghi nhận sự thuận tình ly hôn của chị Ph và anh D là phù hợp.
[3] Về nuôi con chung: Trong thời gian chung sống, anh chị có 02 con
chung Nguyễn Văn B, sinh ngày 17/7/2010 và Nguyễn Thị Trúc L, sinh ngày
18/4/2014. Sau khi ly hôn, chị Ph có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp nuôi
hai con chung, anh D có nguyện vọng được trực tiếp nuôi một trong hai con
chung. Tại biên bản lấy ý kiến cùng ngày 22/01/2024, cháu B và cháu L đều có
nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ.
Xét thấy, hiện tại anh D không có thu nhập ổn định, trong khi đó chị Ph đã
trực tiếp nuôi hai con chung từ lúc anh chị ly thân cho đến nay và vẫn đảm bảo
điều kiện để nuôi dưỡng hai con chung. Vì vậy, nhằm đảm bảo sự phát triển ổn
định về thể chất, tinh thần và tâm sinh lý của cháu B và cháu L nên giao cháu B
và cháu L cho chị Ph tiếp tục trực tiếp nuôi sau khi anh chị ly hôn là phù hợp với
quy định pháp luật, không trái đạo đức xã hội và phù hợp với nguyện vọng của
cháu B, cháu L.
Đối với yêu cầu cấp dưỡng, chị Ph yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi hai con
chung mỗi tháng 2.000.000 đồng/01 cháu nhưng anh D không đồng ý do anh
không có thu nhập ổn định. Xét thấy, đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo
qui định của pháp luật thì sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có
quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với con chưa thành niên, việc cấp dưỡng nuôi
con đồng thời là quyền và nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con đối với
con chưa thành niên. Nên để nhằm đảm bảo quyền lợi cho cháu B và cháu L cần
chấp nhận yêu cầu của chị Ph buộc anh D có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu B và
cháu L. Tuy nhiên, mức cấp dưỡng căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của
người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng
theo mức sống trung bình tại địa phương. Ngoài ra, theo quy định pháp luật mức
cấp dưỡng nuôi con là không được thấp hơn ½ mức lương tối thiểu. Biết rằng
mức lương tối thiểu do Chính phủ qui định tại thời điểm xét xử là 1.800.000
đồng. Ngoài ra, nhu cầu trung bình hàng tháng của một đứa trẻ trong độ tuổi của
cháu B và cháu L tại địa phương là khoảng trên 2.000.000 đồng. Vì vậy, buộc
anh D phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu B, cháu L mỗi tháng 1.000.000
đồng/01 cháu cho đến khi cháu B, cháu L tròn 18 tuổi là phù hợp luật định, phù
hợp với khả năng của anh D và đảm bảo đủ điều kiện vật chất cho sự phát triển
toàn diện về thể chất và tinh thần của cháu B, cháu L, đồng thời cũng nâng cao
quyền và nghĩa vụ đối với con chung của người không trực tiếp nuôi con.
[4] Về chia tài sản:
6
[4.1] Về tài sản chung: Chị Ph và anh D thống nhất không có nên không
xem xét giải quyết.
[4.2] Về nợ chung: Tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị L yêu cầu anh D và chị
Ph có nghĩa vụ liên đới hoàn trả cho bà số tiền nợ 38.000.000 đồng, không yêu
cầu tính lãi. Chị Ph thừa nhận trong thời gian chung sống chị và anh D có mượn
tiền của bà Lỳ và hiện còn nợ số tiền 38.000.000 đồng nhưng chị cho rằng anh D
có nghĩa vụ hoàn trả cho bà L 28.000.000 đồng, chị Ph đồng ý hoàn trả cho bà L
10.000.000 đồng. Anh D cho rằng trong thời gian chung sống anh và chị Ph có
mượn của bà L tổng cộng 11.600.000 đồng nhưng anh đã đưa tiền cho chị P trả
bà L xong nên hiện không còn nợ bà L và anh không đồng ý yêu cầu của bà L.
Xét thấy, bà L và chị Ph cho rằng vợ chồng anh D và chị Ph có mượn tiền
của bà L và hiện anh D, chị Ph còn nợ lại bà L số tiền 38.000.000 đồng nhưng
anh D không thừa nhận và bà L, chị Ph không cung cấp được chứng cứ chứng
minh cho lời trình bày của mình. Bà L cho rằng khi bà cho anh D, chị Ph mượn
tiền không có lập biên nhận, bà L không nhớ chính xác thời gian, số tiền cụ thể
mỗi lần cho mượn và chị Ph hay anh D là người đến mượn tiền. Trong khi đó,
chị Ph cung cấp cho Tòa án giấy tập học sinh thể hiện thời gian, số tiền, mục
đích mượn của mỗi lần nhưng đây là chứng cứ do chị Ph tự ghi để theo dõi,
không có sự xác nhận của bà L, chị Ph và anh D. Tuy nhiên, anh D thừa nhận có
mượn của bà L tổng cộng 11.600.000 đồng và anh cho rằng đã đưa chị Ph trả
cho bà L nhưng anh không cung cấp được chứng cứ chứng minh, bà L và chị Ph
đều không thừa nhận. Vì vậy, có cơ sở buộc chị Ph và anh D có nghĩa vụ liên
đới hoàn trả cho bà L số tiền 11.600.000 đồng là phù hợp. Trong đó, chia theo
phần chị Ph, anh D, mỗi người có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Lỳ số tiền 5.800.000
đồng.
Đối với số tiền nợ còn lại 26.400.000 đồng, bà L cho rằng cho vợ chồng
chị Ph, anh D mượn nhưng không cung cấp được chứng cứ, chứng minh cho lời
trình bày của mình. Trong khi đó, chị Ph thừa nhận vợ chồng chị có mượn của
bà L số tiền này, anh D không thừa nhận. Vì vậy, buộc chị Ph có nghĩa vụ hoàn
trả cho bà L số tiền 26.400.000 đồng là phù hợp.
[5] Về án phí:
Chị Nguyễn Thị Trúc Ph phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm và anh
Nguyễn Văn D phải chịu án phí cấp dưỡng theo quy định tại Điều 27 Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chị Ph, anh D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với giá trị tài sản có
nghĩa vụ hoàn trả cho bà L theo quy định tại khoản 6 Điều 26 Nghị quyết số
7
326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Trong đó:
+ Chị Ph phải chịu: (5.800.000 đồng + 26.400.000 đồng) x 5% =
1.600.000 đồng.
+ Anh D phải chịu 300.000 đồng.
[6] Xét về quan điểm giải quyết vụ án của vị Đại diện Viện kiểm sát nhân
dân huyện Mỏ Cày Nam là phù hợp hoàn toàn với nhận định của Tòa nên ghi
nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 28, 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 463,
466, 468 của Bộ luật Dân sự; các Điều 55, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2014; Điều 17 Luật phí và lệ phí; các Điều 26, 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về hôn nhân: Ghi nhận sự thuận tình ly hôn của chị Nguyễn Thị Trúc
Ph và anh Nguyễn Văn D.
Chị Nguyễn Thị Trúc Ph và anh Nguyễn Văn D được ly hôn với nhau.
2. Về nuôi con chung: Sau khi ly hôn, chị Nguyễn Thị Trúc Ph được tiếp
tục trực tiếp nuôi hai con chung tên Nguyễn Văn B, sinh ngày 17/7/2010 và
Nguyễn Thị Trúc L, sinh ngày 18/4/2014; Anh Nguyễn Văn D có nghĩa vụ cấp
dưỡng nuôi hai con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng/01 cháu. Thời hạn cấp
dưỡng: Tính từ tháng 5/2024 cho đến khi cháu B, cháu L tròn 18 tuổi. Hình thức
cấp dưỡng: Mỗi tháng cấp 01 lần.
Sau khi ly hôn, cha, mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành
vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và các luật khác có liên quan.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai
được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản
trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền
thăm nom con của người đó.
Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con
thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình, yêu
cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền
được nuôi con của mình. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình
không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm
8
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân,
tổ chức quy định tại khoản 5 điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể
quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Vì lợi ích của con chung chưa thành niên, theo yêu cầu của chị Ph, anh D,
Toà án có thể thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về chia tài sản:
3.1. Về tài sản chung: Chị Ph và anh D thống nhất không có nên không
xem xét giải quyết.
3.2. Về nợ chung:
Buộc chị Nguyễn Thị Trúc Ph và anh Nguyễn Văn D có nghĩa vụ liên đới
hoàn trả cho bà Nguyễn Thị L số tiền 11.600.000 đồng (Mười một triệu sáu trăm
nghìn đồng). Trong đó, chia theo phần chị Ph, anh D, mỗi người có nghĩa vụ
hoàn trả 5.800.000 đồng (Năm triệu tám trăm nghìn đồng).
Buộc chị Nguyễn Thị Trúc Ph có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Nguyễn Thị L
số tiền 26.400.000 đồng (Hai mươi sáu triệu bốn trăm nghìn đồng)
Ghi nhận bà L không yêu cầu tính lãi đối với số tiền chị Ph, anh D có
nghĩa vụ hoàn trả.
4. Về án phí:
Chị Nguyễn Thị Trúc Ph phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án
phí hôn nhân sơ thẩm và 1.600.000 đồng (Một triệu sáu trăm nghìn đồng) án phí
dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba
trăm nghìn) đồng chị Ph đã nộp theo biên lai thu số 0003765 ngày 03/01/2024
của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỏ Cày Nam nên buộc chị Ph phải nộp
thêm 1.600.000 đồng (Một triệu sáu trăm nghìn đồng).
Buộc anh Nguyễn Văn D phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án
phí cấp dưỡng và 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Bà Nguyễn Thị L được miễn nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm do
thuộc diện người cao tuổi.
5. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ
quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày
có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền
phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi
hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức
lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác.
6. Các đương sự có mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15
(mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc
9
không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ
ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Bến Tre (1b); THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND huyện Mỏ Cày Nam (1b);
- Chi cục THADS huyện Mỏ Cày Nam (1b);
- UBND xã An Thạnh (66, 15/6/2009) (1b);
- Các đương sự (3b);
- Lưu: Hồ sơ, VP (2b).
Nguyễn Hoàng Kim Sang
Tải về
Bản án số 54/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 54/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 14/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Bản án số 175/2024/HNGĐ-PT ngày 12/12/2024 của TAND TP. Hà Nội về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Bản án số 26/2024/HNGĐ-PT ngày 02/12/2024 của TAND TP. Đà Nẵng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 02/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 02/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm