Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT ngày 31/10/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 37/2024/HNGĐ-PT
Tên Bản án: | Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT ngày 31/10/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Hà Nội |
Số hiệu: | 37/2024/HNGĐ-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 31/10/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của các đương sự. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 37/2024/HNGĐ-PT
Ngày: 31/10/2024.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Hải Thanh
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Xuân Điền;
Ông Ngô Quang Dũng.
- Thư ký phiên tòa: Bà Hoàng Thị Thu Hoài, Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân cấp cao tại Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên
tòa: Ông Phạm Quốc Huy, Kiểm sát viên.
Ngày 31 tháng 10 năm 2024, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà
Nội mở phien tòa xét xử phúc thẩm, công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số
31/2024/TLPT-DS ngày 04 tháng 07 năm 2024.
Do có kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan đối với Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 217/2024/HNGĐ-ST
ngày 04 tháng 07 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11610/2024/QĐ-PT ngày 15
tháng 10 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1971; địa chỉ trước khi xuất
cảnh: Thôn K, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương; hiện đang cư trú tại CHLB Đức.
Vắng mặt.
+ Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1965; địa
chỉ: Thôn K, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương. Có mặt.
+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật sư Đoàn
M - Văn phòng luật sư Đoàn M thuộc Đoàn luật sư tỉnh Hải Dương; địa chỉ: Số
A, phường T, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Có mặt.
- Bị đơn: Ông Phạm Văn U, sinh năm 1967; địa chỉ: Thôn K, xã H, huyện
N, tỉnh Hải Dương. Có mặt.
+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Luật sư Hồ Anh K
và Luật sư Lại Ngọc T1 - Công ty Luật X - thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà
Nội; địa chỉ: P, tầng F, tòa nhà S, số D T, phường T, quận H, thành phố Hà Nội.
Có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm
1980; địa chỉ: Thôn K, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn bà Nguyễn Thị P và người đại diện theo ủy quyền của bà P trình
bày: Trước đây bà và ông Phạm Văn U chung sống với nhau như vợ chồng, do
xảy ra mâu thuẫn nên ông bà đã được Tòa án nhân dân huyện N tuyên bố không
công nhận quan hệ vợ chồng theo bản án số 30/2006/HNGĐ-ST ngày
21/11/2006, ngoài ra Tòa án còn giải quyết quan hệ con chung, chưa giải quyết
quan hệ tài sản chung. Bà P xác định trong thời gian chung sống cùng ông U,
ông bà có tài sản chung gồm nhà đất tại thôn K, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương
đã được Ủy ban nhân dân huyện N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
1147 QSDĐ 1486/QĐUB ngày 26/6/2002 mang tên ông Phạm Văn U và bà
Nguyễn Thị P. Hiện nay, ông U là người quản lý tài sản trên. Bà P đề nghị chia
tài sản chung là quyền sử dụng đất và ngôi nhà cấp 4 gắn liền với đất, tại thửa
214 và 220 tờ bản đồ số 10, thôn K, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương theo quy
định của pháp luật. Bà P đề nghị được hưởng bằng hiện vật.
Thông qua người đại diện theo ủy quyền, bà P rút yêu cầu chia tài sản gắn
liền với quyền sử dụng đất là 01 ngôi nhà cấp 4. Chỉ đề nghị chia tài sản chung
là quyền sử dụng diện tích đất thuộc thửa 214 và 220 tờ bản đồ số 10 thôn K, xã
H, huyện N, tỉnh Hải Dương.
- Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai bị đơn ông Phạm Văn U trình bày:
Ông và bà P trước đây chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1987, không
có đăng ký kết hôn nhưng đã được Tòa án nhân dân huyện N giải quyết không
công nhận là vợ chồng vào năm 2006 như bà P đã khai. Ông xác định nguồn gốc
thửa đất 214 và thửa 220 tờ bản đồ số 10 xã H là của ông cha để lại cho ông
Phạm Văn T2 (là chú ruột), do ông không có nhà đất nên ông T2 đã cho ông
diện tích đất trên trước khi về chung sống cùng bà P. Năm 1992 ông và bà P có
xây nhà cấp 4 trên đất. Năm 2003 bà P đi Đài Loan lao động đến năm 2006 về
Việt Nam và làm thủ tục ly hôn ông. Năm 2009 ông kết hôn với bà Nguyễn Thị
D có xây công trình phụ, lát nền nhà, xây tường rào, lát sân gạch…Ông xác định
tài sản chung giữa ông và bà P chỉ có nhà cấp 4, ngoài ra không còn tài sản nào
khác. Nếu bà P đề nghị chia tài sản chung thì ông yêu cầu xem xét chia đôi số
tiền bà P đi Đài Loan lao động từ năm 2003 đến năm 2006 khoảng
300.000.000đồng. Ngoài ra ông còn yêu cầu xem xét đến công sức duy trì, trông
nom nhà đất của ông.
- Tại biên bản lấy lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà
Nguyễn Thị D trình bày: Bà kết hôn với ông U từ ngày 06/01/2009 và sinh sống
tại nhà đất trước đây bà P, ông U ở. Khi bà về làm dâu thì tài sản trên đất sơ sài,
xuống cấp, bà phải bỏ tiền, công sức để xây dựng cổng, tường bao, công trình
phụ, nhà kho…và cải tạo lại công trình nhà ở cấp 4. Nay bà P đề nghị chia tài
sản chung trong thời kỳ sống cùng ông U, bà D yêu cầu xem xét đảm bảo quyền
lợi cho bà.
- Những người làm chứng trình bày:
+ Ông Đinh Văn G, bà Phạm Thị C, bà Nguyễn Thị H và ông Phạm Văn
B trình bày: Thửa đất 214 + 220 tờ bản đồ số 01 có nguồn gốc do ông cha để lại
cho ông Phạm Văn T2, sau đó ông T2 cho ông U. Trên đất có nhà cấp 4 do bà P,
ông U xây từ năm 1992, hiện đã xuống cấp. Các công trình khác trên đất do ông
U, bà D xây dựng. Năm 2006 ông U, bà P ly hôn, các ông bà có nghe bà P nói là
để lại cho ông U sử dụng toàn bộ tài sản là nhà đất, còn bà P quản lý tài sản là số
tiền đi nước ngoài có được. Số tiền cụ thể bà P đi làm ở nước ngoài được bao
nhiêu, các ông bà đều không biết, không có ghi văn bản gì.
+ Ông Nguyễn Văn T trình bày: Ông là anh trai của bà P và đồng ý nhận
ủy quyền của bà P. Ông không cầm tiền hay hợp đồng lao động của bà P trong
thời gian bà P đi làm tại Đài Loan. Bà P đi nước ngoài lao động theo công ty
nào, được bao nhiêu tiền ông không biết.
+ Ông Nguyễn Bá C1 trình bày: Ông là anh trai của bà P, thời gian bà P đi
nước ngoài ông có cho ông U vay 4.000.000 đồng để bà P học tiếng, trước khi đi
nước ngoài bà P có vay thêm 70.000.000 đồng để làm thủ tục bảo lãnh, mua vé
máy bay. Sau khi sang Đài Loan một thời gian thì bà P có gửi tiền về để trả đủ
nợ ông, ngoài số tiền trên ông không nhận hay quản lý số tiền nào khác hộ bà P.
Tại biên bản xác minh của UBND xã H thể hiện nguồn gốc thửa đất 214 +
220 tờ bản đồ số 10 địa chỉ thôn K, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương như sau:
Theo bản đồ 299 thì thửa đất 149, tờ bản đồ số 8 diện tích 522m
2
loại đất ao.
Thửa 108 tờ bản đồ số 8, diện tích 545m
2
, loại đất thổ cư, cả hai thửa đất đều
đứng tên chủ sử dụng là cụ Phạm Văn Đ; Theo sổ mục kê cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất năm 1993 thể hiện thửa đất 214, tờ bản đồ số 10, diện tích
498m
2
(trong đó 300m
2
đất ở và 198m
2
đất vườn). Thửa 210 tờ bản đồ số 10
diện tích 241m
2
loại đất ao, cả hai thửa đất đứng tên chủ sử dụng là ông Phạm
Văn U. Đến ngày 26/6/2002 thửa đất 214 + 220 được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất mang tên ông Phạm Văn U và bà Nguyễn Thị P có tổng diện
tích là 653m
2
, trong đó thửa đất 214, tờ bản đồ số 10, diện tích 498m
2
(300m
2
đất ở và 198m2 đất vườn), thửa số 220 tờ bản đồ số 10 diện tích 155m
2
ao nuôi
trồng thủy sản. Khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất địa phương
không trừ đất dôi dư ngoài đồng. Theo bản đồ đo vẽ hiện trạng năm 2012 thể
hiện thửa đất 157, tờ bản đồ số 26, tổng diện tích 742,8m
2
, trong đó đất ao là
304,2m
2
và đất ở nông thôn là 438,6m
2
. Diện tích đất tăng giữa hiện trạng so với
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là do sai số khi đo đạc. Quá trình sử dụng
đất gia đình ông U không có tranh chấp với các hộ liền kề.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành thẩm định,
định giá tài sản đang có tranh chấp. Tuy nhiên ông U gây khó khăn không cho
đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ đối với nhà, đất đang có tranh chấp. Khi Hội
đồng định giá tài sản trong tố tụng dân sự đến định giá tài sản, ông U và anh em,
cô chú trong họ không cho Hội đồng định giá kiểm đếm, đo đạc xác định hiện
trạng, giá trị tài sản, do vậy Hội đồng định giá quan sát vị trí thửa đất và xác
định giá trị thửa đất theo giá thị trường là: Đất ở nông thôn có giá
3.716.000đồng/m
2
; đất trồng cây lâu năm 80.000đ/m
2
; đất nuôi trồng thủy sản
75.000.000đ/m
2
.
Tại Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 217/2024/HNGĐ-ST ngày 04
tháng 07 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã quyết định: Áp
dụng các Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự;
điểm b khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị P về việc chia tài sản chung
trong thời gian sống chung như vợ chồng với ông Phạm Văn U.
2. Không chấp nhận yêu cầu của ông Phạm Văn U về việc yêu cầu chia tài
sản là 300.000.000đồng bà P có được và quản lý trong thời gian lao động ở Đài
Loan - Trung Quốc
3. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị P đối với yêu
cầu chia tài sản chung là 01 nhà mái bằng có gác xép.
4. Xác định tài sản chung của bà Nguyễn Thị P và ông Phạm Văn U để
phân chia gồm: Quyền sử dụng đất tại thửa 214 và 220 cùng tờ bản đồ số 10,
nay là thửa số 157, tờ bản đồ số 26, tổng diện tích 742,8m
2
thôn K, xã H, huyện
N, tỉnh Hải Dương. Trong đó đất ở 300m
2
trị giá 1.114.800.000 đồng, đất vườn
143m
2
trị giá 11.472.000 đồng và đất nuôi trồng thủy sản 299,5m
2
trị giá
22.462.500đồng. Tổng 1.148.734.500 đồng. Chia cho ông U được hưởng 70%
giá trị tài sản, tương đương số tiền 804.114.150 đồng, bà P được hưởng 30% giá
trị tài sản, tương đương số tiền là 344.620.350 đồng.
5. Chia bằng hiện vật như sau:
Giao cho bà Nguyễn Thị P 144,8m
2
quyền sử dụng đất ao, trị giá
10.860.000 đồng; 80m
2
quyền sử dụng đất ở nông thôn trị giá 297.280.000 đồng,
11,7m
2
quyền sử dụng đất vườn trị giá 936.000 đồng, thuộc thửa số 220 và 214
đều ở tờ bản đồ số 10, nay là thửa 157, tờ bản đồ số 26 thôn K, xã H, huyện N,
tỉnh Hải Dương. Tổng giá trị tài sản là: 309.076.000 đồng (Ba trăm linh chín
triệu không trăm bảy mươi sáu nghìn đồng). Hình thể, kích thước như sau: Phía
Nam giáp hộ ông C2, phía Đông giáp đường bê tông của thôn, phía Tây giáp
phần ao của địa UBND xã H, và phía Bắc giáp phần đất ao và đất ở giao cho
ông U (có sơ đồ kèm theo).
Giao cho ông Phạm Văn U 220m
2
quyền sử dụng đất ở trị giá =
817.520.000đồng; 131,6m
2
quyền sử dụng đất vườn trị giá 10.528.000 đồng;
154,7m
2
đất nuôi trồng thủy sản, trị giá 11.602.500đồng. Thuộc thửa số 214 và
220 đều ở tờ bản đồ số 10, nay là thửa 157, tờ bản đồ số 26 thôn K, xã H, huyện
N, tỉnh Hải Dương. Tổng giá trị tài sản là 839.650.500 đồng. (Tám trăm ba mươi
chín triệu sáu trăm năm mươi nghìn năm trăm đồng). Hình thể, kích thước như
sau: Phía Nam giáp phần đất chia cho bà P, phía Đông giáp đường bê tông của
thôn, phía Tây giáp hộ ông C3 và phía Bắc giáp hộ ông B (có sơ đồ kèm theo).
Ông U có trách nhiệm tháo dỡ, di chuyển các tài sản mới phát sinh trên
phần đất đã giao cho bà P (nếu có).
6. Buộc ông Phạm Văn U phải trả chênh lệch cho bà Nguyễn Thị P số tiền
35.536.000 đồng (Ba mươi lăm triệu năm trăm ba mươi sáu nghìn đồng - làm
tròn).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền
kháng cáo theo quy định.
Ngày 17 /7/2024, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn kháng
cáo đối với bản án sơ thẩm.
Ngày 18/07/2024, nguyên đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm.
Ngày 17/7/2024, bị đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm.
Ngày 17/7/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo đối
với bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Những người kháng cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo, các đương sự
không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
- Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho nguyên đơn đề nghị Tòa án chấp nhận đơn kháng cáo chia tài
sản chung cho bà P toàn bộ bằng hiện vật và lớn hơn mức 30% mà Tòa án cấp
sơ thẩm đã tuyên.
- Bị đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn đề nghị
Tòa án hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại vì nguồn gốc đất là của cha ông để
lại cho bị đơn, nếu bà P muốn chia tài sản chung thì đề nghị phải chia số tiền
300 triệu đồng bà P có được khi đi lao động tại Đài Loan và chỉ đồng ý chia cho
bà P bằng giá trị, không đồng ý chia bằng hiện vật vì bà P hiện đang ở nước
ngoài.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị D đề nghị Tòa án
xem xét trích công sức duy trì, tôn tạo khối tài sản cho bà bằng 10% giá trị và bà
xin nhận bằng hiện vật.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích,
đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đề nghị Hội đồng xét xử
áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo
của nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, giữ nguyên
bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Sau khi xét xử sơ thẩm, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan trong vụ án và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có
đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm. Xét thấy đơn kháng cáo có nội dung và
hình thức phù hợp, trong thời hạn, theo quy định tại các Điều 271, 272, 273, 276
Bộ luật Tố tụng dân sự là kháng cáo hợp lệ và được giải quyết theo trình tự phúc
thẩm.
[2] Toà án cấp sơ thẩm đã xác định chính xác quan hệ pháp luật cần giải
quyết trong vụ án, giải quyết vụ án đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 2
Điều 28, khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 3 Điều 17 Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000 và Điều 59 Luật Hôn nhan và gia đình năm 2014; đã
xác định đúng và đủ các đương sự trong vụ án.
[3] Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã triệu tập hợp lệ các đương sự.
Tuy nhiên, nguyên đơn có đề nghị xét xử vắng mặt và đã có người đại diện theo
ủy quyền tham gia phiên toà. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ quan điểm của đại
diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội và quy định tại Điều 296 Bộ
luật Tố tụng dân sự để xét xử vụ án vắng mặt họ.
[4] Về nguồn gốc, tài sản bà P đang yêu cầu phân chia: Theo bản đồ 299,
diện tích đất đang tranh chấp thuộc thửa đất 149, tờ bản đồ số 8 diện tích 522m
2
loại đất ao; thửa 108 tờ bản đồ số 8, diện tích 545m
2
, loại đất thổ cư, cả hai thửa
đất đều đứng tên chủ sử dụng là cụ Phạm Văn Đ. Theo sổ mục kê cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1993 thể hiện thửa đất đang tranh chấp là
thửa 214, tờ bản đồ số 10, diện tích 498 m
2
(trong đó 300m
2
đất ở và 198 m
2
đất
vườn) và thửa 210 tờ bản đồ số 10 diện tích 241 m
2
loại đất ao, cả hai thửa đất
đứng tên chủ sử dụng là ông Phạm Văn U. Đến ngày 26/6/2002 thửa đất 214 và
220 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Phạm Văn U và
bà Nguyễn Thị P có tổng diện tích là 653 m
2
, trong đó thửa đất 214, diện tích 498
m
2
(300 m
2
đất ở và 198 m
2
đất vườn), thửa số 220 đều ở tờ bản đồ số 10 diện
tích 155m
2
ao nuôi trồng thủy sản. Khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất địa phương không trừ đất dôi dư ngoài đồng. Theo bản đồ đo vẽ hiện trạng
năm 2012 thể hiện thửa đất 157, tờ bản đồ số 26, tổng diện tích 742,8 m
2
, trong
đó đất ao là 304,2 m
2
và đất ở nông thôn là 438,6 m
2
. Diện tích đất hiện trạng
tăng so với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là do sai số khi đo đạc và tăng
diện tích chủ yếu về phần đất ao. Sau khi bà P chung sống cùng ông U đến năm
1992 thì xây dựng nhà lợp ngói, các công trình phụ…đến năm 2002 thì ông U, bà
P được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
[5] Như vậy, mặc dù tài sản hình thành trước khi ông U và bà P sinh sống
cùng nhau, có nguồn gốc do ông cha để lại cho ông U. Tuy nhiên thông qua việc
đề nghị và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang cả tên ông U, bà
P có đủ căn cứ xác định ông U đã tự nguyện nhập tài sản vào tài sản chung trong
thời gian sống cùng bà P. Quá trình sử dụng đất gia đình ông U không có tranh
chấp với các hộ liền kề, không lấn đất công của địa phương, nên Tòa án cấp sơ
thẩm đã xác định diện tích đất theo hiện trạng và kết quả định giá, cụ thể: Thửa
đất 214 và số 220, tờ bản đồ số 10, nay là thửa 157, tờ bản đồ số 26, tổng diện
tích quyền sử dụng đất là 742,8m
2
. Trong đó đất ở 300m
2
x 3.716.000 đồng =
1.114.800.000 đồng, đất vườn 143,4m
2
x 80.000 đồng = 11.472.000 đồng và đất
nuôi trồng thủy sản 299,5m
2
x 75.000 đồng = 22.462.500 đồng. Tổng giá trị
1.148.734.500 đồng là có căn cứ.
[6] Do tài sản có nguồn gốc của gia đình ông U và ông U tiếp tục quản lý,
duy trì tài sản từ năm 2006 cho đến nay, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định ông
U có công sức nhiều hơn bà P và chia cho ông U được hưởng 70% giá trị tài sản,
tương đương số tiền 804.114.150đ và chia cho bà P được hưởng 30% giá trị tài
sản, tương đương số tiền là 344.620.350đ. Xuất phát từ nhu cầu của các đương
sự, trên cơ sở diện tích đất lớn, đủ điều kiện phân chia để tạo lập chỗ ở cho các
đương sự, Tòa án cấp sơ thẩm đã chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là
quyền sử dụng đất cho cả ông U và bà P là có căn cứ, đúng quy định tại Điều 59
Luật Hôn nhân và gia đình, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương
sự.
[7] Do ông Phạm Văn U được hưởng phần đất có giá trị cao hơn với phần
được hưởng, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã buộc ông phải trả chênh lệch cho bà
Nguyễn Thị P số tiền 35.536.000 đồng (Ba mươi lăm triệu năm trăm ba mươi
sáu nghìn đồng - làm tròn) là đúng pháp luật.
[9] Ông U yêu cầu bà P phải chia số tiền có được khi lao động ở Đài Loan
- Trung Quốc là 300.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy: Tòa án cấp sơ
thẩm đã yêu cầu ông U cung cấp chứng cứ chứng minh số tiền 300.000.000đ bà
P có được do lao động ở Đài Loan - Trung Quốc nhưng ông U không cung cấp
được hợp đồng, bảng lương, biên lai gửi tiền, số lần gửi tiền, người nhận
tiền…của bà P. Những người làm làm chứng theo đề nghị của ông U cũng xác
định không biết bà P đi nước ngoài có được bao nhiêu tiền nên đã không chấp
nhận yêu cầu của ông là đúng pháp luật.
[10] Về công sức: Đối với tài sản gắn liền với đất do ông U và bà D quản
lý, duy trì, tôn tạo, xây mới gắn liền với quyền sử dụng đất. HĐXX xét thấy: từ
tháng 01/2009 thì ông U kết hôn với bà Nguyễn Thị D và sinh sống cùng nhau
trên thửa đất này, ông bà đã sửa lại nhà, làm lại sân, xây thêm nhà ngang để làm
bếp, công trình vệ sinh…nên xác định bà D, ông U có công sức đối với các tài
sản này. Tuy nhiên trong vụ án này bà P đã rút yêu cầu giải quyết đối với các tài
sản gắn liền với đất, hơn nữa khi Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành xem xét, thẩm
định tại chỗ, định giá tài sản thì ông U và gia đình quay phim, chụp ảnh, ngăn
cản không cho Tòa án thực hiện nhiệm vụ, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ
án nên Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành đo đạc, kiểm đếm, xác định tài sản
và giá trị tài sản tăng thêm trên phần đất này để có căn cứ tính công sức cho bà
D và ông U. Mặt khác, khi phân chia bằng hiện vật Tòa án cấp sơ thẩm đã giao
cho ông U quản lý sử dụng phần đất có nhiều tài sản của bà D và ông U để tránh
ảnh hưởng quyền lợi cho bà D và ông U. Đối với các tài sản của bà D, ông U
(nếu có) trên phần đất chia cho bà P thì bà D, ông U có quyền làm đơn khởi kiện
đòi tài sản, công sức trong vụ án khác. Quá trình giải quyết tại cấp phúc thẩm
ông U và bà D cũng xác định trên phần đất giao cho bà P không có công trình,
vật kiến trúc.
[11] Tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo không cung cấp được tài
liệu, chứng cứ mới cho yêu cầu kháng cáo của mình, nên không có căn cứ chấp
nhận đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị P, ông Phạm Văn U, bà Nguyễn Thị D.
Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa về việc
không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị P, ông Phạm Văn U, bà Nguyễn
Thị D, giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ cần chấp nhận.
[12] Về án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 29
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí kèm theo: Do kháng cáo không được
chấp nhận nên bà Nguyễn Thị P, ông Phạm Văn U, bà Nguyễn Thị D phải chịu
án phí dân sự phúc thẩm.
[13] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn là bà Nguyễn Thị P, bị
đơn là ông Phạm Văn U và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn
Thị D; Giữ nguyên Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 217/2024/HNGĐ-ST
ngày 04 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị P, ông Phạm Văn U, bà
Nguyễn Thị D mỗi người phải chịu 300.000 đồng, được đối trừ theo các Biên lai
thu tiền số 0000878 ngày 18/7/2024, số 0000873 và 0000874 cùng ngày
17/7/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- TAND tỉnh Hải Dương;
- VKSND tỉnh Hải Dương;
- Cục THADS tỉnh Hải Dương
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu HCTP, HSVA.
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
(Đã ký)
Nguyễn Hải Thanh
Tải về
Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 05/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 30/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm