Bản án số 53/2024/HNGĐ-ST ngày 30/08/2024 của TAND Q. Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng về tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 53/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 53/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 53/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 53/2024/HNGĐ-ST ngày 30/08/2024 của TAND Q. Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng về tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND Q. Cẩm Lệ (TAND TP. Đà Nẵng) |
Số hiệu: | 53/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/08/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Nguyễn Đăng P và bà Nguyễn Thị H |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN C - TP ĐÀ NẴNG
Bản án số: 53/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 30-8-2024
v/v tranh chấp chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN C, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Ngô Thị Thanh Tuyền
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Mai Văn Du
Ông Nguyễn Văn Trình
- Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Nguyên Khang là Thư ký của Tòa án nhân
dân quận C, thành phố Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận C, thành phố Đà Nẵng: Ông Tề
Hoàng Anh Tuấn - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận C, thành phố
Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số:
104/2023/HNGĐ-ST ngày 18 tháng 4 năm 2023 về việc: “Chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
135/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 7 năm 2024 và Quyết định hoãn
phiên toà số 126/2024/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2024, giữa:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đăng P - Sinh năm 1974; Địa chỉ: Số 43
đường C, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo uỷ quyền:
Ông Nguyễn Trung T - Sinh năm: 1971 (Có mặt).
Ông Trần Quang T1 - Sinh năm: 1997 (Có mặt).
Địa chỉ liên hệ: Số 45 đường Nguyễn K, quận H, thành phố Đà Nẵng
(Hợp đồng uỷ quyền lập ngày 12/9/2023).
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị H - Sinh năm 1977; Địa chỉ: Số 43 đường C,
phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm
giam Hòa Sơn (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Chi cục Thi hành án dân sự quận C, thành phố Đà Nẵng. Địa chỉ: Số
42 đường B, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng (Vắng mặt, có đơn xin xét
xử vắng mặt).
3.2. Bà Trần Thị Phương T2 - Sinh năm: 1985. Địa chỉ liên hệ: Số 19
đường C, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng. Người đại diện theo ủy quyền:
2
Bà Lê Khánh L - Địa chỉ liên hệ: Số 31 đường Hồ Biểu Chánh, quận Hải Châu,
thành phố Đà Nẵng (Vắng mặt).
3.3. Bà Nguyễn Hoàng T4 - Sinh năm: 1997 (Có mặt).
3.4. Ông Nguyễn Đăng N - Sinh năm: 1998 (Có mặt).
3.5. Bà Nguyễn Thị Châu G - Sinh năm: 1998 (Có mặt, vắng mặt khi Tòa
án tuyên án).
Cùng địa chỉ: Số 43 đường C, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng
3.6. Ông Nguyễn Đăng L - Sinh năm: 1970. Địa chỉ: Số 238 đường V,
quận C, thành phố Đà Nẵng (Vắng mặt).
3.7. Ông Huỳnh Ngọc H - Sinh năm: 1983. Địa chỉ: Số 157 đường P,
quận C, thành phố Đà Nẵng (Có mặt).
3.8. Bà Nguyễn Thị Ngọc T5 - Sinh năm: 1977. Địa chỉ: Số 15/19 đường
V, Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt).
3.9. Bà Nguyễn Thị Mỹ H - Sinh năm: 1964. Địa chỉ: Tổ 05 phường K,
quận C, thành phố Đà Nẵng (Vắng mặt).
3.10. Ông Nguyễn Đăng D - Sinh năm: 1966. Địa chỉ: Số 119A đường C,
quận H, thành phố Đà Nẵng (Vắng mặt).
3.11. Bà Nguyễn Thị M - Sinh năm: 1968. Địa chỉ: Tổ 05 phường K,
quận C, thành phố Đà Nẵng (Vắng mặt).
3.12. Bà Nguyễn Thị Ngọc T6 - Sinh năm: 1979. Địa chỉ: Tổ 02 xã H,
huyện H, thành phố Đà Nẵng (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Trong đơn khởi kiện đề ngày 28/3/2023 của nguyên đơn ông Nguyễn
Đăng P, bản trình bày ý kiến, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người
đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Đăng P là ông Trần Quang
T1 trình bày:
Ông Nguyễn Đăng P và bà Nguyễn Thị H kết hôn vào năm 1996 tại
UBND phường Khuê Trung, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng cũ, nay là UBND
phường Khuê Trung, quận C, thành phố Đà Nẵng, theo giấy chứng nhận đăng
ký kết hôn số 1996 đăng ký ngày 17/10/1996. Trong thời kỳ hôn nhân ông P và
bà Hiền có tạo lập được tài sản chung sau:
1. Thửa đất số 33, tờ bản đồ số 15, diện tích 284m
2
đất trồng cây hằng
năm tọa lạc tại địa chỉ: Tổ 14, phường Hòa Phát, quận C, thành phố Đà Nẵng
(Sau đây gọi tắt là thửa đất số 33, tờ bản đồ số 15) (có Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CC 871909
do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 07/3/2016, đã
được chỉnh lý biến động vào ngày 24/12/2019 cho ông Nguyễn Đăng P, bà
Nguyễn Thị H )
2. Thửa đất số 1905, tờ bản đồ số 11, diện tích 270m
2
đất trồng cây hằng
năm, tọa lạc tại địa chỉ: Tổ 22, phường Hòa Phát, quận C, thành phố Đà Nẵng
3
(Sau đây gọi tắt là thửa đất số 1905, tờ bản đồ số 11) (có Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CC
871911 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày
07/3/2016, đã được chỉnh lý biến động vào ngày 24/12/2019 cho ông Nguyễn
Đăng P, bà Nguyễn Thị H )
3. Nhà và đất tại thửa đất số 20, tờ bản đồ số B1-97, diện tích 100m
2
đất ở
đô thị, tọa lạc tại địa chỉ: Khu đô thị sinh thái ven sông Hòa Xuân - Giai đoạn 2,
phường Hòa Xuân, quận C, thành phố Đà Nẵng, nay là: Số 43 đường C, phường
H, quận C, thành phố Đà Nẵng (Sau đây gọi tắt là nhà và đất tại thửa đất số 20,
tờ bản đồ B1-97) (có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất số CA 443626 do Sở Tài nguyên và Môi trường
thành phố Đà Nẵng cấp ngày 14/8/2015, đã được chỉnh lý biến động vào ngày
28/9/2015 cho ông Nguyễn Đăng P, bà Nguyễn Thị H ).
Về giá trị quyền sử dụng đất thì ông P thống nhất với kết quả định giá, cụ
thể:
1. Quyền sử dụng đất trồng cây hằng năm khác tại thửa đất số 33, tờ bản
đồ số 15 có giá trị: 166.992.000 đồng.
2. Quyền sử dụng đất trồng cây hằng năm khác tại thửa đất số 1905, tờ
bản đồ số 11 có giá trị: 79.380.000 đồng.
3. Quyền sử dụng đất ở tại thửa đất số 20, tờ bản đồ số B1-97 có giá trị:
3.215.700.000 đồng và tài sản gắn liền với đất có giá trị là 935.760.000 đồng,
tổng cộng là 4.151.460.000 đồng.
Nguồn gốc tạo lập nhà và đất tại thửa đất số 20, tờ bản đồ số B1-97 như
sau:
Về đất: Tiền mua đất là 620.000.000 đồng (gồm: tiền mua đất là
550.000.000 đồng và tiền dịch vụ 70.000.000 đồng). Trong đó: Ông P tích cóp
được 120.000.000 đồng và gia đình ông P gồm ba, các anh chị em đã đóng góp số
tiền là 500.000.000 đồng, cụ thể: Ông Nguyễn Đăng Kế (là cha ruột ông P), hiện
đã mất: góp 100.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị Mỹ H (là chị gái ông P) góp
30.000.000 đồng, ông Nguyễn Đăng D (là anh trai ông P) góp 50.000.000 đồng; bà
Nguyễn Thị M (là chị gái ông P) góp 70.000.000 đồng, ông Nguyễn Đăng L (là
anh trai ông P) góp 100.000.000 đồng và bà Nguyễn Thị Ngọc Thúy (là em gái ông
P) góp 150.000.000 đồng. Với số tiền đóng góp trên anh chị em ông P đã về nhà
đưa tiền mặt cho ông Kế. Đến giữa tháng 6/2015 khi ra văn phòng công chứng
nhận chuyển nhượng lô đất này, ông Kế và bà Nguyễn Thị Ngọc T6 (là em gái
ông P) đến tòa nhà SUNGROUP để giao tiền cho bên bán. Sau khi hoàn thành
công chứng xong, ông Kế giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng lô đất và gọi ông
P về nhà (có sự chứng kiến các anh chị em) để trao cho ông P.
Về phần tiền xây nhà: Đến tháng 4/2016, ông P quyết định xây nhà. Tuy
nhiên, khi mở móng thì ông P chỉ có 80.000.000 đồng, ông P về nhà tâm sự với
ông Kế xin được hỗ trợ cho thêm tiền xây nhà. Sau đó, ông Kế mở tủ lấy tiền
mặt cho ông P 100.000.000 đồng, dưới có sự chứng kiến của ông Nguyễn Đăng
4
L . Ngoài ra, ông P điện thoại cho tất cả anh chị em xin hỗ trợ thêm. Trong đó,
bà Nguyễn Thị Ngọc Thúy 03 lần chuyển khoản vào tài khoản của ông P với
tổng số tiền 250.000.000 đồng, cụ thể: ngày 4/5/2016 chuyển số tiền
100.000.000 đồng và ngày 8/7/2016 chuyển số tiền 100.000.000 đồng do nhân
viên của bà Thúy là bà Tạ Thị Hồng Phượng chuyển cho ông P, ngày 01/9/2016:
bà Thúy tiếp tục chuyển cho ông P số tiền 50.000.000 đồng. Ông Nguyễn Đăng
L có qua nhà ông P cho tiền mặt ông P 100.000.000 đồng. Số tiền mà gia đình
đã hỗ trợ cho ông P xây nhà là 450.000.000 đồng.
Do đó, tổng số tiền mà gia đình ông P đã hỗ trợ ông P mua đất, xây nhà là
950.000.000 đồng (Trong đó: tiền mua đất là 500.000.000 đồng và tiền xây nhà
là 450.000.000 đồng).
Vì vậy, ông Nguyễn Đăng P yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân giữa ông và bà Nguyễn Thị H , theo đó, ông Nguyễn Đăng P đề
nghị Tòa án chia tài sản chung là thửa đất số 33, tờ bản đồ số 15; thửa đất số
1905, tờ bản đồ số 11 và nhà, đất tại thửa đất số 20, tờ bản đồ số B1-97 theo tỷ
lệ 7/3, trong đó ông được hưởng 70% giá trị tài sản, bà Nguyễn Thị H được
hưởng 30% giá trị các tài sản nêu trên.
Quá trình giải quyết vụ án, ngày 28/8/2024, nguyên đơn ông Nguyễn
Đăng P có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện chia tài sản đối với thửa đất
số 33, tờ bản đồ số 15.
Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn
Đăng P giữ nguyên ý kiến rút một phần yêu cầu khởi kiện chia tài sản đối với
thửa đất số 33, tờ bản đồ số 15 nêu trên và đề nghị HĐXX xem xét chấp nhận
toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn về chia tài sản chung như sau:
Đối với nhà và đất tại thửa đất số 20, tờ bản đồ số B1-97: Đây là thành
quả của sự cố gắng chung từ gia đình ông P, đồng thời thể hiện ước nguyện cuối
đời của cha ông, nhằm bảo đảm chỗ ở ổn định cho các thế hệ sau. Do đó, ông
Nguyễn Đăng P yêu cầu Tòa án chia nhà và đất tại thửa đất số 20, tờ bản đồ số
B1-97 theo tỷ lệ 7/3, trong đó ông P được hưởng 70% giá trị tài sản, bà Nguyễn
Thị H được hưởng 30% giá trị tương ứng với giá trị là 1.245.438.000 đồng,
ông P đề nghị được nhận quyền sử dụng và sở hữu nhà đất nêu trên và thối trả
cho bà Hiền số tiền là 1.245.438.000 đồng.
Đối với thửa đất số 1905, tờ bản đồ số 11: Đây là tài sản chung của vợ
chồng ông P và bà Hiền, ông P đề nghị chia theo tỉ lệ 5:5. Ông P đề nghị được
nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số 1905, tờ bản đồ số 11 và thối trả 50%
giá trị cho bà Hiền tương ứng số tiền là 39.690.000 đồng.
* Trong bản tự khai đề ngày 11/8/2023, bị đơn bà Nguyễn Thị H trình
bày: Bà xác nhận tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân với ông P gồm 3 thửa đất
là số 33, số 1905 và số 20. Đối với yêu cầu chia tài sản của ông P theo tỷ lệ 7:3
(Ông P 70%, bà 30%) thì bà đồng ý. Do bà đang bị tạm giam tại Trại tạm giam
Hòa Sơn nên bà đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt bà tại tất cả các phiên họp,
phiên xét xử.
5
* Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt số 517/CTHADS ngày 09/8/2024,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Chi cục Thi hành án dân sự quận C trình
bày: Đề nghị Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả phiên tòa, đề nghị Tòa án
xét xử theo quy định pháp luật để có cơ sở giải quyết việc thi hành án, đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
* Tại đơn đề nghị bổ sung người tham gia tố tụng của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Phương T2 , bản trình bày ý kiến đề ngày
19/6/2023, quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của bà Trần
Thị Phương T2 là bà Lê Khánh L trình bày:
Bà Trần Thị Phương T2 là người được thi hành án theo Bản án dân sự
phúc thẩm số 36/2022/DS-PT ngày 30/6/2022 của Tòa án nhân dân thành phố
Đà Nẵng về việc „Yêu cầu đòi tài sản” giữa bà T2 và bà Nguyễn Thị H . Ngày
15/7/2022, bà T2 đã có đơn thi hành án gửi đến Chi cục Thi hành án dân sự
quận C yêu cầu bà Hiền thực hiện nghĩa vụ. Ngày 18/7/2022, Chi cục Thi hành
án dân sự quận C ban hành Quyết định thi hành án theo yêu cầu số 663/QĐ-
CCTHADS đối với bà Hiền, theo đó, bà Hiền phải có nghĩa vụ thanh toán cho
bà Trần Thị Phương T2 số tiền là 12.402.366.437 đồng, trong đó: nợ gốc là
11.070.833.333 đồng và lãi là 1.331.533.104 đồng (tính từ ngày 06/11/2020 đến
ngày 18/01/2022). Tuy nhiên, bà Hiền không thực hiện. Đối với yêu cầu của ông
P về việc chia tài sản chung: thửa đất số 33, tờ bản đồ số 15; thửa đất số 1905, tờ
bản đồ số 11 và nhà và đất tại thửa đất số 20, tờ bản đồ B1-97 theo tỷ lệ ông P
được hưởng 70% và bà Hiền được hưởng 30% thì bà T2 không đồng ý, vì 03
tài sản nêu trên đều liên quan đến bà Hiền, ông P không có căn cứ chứng minh.
Bà T2 cho rằng tài sản chung của ông P và bà Hiền phải chia đôi, cụ thể ông P
được hưởng 50% và bà Hiền được hưởng 50%.
* Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Hoàng
T4 trình bày: Bà thống nhất với yêu cầu khởi kiện của ba bà là ông Nguyễn
Đăng P. Tuy nhiên, sau khi nghe ý kiến trình bày của bà Nguyễn Thị Ngọc
Thúy, bà đề nghị HĐXX xem xét chấp nhận ý kiến của bà Thúy về việc chia tài
sản chung của ba mẹ bà là ông Nguyễn Đăng P và bà Nguyễn Thị H đối với nhà
và đất tại thửa đất số 20, tờ bản đồ B1-97 theo tỷ lệ ông P được hưởng 80% và
bà Hiền được hưởng 20%.
* Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đặng
Ngân trình bày: Ông thống nhất với yêu cầu khởi kiện của ba ông là ông
Nguyễn Đăng P.
* Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị
Châu G trình bày: Bà thống nhất với yêu cầu khởi kiện của ba chồng bà là ông
Nguyễn Đăng P. Sau khi kết thúc phần tranh luận, bà Châu Giang xin HĐXX về
do có công việc đột xuất, nên bà vắng mặt khi Tòa án tuyên án.
* Tại văn bản xác nhận về việc hỗ trợ tiền mua đất, xây nhà đề ngày
27/9/2023, văn bản trình bày đề ngày 20/5/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Nguyễn Đăng L trình bày:
6
Ông Nguyễn Đăng P làm nghề sửa chữa điện lạnh, gia đình sống thuê tại
địa chỉ: Số 261 đường Cách Mạng Tháng Tám, quận C, thành phố Đà Nẵng.
Đến năm 2015, ông P tích cóp được số tiền 220.000.000 đồng, ông P gặp ông
Kế ba ông nhờ hỗ trợ mua đất xây nhà. Ba ông đã cho số tiền 100.000.000 đồng,
ông hỗ trợ 300.000.000 đồng để ông P mua đất. Sau khi mua thì vợ chồng ông P
còn có 80.000.000 đồng, nên ba ông cho thêm ông P 100.000.000 đồng và ông
cho 200.000.000 đồng để hỗ trợ xây nhà. Căn nhà hoàn thành vào năm 2017.
Ngoài ra, ông được biết em gái ông là bà Nguyễn Thị Ngọc Thúy đã gửi cho
ông P số tiền 250.000.000 đồng bằng hình thức chuyển khoản, chuyển 03 lần,
một lần bà Thúy trực tiếp chuyển, 02 lần là nhờ nhân viên của mình là bà Tạ Thị
Hồng Phượng chuyển tiền giúp. Như vậy, nhà và đất tại địa chỉ: Số 43 đường C,
phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng thì ba ông đã hỗ trợ 200.000.000 đồng
và ông hỗ trợ 500.000.000 đồng, em gái bà Thúy hỗ trợ 250.000.000 đồng.
* Tại bản tự khai đề ngày 28/6/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Huỳnh Ngọc H trình bày: Do có mối quan hệ quen biết với nhau, nên
ngày 25/5/2022, ông có cho ông Nguyễn Đăng P và bà Nguyễn Thị H mượn số
tiền: 300.000.000 đồng. Ngày 01/7/2022, ông P và bà Hiền có mượn thêm
20.000.000 đồng. Tổng cộng là 320.000.000 đồng. Ông P và bà Hiền có giao
cho ông 01 bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CC871911 do Sở
Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 07/3/2016 đối với thửa
đất số 1905, tờ bản đồ số 11, để làm tin. Sau nhiều lần nhắc nhở và đòi tiền
không được nên ông gửi đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân quận C. Vào ngày
19/7/2023, theo bản án dân sự sơ thẩm số 109/2023/DS-ST ngày 19/7/2023, Tòa
án quận C đã xét xử và tuyên án như sau: Buộc vợ chồng ông P và bà Hiền trả
lại cho ông số tiền là 320.000.000 (Ba trăm hai mươi triệu đồng). Sau khi ông
Nguyễn Đăng P và bà Nguyễn Thị H thanh toán đủ số tiền trên, ông Huỳnh
Ngọc H có nghĩa vụ giao trả cho ông P và bà Hiển Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CC871911 do Sở Tài nguyên và Môi trường cấp ngày 07/3/2016.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ông đề nghị Toà án giải quyết
theo quy định pháp luật. Khi ông P và bà Hiền trả nợ cho ông thì ông sẽ trả lại
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
* Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị
Ngọc Thúy trình bày:
Nguồn gốc nhà và đất tại thửa đất số 20, tờ bản đồ B1-97 là do ba bà ông
Nguyễn Đăng Kế cùng các anh chị em trong gia đình hỗ trợ ông P với tổng số
tiền 950.000.000 đồng (Trong đó: tiền mua đất là 500.000.000 đồng và tiền xây
nhà là 450.000.000 đồng). Riêng bà khi mua đất đã hỗ trợ ông P 150.000.000
đồng và khi xây nhà hỗ trợ ông P tổng cộng 250.000.000 đồng, thông qua 03 lần
chuyển khoản vào tài khoản của ông P, cụ thể: ngày 4/5/2016 chuyển số tiền
100.000.000 đồng và ngày 8/7/2016 chuyển số tiền 100.000.000 đồng do nhân
viên của bà là bà Tạ Thị Hồng Phượng chuyển cho ông P, ngày 01/9/2016: bà
trực tiếp chuyển cho ông P số tiền 50.000.000 đồng. Ước nguyện cuối đời của

7
ba bà ông Nguyễn Đăng Kế là để chỗ ở ổn định cho các con của ông P. Do đó,
bà đề nghị HĐXX xem xét chia nhà và đất nêu trên theo tỷ lệ ông P được hưởng
80% và bà Hiền được hưởng 20%.
* Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị
Ngọc T6 trình bày: Bà thống nhất với lời trình bày của bà Nguyễn Thị Ngọc
Thúy. Tâm nguyện của ba bà ông Nguyễn Đăng Kế là để lại nhà và đất tại thửa
đất số 20, tờ bản đồ B1-97 làm chỗ ở ổn định cho các con của ông P. Do đó, bà
đề nghị HĐXX xem xét chia nhà và đất nêu trên theo tỷ lệ ông P được hưởng
80% và bà Hiền được hưởng 20%.
* Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đăng D , bà
Nguyễn Thị Mỹ H , bà Nguyễn Thị M : Mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ
các văn bản tố tụng như: Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm
tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án
ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa nhưng những người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan nêu trên vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản
trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
* Phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án,
Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước
thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đúng trình tự quy định của pháp luật. Đối với
các đương sự: Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, nguyên đơn, bị
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chưa thực hiện đúng các quy định
tại Điều 70, 71, 72, 73 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Quan điểm giải quyết vụ án:
Về tài sản chung: Đề nghị HĐXX xem xét chấp nhận 1 phần yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn ông P về việc chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân với bị
đơn bà Nguyễn Thị H , cụ thể như sau:
Chia nhà và đất tại thửa đất số 20, tờ bản đồ B1-97 và thửa đất số 1905, tờ
bản đồ số 11, theo tỷ lệ 5:5, ông P được hưởng 50% giá trị tài sản chung và bà
Hiền được hưởng 50% giá trị tài sản chung. Giao nhà và đất tại thửa đất số 20,
tờ bản đồ B1-97 và thửa đất số 1905, tờ bản đồ số 11 cho ông P sở hữu và sử
dụng. Ông P có nghĩa vụ thối trả cho bà Hiền số tiền chênh lệch là
2.115.420.000 đồng.
Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của ông P về chia tài sản là thửa đất số
33, tờ bản đồ số 15.
Về án phí: Nguyên đơn và bị đơn phải chịu án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, sau khi nghe ý
kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
8
Về thủ tục tố tụng:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Theo đơn khởi kiện thì nguyên đơn
khởi kiện đối với bị đơn để chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân. Do đó, căn cứ
vào khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 1 Điều
38 Luật Hôn nhân và gia đình, quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”.
[2] Về thẩm quyền: Tại thời điểm Toà án thụ lý giải quyết vụ án thì bị đơn
bà Nguyễn Thị H có địa chỉ tại: Số 43 đường C, phường H, quận C, thành phố
Đà Nẵng, đến ngày 26/5/2023 thì bà Hiền bị tạm giam tại Trại tạm giam thuộc
Công an thành phố Đà Nẵng. Do đó, căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và
điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, tranh chấp phát sinh giữa
nguyên đơn và bị đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận C,
thành phố Đà Nẵng.
[3] Bị đơn bà Nguyễn Thị H , người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Chi
cục Thi hành án dân sự quận C vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó,
căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng
xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Hiền và Chi cục Thi hành án dân sự quận C.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đăng D , bà Nguyễn Thị
Mỹ H , bà Nguyễn Thị M đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn
vắng mặt không có lý do. Do đó, căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228
Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nêu trên.
[4] Quá trình giải quyết vụ án, ngày 28/8/2024, nguyên đơn ông Nguyễn
Đăng P có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện chia tài sản đối với thửa đất
số 33, tờ bản đồ số 15. Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn ông Nguyễn Đăng P giữ nguyên ý kiến rút một phần yêu cầu khởi kiện chia
tài sản đối với thửa đất số 33, tờ bản đồ số 15 nêu trên. HĐXX xét thấy việc rút
yêu cầu của ông Nguyễn Đăng P là tự nguyện nên căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ
luật Tố tụng dân sự, HĐXX chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với yêu cầu chia
tài sản đối với thửa đất số 33, tờ bản đồ số 15 của nguyên đơn.
Về nội dung: Xét yêu cầu chia tài sản chung của ông Nguyễn Đăng P:
[5] Về xác định tài sản chung: Nguyên đơn ông Nguyễn Đăng P và bị đơn
bà Nguyễn Thị H đều thừa nhận trong thời kỳ hôn nhân ông bà đã tạo lập được
tài sản chung là: Nhà và đất tại thửa đất số 20, tờ bản đồ B1-97 (Quyền sử dụng
đất đã được ghi nhận trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 443626 do Sở Tài nguyên và Môi
trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 14/8/2015, đã được chỉnh lý biến động vào
ngày 28/9/2015 cho ông Nguyễn Đăng P, bà Nguyễn Thị H , riêng nhà chưa
được ghi nhận quyền sở hữu trong giấy chứng nhận nêu trên) và thửa đất số
1905, tờ bản đồ số 11 (có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CC 871911 do Sở Tài nguyên và Môi
trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 07/3/2016, đã được chỉnh lý biến động vào

9
ngày 24/12/2029 cho ông Nguyễn Đăng P, bà Nguyễn Thị H ). Do đó, đây là
tình tiết không phải chứng minh quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng
dân sự. Như vậy, HĐXX có căn cứ xác định 02 tài sản nêu trên là tài sản chung
mà ông Nguyễn Đăng P và bà Nguyễn Thị H đã tạo lập được trong thời kỳ hôn
nhân.
[6] Về giá trị tài sản chung:
[6.1] Đối với nhà và đất tại thửa đất số 20, tờ bản đồ B1-97: Theo Biên
bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 18/8/2023 và Kết quả định giá tại Chứng
thư thẩm định giá số 36/CT-TĐG-DNVC ngày 04/4/2024 thì quyền sử dụng đất
tại thửa đất số 20, tờ bản đồ B1-97, diện tích 100 m
2
, mục đích sử dụng:
đất ở đô
thị có giá trị 3.215.700.000 đồng và tài sản gắn liền trên đất có giá trị
935.760.000 đồng, cụ thể là nhà 02 tầng, kết cấu tường xây gạch trát vữa sơn
vôi, sàn bê tông cốt thép, mái bê tông cốt thép, nền gạch men, điện nước âm
tường, diện tích sử dụng 210 m
2
. Tổng giá trị nhà và đất là: 4.151.460.000 đồng
và có tứ cận như sau: Hướng Tây Nam: giáp đường Bùi Công Trừng; hướng Tây
Bắc: giáp đất trống; hướng Đông Bắc: giáp cống thoát nước; hướng Đông Nam:
giáp nhà dân.
[6.2] Đối với thửa đất số 1905, tờ bản đồ số 11: Theo Biên bản xem xét,
thẩm định tại chỗ ngày 02/4/2024 và Kết quả định giá tại Chứng thư thẩm định
giá số 36/CT-TĐG-DNVC ngày 04/4/2024 thể hiện: Thửa đất số 1905, tờ bản đồ
số 11, diện tích 270 m
2
, mục đích sử dụng: đất trồng cây lâu năm, có tứ cận như
sau: phía Tây Nam: giáp đất trống; phía Tây Bắc: giáp đất trống; phía Đông
Bắc: giáp đất trống; phía Đông Nam: giáp đất trống, thửa đất không có lối đi
vào, trên đất không có tài sản gì và có giá trị là 79.380.000 đồng.
[6.3] Như vậy, tổng giá trị tài sản chung tạo lập trong thời kỳ hôn nhân
của ông Nguyễn Đăng P và bà Nguyễn Thị H là: 4.151.460.000 đồng +
79.380.000 = 4.230.840.000 đồng (Bốn tỷ hai trăm ba mươi triệu tám trăm bốn
mươi nghìn đồng).
[7] Về tỷ lệ phân chia tài sản chung:
[7.1] Đối với nhà và đất tại thửa đất số 20, tờ bản đồ B1-97: Ông Nguyễn
Đăng P yêu cầu chia tài sản chung theo tỷ lệ 7: 3, cụ thể theo đó ông được chia là
70% giá trị và bà Hiền là 30% giá trị.
[7.1.1] Về tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số
20, tờ bản đồ B1-97: Quá trình giải quyết vụ án, ông P trình bày: Tiền mua đất là
620.000.000 đồng (gồm tiền mua đất là 550.000.000 đồng và tiền dịch vụ
70.000.000 đồng), trong đó: Ông P tích cóp được 120.000.000 đồng và gia đình
ông P gồm ba, các anh chị em đã đóng góp số tiền là 500.000.000 đồng, cụ thể:
Ông Nguyễn Đăng Kế (là cha ruột ông P), hiện đã mất: góp 100.000.000 đồng. Bà
Nguyễn Thị Mỹ H (là chị gái ông P) góp 30.000.000 đồng. Ông Nguyễn Đăng D
(là anh trai ông P) góp 50.000.000 đồng. Bà Nguyễn Thị M (là chị gái ông P) góp
70.000.000 đồng. Ông Nguyễn Đăng L (là anh trai ông P) góp 100.000.000 đồng.
10
Bà Nguyễn Thị Ngọc Thúy (là em gái ông P) góp 150.000.000 đồng. HĐXX xét
thấy: ngoài việc trình bày thì ông P, cũng như bà H , ông D , ông L , bà Thúy, bà M
không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh.
[7.1.2] Về phần tiền xây nhà tại thửa đất số 20, tờ bản đồ B1-97: Quá trình
giải quyết vụ án, ông P trình bày: Sau khi đã mua đất, đến tháng 4/2016 ông P
quyết định xây nhà trên mảnh đất mà gia đình mua cho ông P. Tuy nhiên, khi
mở móng xây nhà thì ông P chỉ có 80.000.000 đồng, ông P về nhà tâm sự với
cha xin được hỗ trợ cho thêm tiền xây nhà. Sau đó, cha ông P mở tủ lấy tiền mặt
cho ông P 100.000.000 đồng có sự chứng kiến của ông L (anh trai của ông P).
Ngoài ra, ông P điện thoại cho tất cả anh chị em xin hỗ trợ thêm. Trong đó, có
em gái là bà Nguyễn Thị Ngọc Thúy 03 lần chuyển khoản vào tài khoản của ông
P tổng cộng 250.000.000 đồng, cụ thể: ngày 4/5/2016 chuyển số tiền
100.000.000 đồng và ngày 8/7/2016 chuyển số tiền 100.000.000 đồng do nhân
viên của bà Thúy là bà Tạ Thị Hồng Phượng chuyển cho ông P, ngày 01/9/2016:
bà Thúy tiếp tục chuyển cho ông P số tiền 50.000.000 đồng. Ông Nguyễn Đăng
L có qua nhà ông P cho tiền mặt ông P 100.000.000 đồng. HĐXX nhận thấy:
Ông P, ông L , bà Thúy không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh về số
tiền đã gửi cho ông P để hỗ trợ xây nhà. Đối với số tiền bà Thủy chuyển khoản và
nhờ nhân viên của mình là bà Tạ Thị Hồng Phượng, mặc dù thời gian chuyển
khoản là sau thời gian ông P và Hiền xin giấy phép xây dựng ngày 22/3/2016, tuy
nhiên, việc chuyển khoản không có nội dung chuyển khoản về việc gì nên không
có căn cứ chứng minh là bà Thúy hỗ trợ tiền xây nhà cho ông P.
[7.1.3] Ngoài ra, tại văn bản xác nhận về việc hỗ trợ tiền mua đất, xây nhà
đề ngày 27/9/2023, văn bản trình bày đề ngày 20/5/2024 của ông Nguyễn Đăng
L trình bày có nội dung: “Như vậy, nhà và đất tại số 43 đường C, phường H,
quận C, thành phố Đà Nẵng thì ba ông đã hỗ trợ 200.000.000 đồng và ông hỗ
trợ 500.000.000 đồng, em gái bà Thúy hỗ trợ 250.000.000 đồng”. Tuy nhiên, tại
biên bản họp gia đình vào ngày 15/6/2024 xác nhận việc hỗ trợ mua đất và xây
nhà tại địa chỉ nhà số 43 đường Nguyễn Công Trừng, phường Hoà Xuân, quận
C, thành phố Đà Nẵng của ông Nguyễn Đăng P và bà Nguyễn Thị H do UBND
phường Khuê Trung, quận C, thành phố Đà Nẵng chứng thực ngày 24/6/2024
mà trong đó ông L đã ký xác nhận thể hiện về phần tiền mua đất ông L đóng
góp 100.000.000 đồng và về phần tiền xây nhà ông L hỗ trợ ông P số tiền
100.000.000 đồng. Như vậy, HĐXX nhận thấy số tiền ông L trình bày đóng góp
vào việc nhà và đất tại thửa đất số 20, tờ bản đồ B1-97 của ông P và bà Hiền là
mâu thuẫn nhau.
[7.1.4] Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất số CA 443626 do Sở Tài nguyên và Môi trường
thành phố Đà Nẵng cấp ngày 14/8/2015, thể hiện là đã được chỉnh lý biến động
vào ngày 28/9/2015 cho ông Nguyễn Đăng P, bà Nguyễn Thị H . Theo Giấy
phép xây dựng số 704/UBND-GPXD do UBND quận C cấp ngày 22/3/2016 thể
hiện là cấp cho ông Nguyễn Đăng P và bà Nguyễn Thị H . Ông P và bà Hiền sử

11
dụng ổn định nhà và đất tại thửa đất số 20, tờ bản đồ B1-97 từ khi tạo lập cho
đến nay. Các anh chị em ông P không có ý kiến hay tranh chấp gì. Hơn nữa, ông
P không cung cấp được tài liệu chứng minh nội dung công sức đóng góp nhiều hơn
trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung của ông P. Còn bà
Nguyễn Thị H đang có nghĩa vụ đối với người thứ ba, cụ thể: Bà Hiền có nghĩa
vụ thanh toán nợ đối với bà Trần Thị Phương T2 tại Bản án dân sự phúc thẩm
số 36/2022/DS-PT ngày 30/6/2022 của Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng và
những người khác đã yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự quận C thi hành.
[7.1.5] Do đó, căn cứ vào khoản 3 Điều 38, Điều 59 Luật Hôn nhân và gia
đình, HĐXX xác định ông P và bà Hiền có công sức ngang nhau trong việc tạo
lập khối tài sản chung. Do đó, HĐXX chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện về
tỷ lệ phân chia nhà và đất tại thửa đất số 20, tờ bản đồ B1-97 của nguyên đơn
ông Nguyễn Đăng P, theo đó chia cho ông P và bà Hiền mỗi người 50% tổng giá
trị tài sản, cụ thể ông P và bà Hiền mỗi người được chia 50% x 4.151.460.000
đồng = 2.075.730.000 đồng.
[7.2] Đối với thửa đất số 1905, tờ bản đồ số 11: Ông P xác định là tài sản
chung của vợ chồng ông P và bà Hiền, ông P đề nghị chia theo tỉ lệ 5:5 và ông
sẽ thối trả 50% giá trị cho bà Hiền tương ứng số tiền là 39.690.000 đồng. Yêu
cầu chia như trên của ông P là có căn cứ, phù hợp khoản 3 Điều 38, Điều 59
Luật Hôn nhân và gia đình, nên HĐXX chấp nhận.
[7.3] Giá trị tài sản chung mà ông P và bà Hiền mỗi người được hưởng:
2.075.730.000 đồng +39.690.000 đồng = 2.115.420.000 đồng.
[8] Về giao hiện vật: Quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa, ông P có
nguyện vọng nhận nhà và đất tại thửa đất số 57 tờ bản đồ số B1-24 và quyền sử
dụng đất tại thửa đất số 1905, tờ bản đồ số 11. HĐXX nhận thấy: Hiện nay ông
P đang sinh sống ổn định ở nhà và đất tại thửa đất số 57 tờ bản đồ số B1-24 và
bà Hiền hiện đang bị tạm giam. Do đó, HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
ông P, giao cho ông Nguyễn Đăng P sở hữu và sử dụng:
- Thửa đất số 20, tờ bản đồ số B1-97, có diện tích 100 m
2
, mục đích sử
dụng: đất ở tại đô thị, tọa lạc tại địa chỉ: Khu đô thị sinh thái ven sông Hòa Xuân
- Giai đoạn 2, phường Hòa Xuân, quận C, thành phố Đà Nẵng, nay là: Số 43
đường C, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng (có Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 443626 do
Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 14/8/2015, đã được
chỉnh lý biến động vào ngày 28/9/2015 cho ông Nguyễn Đăng P, bà Nguyễn Thị
H ) và tài sản gắn liền trên đất là nhà 02 tầng, kết cấu tường xây gạch trát vữa
sơn vôi, sàn bê tông cốt thép, mái bê tông cốt thép, nền gạch men, điện nước âm
tường, diện tích sử dụng 210 m
2
(có sơ đồ kèm theo). Nhà và đất nêu trên có
tổng giá trị 4.151.460.000 đồng, có tứ cận như sau: Hướng Tây Nam: giáp
đường Bùi Công Trừng; hướng Tây Bắc: giáp đất trống; hướng Đông Bắc: giáp
cống thoát nước; hướng Đông Nam: giáp nhà dân.

12
- Thửa đất số 1905, tờ bản đồ số 11 diện tích 270 m
2
, mục đích sử dụng:
đất trồng cây lâu năm, tọa lạc tại địa chỉ: tổ 22, phường Hòa Phát, quận C, thành
phố Đà Nẵng (có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất số CC 871911 do Sở Tài nguyên và Môi trường
thành phố Đà Nẵng cấp ngày 07/3/2016, đã được chỉnh lý biến động vào ngày
24/12/2019 cho ông Nguyễn Đăng P, bà Nguyễn Thị H ) có giá trị 79.380.000
đồng.
[9] Về nghĩa vụ thối trả: Ông Nguyễn Đăng P phải thanh toán giá trị
chênh lệch tài sản chung cho bà Nguyễn Thị H là 2.115.420.000 đồng.
[10] Đối với ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn
Thị Ngọc Thúy, bà Nguyễn Thị Ngọc T6 và bà Nguyễn Hoàng T4 về việc đề nghị
HĐXX xem xét chia nhà và đất tại thửa đất số 20, tờ bản đồ B1-97 theo tỷ lệ ông
P được hưởng 80% và bà Hiền được hưởng 20%. HĐXX nhận thấy ý kiến của
bà Thúy, bà T6, bà T4 không phù hợp với nhận định tại mục [7.1] nên HĐXX
không chấp nhận.
[11] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận C, thành phố
Đà Nẵng về việc giải quyết vụ án: HĐXX nhận thấy đề nghị của đại diện Viện
kiểm sát nhân dân quận C, thành phố Đà Nẵng phù hợp với phân tích nêu trên
nên HĐXX chấp nhận.
[12] Về án phí: Ông Nguyễn Đăng P và bà Nguyễn Thị H mỗi người phải
chịu án phí tương ứng phần giá trị được hưởng 72.000.000 + 2% x
(2.115.420.000 - 2.000.000.000) đồng = 74.308.400 đồng theo quy định tại
khoản 2 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm b khoản 5 Điều 27 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
[13] Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 6.000.000
đồng và chi phí định giá tài sản là 24.225.000 đồng: Ông Nguyễn Đăng P tự
nguyện chịu, đã nộp và chi xong.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
- Điều 28, 35, 39, 147, 157, 165, 227, 228, 244, 271, 272 và 273 Bộ luật
Tố tụng dân sự;
- Khoản 1 và khoản 2 Điều 38, Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình;
- Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đăng P đối với
bà Nguyễn Thị H về việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân.
13
1. Xác định khối tài sản chung của ông Nguyễn Đăng P và bà Nguyễn Thị
H gồm:
- Thửa đất số 1905, tờ bản đồ số 11, diện tích 270m
2
đất trồng cây hằng
năm tọa lạc tại địa chỉ: Tổ 22, phường Hòa Phát, quận C, thành phố Đà Nẵng
(Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất số CC 871911 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà
Nẵng cấp ngày 07/3/2016, đã được chỉnh lý biến động vào ngày 24/12/2029 cho
ông Nguyễn Đăng P, bà Nguyễn Thị H ), có giá trị là 79.380.000 đồng.
- Thửa đất số 20, tờ bản đồ B1-97 tọa lạc tại địa chỉ: Khu đô thị sinh thái
ven sông Hòa Xuân - Giai đoạn 2, phường Hòa Xuân, quận C, thành phố Đà
Nẵng, nay là: Số 43 đường C, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng (có Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất số CA 443626 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp
ngày 14/8/2015, đã được chỉnh lý biến động vào ngày 28/9/2015 cho ông
Nguyễn Đăng P, bà Nguyễn Thị H ) và tài sản gắn liền trên đất là nhà 02 tầng,
kết cấu tường xây gạch trát vữa sơn vôi, sàn bê tông cốt thép, mái bê tông cốt
thép, nền gạch men, điện nước âm tường, diện tích sử dụng 210 m
2
. Nhà và đất
nêu trên có tổng giá trị 4.151.460.000 đồng
2. Về giao hiện vật:
Giao cho ông Nguyễn Đăng P sở hữu và sử dụng:
- Thửa đất số 20, tờ bản đồ số B1-97, có diện tích 100 m
2
, mục đích sử
dụng: đất ở tại đô thị, tọa lạc tại địa chỉ: Khu đô thị sinh thái ven sông Hòa Xuân
- Giai đoạn 2, phường Hòa Xuân, quận C, thành phố Đà Nẵng, nay là: Số 43
đường C, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng (có Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 443626 do
Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 14/8/2015, đã được
chỉnh lý biến động vào ngày 28/9/2015 cho ông Nguyễn Đăng P, bà Nguyễn Thị
H ) và tài sản gắn liền trên đất là nhà 02 tầng, kết cấu tường xây gạch trát vữa
sơn vôi, sàn bê tông cốt thép, mái bê tông cốt thép, nền gạch men, điện nước âm
tường, diện tích sử dụng 210 m
2
(có sơ đồ kèm theo), có tứ cận như sau: Hướng
Tây Nam: giáp đường Bùi Công Trừng; hướng Tây Bắc: giáp đất trống; hướng
Đông Bắc: giáp cống thoát nước; hướng Đông Nam: giáp nhà dân.
- Thửa đất số 1905, tờ bản đồ số 11 diện tích 270 m
2
, mục đích sử dụng:
đất trồng cây lâu năm, tọa lạc tại địa chỉ: tổ 22, phường Hòa Phát, quận C, thành
phố Đà Nẵng (có Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất số CC 871911 do Sở Tài nguyên và Môi trường
thành phố Đà Nẵng cấp ngày 07/3/2016, đã được chỉnh lý biến động vào ngày
24/12/2029 cho ông Nguyễn Đăng P, bà Nguyễn Thị H ).
Ông Nguyễn Đăng P được quyền liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền
để thực hiện đăng ký quyền sở hữu, sử dụng theo quy định của pháp luật.

14
3. Về nghĩa vụ thối trả: Ông Nguyễn Đăng P phải thanh toán giá trị chênh
lệch tài sản chung cho bà Nguyễn Thị H là 2.115.420.000 đồng (Hai tỷ một
trăm mười lăm triệu bốn trăm hai mươi nghìn đồng)
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi
hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn
yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho
người được thi hành) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng
tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự
năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
4. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu chia tài sản là: Thửa đất số 33, tờ bản
đồ số 15, diện tích 284m
2
đất trồng cây hằng năm, toạ lạc tại địa chỉ: Tổ 14,
phường Hòa Phát, quận C, thành phố Đà Nẵng (Theo Giấy chứng nhận Quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CC 871909
ngày 07/3/2016, chỉnh lý biến động cho ông Nguyễn Đăng P, bà Nguyễn Thị H
ngày 24/12/2019).
5. Về án phí sơ thẩm:
- Ông Nguyễn Đăng P phải chịu án phí yêu cầu chia tài sản chung là
74.308.400 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 19.650.000 đồng mà
ông Nguyễn Đăng P đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
0009461 ngày 17/4/2023 của Chi cục thi hành án dân sự quận C, thành phố Đà
Nẵng. Ông Nguyễn Đăng P còn phải nộp số tiền án phí sơ thẩm là 54.658.400
đồng.
- Bà Nguyễn Thị H phải chịu án phí yêu cầu chia tài sản chung là
74.308.400 đồng.
6. Về chi phí tố tụng:
Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 6.000.000 đồng và chi phí định giá
tài sản là 24.225.000 đồng: Ông Nguyễn Đăng P tự nguyện chịu, đã nộp và đã
chi xong.
7. Nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên
tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Châu G không có mặt khi tòa án tuyên
án, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án
hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,
7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
15
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- Chi cục THADS quận C;
- VKSND quận C;
- Lưu Hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Ngô Thị Thanh Tuyền
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 05/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm