Bản án số 05/2025/HNGĐ-PT ngày 14/01/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 05/2025/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 05/2025/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 05/2025/HNGĐ-PT
Tên Bản án: | Bản án số 05/2025/HNGĐ-PT ngày 14/01/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Cà Mau |
Số hiệu: | 05/2025/HNGĐ-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 14/01/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chia tài sản chung sau khi ly hôn |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 05/2025/HNGĐ-PT
Ngày: 14 - 01 - 2025
V/v Tranh chấp chia
tài sản sau khi ly hôn
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đinh Cẩm Đào
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Hiền
Bà Hoàng Thị Hải Hà
- Thư ký phiên tòa: Bà Phan Thị Thuý An, Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Cà
Mau.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Thuý Hồng - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 17 tháng 12 năm 2024 và ngày 14 tháng 01 năm 2025 tại trụ
sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số:
47/2024/TLPT-HNGĐ ngày 29 tháng 10 năm 2024 về việc “Tranh chấp chia tài sản
sau khi ly hôn”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 206/2024/HNGĐ-ST ngày 06 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Cà Mau bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2024/QĐ-PT ngày 08 tháng 11
năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Phi L, sinh năm 1960 (Có mặt)
Địa chỉ cư trú: Khóm 1, thị trấn C, huyện C, tỉnh Cà Mau.
- Bị đơn: Bà Lê Thị M, sinh năm 1975 (Có mặt)
Địa chỉ cư trú: Khóm 1, thị trấn C, huyện C, tỉnh Cà Mau.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Lê Thị T, sinh năm 1972 (Vắng mặt)
Địa chỉ cư trú: Khóm 1, thị trấn C, huyện C, tỉnh Cà Mau.
2. Anh Nguyễn Phi H, sinh năm 2002 (Có mặt)
Địa chỉ cư trú: Khóm 1, thị trấn C, huyện C, tỉnh Cà Mau.
2
3. Ủy ban nhân dân thị trấn C, huyện C, tỉnh Cà Mau (Vắng mặt).
Người đại diện theo pháp luật: Ông Châu Quốc Hùng - Chức vụ: Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thị trấn C.
Địa chỉ: Khóm 1, thị trấn C, huyện C, tỉnh Cà Mau.
- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Phi L, là nguyên đơn; Bà Lê Thị M là bị
đơn; Anh Nguyễn Phi H là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 24/7/2023 và các lời khai tại Tòa án ông Nguyễn Phi
L (Nguyên đơn) trình bày:
Ông và bà M ly hôn tại quyết định số: 141/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 10 tháng
7 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện C. Sau đó, ông có yêu cầu chia tài sản chung
và nợ chung, được giải quyết tại Bản án số: 137/2022/HNGĐ-ST, ngày 01 tháng 12
năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện C. Đối với 02 quầy kios vợ chồng ký hợp
đồng thuê của Uỷ ban nhân dân thị trấn C, quầy số 08 bà M ký hợp đồng và quầy số
09 do ông ký hợp đồng thì chưa được giải quyết chia tài sản chung.
Nay ông yêu cầu giải quyết chia các quầy như sau: Yêu cầu chia số tiền là
188.244.000 đồng là tiền thuê quầy kios số 08, giao quầy kios số 08 cho bà M tiếp
tục hợp đồng thuê với Ủy ban nhân dân thị trấn C; Yêu cầu chia số tiền là
188.244.000 đồng là tiền thuê quầy kios số 09, giao quầy kios số 09 cho ông tiếp tục
hợp đồng thuê với Ủy ban nhân dân thị trấn C; Yêu cầu bà M và anh Hải giao lại
quầy số 09 cho ông quản lý sử dụng. Đồng thời, ông yêu cầu bà M bồi thường thiệt
hại do chiếm giữ kinh doanh quầy số 09, số tiền là 360.000.000 đồng.
Tại các lời khai tại Tòa án, bà Lê Thị M (Bị đơn) trình bày:
Bà và ông L đã ly hôn tại quyết định số: 141/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 10
tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện C. Tại Bản án số: 137/2022/HNGĐ-
ST, ngày 01 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện C đã giải quyết chia tài
sản chung và nợ chung của vợ chồng. Đối với quầy kios số 08 bà ký hợp đồng và
quầy kios số 09 ông L ký hợp đồng thuê với Uỷ ban nhân dân thị trấn C chưa được
giải quyết chia tài sản chung, do quầy kios chung ông L xác định để lại cho hai đứa
con nên không yêu cầu chia. Quầy kios còn lại là của riêng bà được cha mẹ cho từ
năm 1997, kinh doanh đến từ năm 2001 thì đăng ký kinh doanh trên địa chỉ này,
đến năm 2004 thì kết hôn với ông L.
Trong thời điểm đó, quầy kios của thầy Đâu bán lại nên cha mẹ bà mua, bà có
01 căn quầy diện tích nhỏ nên mới thuê lại căn quầy của vợ chồng bà Tâm để bán
nhưng không liền kề, gia đình bàn bạc bán căn quầy của cha mẹ cho bà, bán lại cho
cha là ông Lê Hồng Vân để lấy tiền mua căn quầy của vợ chồng thầy Đâu để liền kề
với quầy của bà Tâm. Căn quầy cha mẹ cho là tài sản riêng của bà nên không đồng
ý chia, căn mua của vợ chồng bà Tâm là của vợ chồng. Sau khi Toà án giải quyết
3
chia tài sản chung thì ông L giao cho bà toàn bộ tài sản chung và bà có nghĩa vụ trả
nợ chung của vợ chồng. Hiện bà chưa có tiền trả nợ cho bà Tuyết nên đã giao quầy
kios số 08 cho bà Tuyết quản lý để trừ nợ. Đối với quầy kios số 09 là tài sản chung
của vợ chồng, hiện con là Nguyễn Phi H đang quản lý kinh doanh, bà yêu cầu chia
đôi được nhận quầy và giao lại giá trị ½ cho ông L. Bà không đồng ý bồi thường
thiệt hại cho ông L số tiền là 360.000.000 đồng.
Tại các lời khai tại Tòa án, bà Lê Thị T (Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan) trình bày:
Đối với quầy kios số 08 bà M ký hợp đồng thuê và quầy kios số 09 ông L ký
hợp đồng thuê với Uỷ ban nhân dân thị trấn C. Tại Bản án số: 137/2022/HNGĐ-ST,
ngày 01 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện C buộc ông L và bà M mỗi
người có nghĩa vụ trả cho bà số tiền là 351.260.000 đồng. Sau đó, bà M và ông L
thoả thuận giao cho bà M toàn bộ tài sản và phần nợ chung thì bà M nhận trả nên bà
M đưa tạm quầy kios số 08 cho bà quản lý đến nay để chờ bán nhà trả nợ cho bà.
Việc thoả thuận giao quầy kios số 08 không lập thành văn bản, hiện bà không buôn
bán quầy kios số 08 vẫn đóng cửa. Nếu trả nợ xong, bà đồng ý giao lại quầy kios số
08 cho bà M. Đối với quầy kios số 09 do ông L ký hợp đồng thuê với Uỷ ban nhân
dân thị trấn C thì do anh Hải quản lý mua bán. Nay việc tranh chấp giữa bà M và
ông L thì bà có ý kiến như sau: Trước đây, cha mẹ cho bà M một quầy kios khác
nhưng sau đó đổi thành quầy kios số 08 nên để lại cho bà M. Đối với quầy kios số
09 là tài sản chung nên chia đôi cho bà M và ông L. Nếu ông L và bà M sang nhượng
lại thì cho con là Nguyễn Phi H kinh doanh và Hải sẽ trả tiền lại. Ngoài ra, việc tranh
chấp hai quầy kios của bà M và ông L thì bà không có yêu cầu gì độc lập trong vụ
án.
Tại các lời khai tại Tòa án, anh Nguyễn Phi H (Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan) trình bày:
Anh trực tiếp quản lý quầy kios số 09 từ ngày 01/12/2022 đến nay do bà M
giao lại để kinh doanh giày dép, khi đó vẫn có một ít mặt hàng có sẵn, khi anh nhận
quầy thì anh có đầu tư mua thêm giày, dép. Nay anh không đồng ý giao lại cho ông
L quản lý quầy số 09, yêu cầu được nhận quầy kios số 09 để kinh doanh nuôi em gái
đang học phổ thông và giao lại ½ giá trị cho ông L.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 206/2024/DS-ST ngày 06 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Cà Mau quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Phi L.
Ông Nguyễn Phi L được quyền quản lý kinh doanh quầy kios số 09, theo hợp
đồng cho thuê diện tích bán hàng Chợ Cái Nước giai đoạn 3 số 09/HĐ-TMB-
UBND/2020, ngày 08/7/2020 giữa Uỷ ban nhân dân thị trấn C và ông Nguyễn Phi
L; Vị trí quầy kios số 09 có diện tích là 10,5 m
2
, kết cấu xây dựng nền bê tông, khung
4
tiền chế, vách tol thiếc, trong có quầy gác lửng, thuộc địa chỉ khóm 1, thị trấn C,
huyện C, tỉnh Cà Mau.
Buộc bà Lê Thị M và anh Nguyễn Phi H có nghĩa vụ di dời các tài sản kinh
doanh để giao trả lại cho ông Nguyễn Phi L quyền quản lý quầy kios số 09, có diện
tích là 10,5 m
2
, kết cấu xây dựng nền bê tông, khung tiền chế, vách tol thiếc, trong
có quầy gác lửng, thuộc địa chỉ khóm 1, thị trấn C, huyện C, tỉnh Cà Mau.
Bà Lê Thị M được quyền quản lý kinh doanh quầy kios số 08, theo hợp đồng
cho thuê diện tích bán hàng Chợ Cái Nước giai đoạn 3, số 08/HĐ-TMB-
UBND/2020, ngày 09/10/2020, giữa với Uỷ ban nhân dân thị trấn C và bà Lê Thị
M; Vị trí quầy kios số 08 có diện tích là 10,5 m
2
, kết cấu xây dựng nền bê tông,
khung tiền chế, vách tol thiếc, trong có quầy gác lửng, thuộc địa chỉ khóm 1, thị trấn
C, huyện C, tỉnh Cà Mau.
Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Phi L về việc yêu cầu bà Lê Thị
M phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại số tiền là 360.000.000 đồng (Ba trăm sáu
mươi triệu đồng).
Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của ông Nguyễn Phi L, về việc yêu cầu chia
số tiền thuê quầy kios là 188.244.000 đồng (Một trăm tám mươi tám triệu hai trăm
bốn mươi bốn nghìn đồng).
Không chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Phi H về việc yêu cầu được quản
lý kinh doanh quầy kios số 09, có diện tích là 10,5 m
2
, kết cấu xây dựng nền bê tông,
khung tiền chế, vách tol thiếc, trong có quầy gác lửng, thuộc địa chỉ khóm 1, thị trấn
C, huyện C, tỉnh Cà Mau và trả lại cho ông Nguyễn Phi L ½ giá trị quầy.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 10/9/2024, ông Nguyễn Phi L kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu cấp
phúc thẩm sửa án buộc bà M bồi thường thiệt hại cho ông số tiền 500.000.000 đồng
do bà M chiếm giữ kiot số 9 của ông.
Ngày 10/9/2024, bà Lê Thị M kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc
thẩm sửa án, xác định quầy kiot số 8 là tài sản riêng của bà, quầy kiot số 9 là tài sản
chung nhưng là nguồn thu nhập chính do Nguyễn Phi H kinh doanh để nuôi em gái
đang học phổ thông nên xin nhận quầy kiot số 9 và hoàn lại ½ giá trị cho ông L.
Ngày 10/9/2024, anh Nguyễn Phi H kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu cấp
phúc thẩm sửa án, theo hướng giao quầy kiot số 9 cho anh vì hiện tại anh Hải đang
mua bán trên quầy là nguồn thu nhập chính để kinh doanh để nuôi em gái đang học
phổ thông.
Tại phiên toà phúc thẩm: Các đương sự giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
- Tại phần tranh luận:
Ông L tranh luận: Ông yêu cầu giao quầy kiot số 09 cho ông để ông kinh
doanh vì hiện tại ông rất khó khăn phải đi làm thuê.
5
Bà M tranh luận: Mẹ con bà đang rất khó khăn vì nhà và quầy số 08 là tài sản
riêng của bà đã thế chấp cho người khác để giao tiền cho ông L khi chia tài sản chung
vào lần đầu tiên. Đối với quầy số 09 thì con bà là anh Hải đang kinh doanh nên xin
nhận quầy và giao lại cho ông L ½ giá trị của quầy số 09.
Anh Hải tranh luận: Anh đã biết kinh doanh mua bán từ lúc nhỏ nên tài sản
trong nhà có phần công sức của anh nhưng từ trước đến nay chưa được chia. Nay
anh xin nhận quầy kiot số 09 để kinh doanh nuôi em ăn học và nuôi mẹ anh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết
vụ án; của Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
tại phiên tòa đúng quy định pháp luật. Về nội dung vụ án: Xét thấy kháng cáo của
các đương sự là không có cơ sở nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều
308 của Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của các đương sự, giữ
nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện C.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Ông L khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung sau khi ly hôn của ông và bà
M đối với hai Quầy kiot tại chợ Cái Nước và yêu cầu bồi thường thiệt hại số tiền
360.000.000 đồng. Án sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn nên bà M, anh Hải và ông L kháng cáo.
[2] Xét kháng cáo của các đương sự, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[2.1] Đối với kháng cáo của ông L về việc yêu cầu bà M bồi thường số tiền
500.000.000 đồng do chiếm giữ Kiot từ tháng 07 năm 2020 đến nay gây thiệt hại
cho ông. Xét thấy, khi khởi kiện ông L yêu cầu bà M bồi thường số tiền 360.000.000
đồng, án sơ thẩm chỉ xem xét yêu cầu của ông L đối với số tiền 360.000.000 đồng
nên ông L kháng cáo yêu cầu khoản tiền bồi thường là 500.000.000 đồng là vượt
quá yêu cầu khởi kiện ban đầu. Do đó, Hội đồng xét xử chỉ xem xét đối với khoản
tiền án sơ thẩm đã xem xét là 360.000.000 đồng.
Đối với yêu cầu của ông L về việc yêu cầu bà M bồi thường thiệt hại do không
sử dụng, quản lý quầy số 09 từ tháng 7/2020 đến nay, mỗi tháng thiệt hại là
10.000.000 đồng. Xét thấy, thời điểm tháng 7 năm 2020, ông L bà M đã ly hôn
nhưng chưa chia tài sản chung. Đến tháng 12 năm 2022 ông L bà M yêu cầu chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân và được giải quyết tại Bản án số
137/2022/HNGĐ ST ngày 01/12/2022 nhưng các đương sự không có yêu cầu chia
tài sản đối với kiot số 8 và số 9. Bà M xác định kiot số 9 là tài sản chung do ông L
để lại để bà M nuôi hai con chung, ông L không thừa nhận. Tuy nhiên, các đương
sự chưa khởi kiện nên quầy kiot 09 chưa được giải quyết bằng bản án hay quyết định
của cơ quan có thẩm quyền giao cho ông L nên việc ông L cho rằng thiệt hại do bà
6
M chiếm giữ kiot của ông và yêu cầu bà M bồi thường là không có căn cứ chấp nhận.
Án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu trên của ông L là phù hợp.
[2.2] Xét kháng cáo của bà M về việc yêu cầu xác định quầy kiot số 8 là tài
sản riêng của bà M, quầy kiot số 9 là tài sản chung nhưng ông L đồng ý để lại cho
bà kinh doanh nuôi hai con, ông L không cấp dưỡng. Ông L không thừa nhận có
việc tặng cho hai quầy kiot lại cho bà M nuôi con.
[2.2.1] Xét về nguồn gốc hai quầy kiot số 08 và số 09 đã được ký hợp đồng
thuê với Ủy ban nhân dân thị trấn C, do ông L và bà M mỗi người đứng tên một hợp
đồng. Bà M xác định đối với quầy kiot số 08 có được là do đổi từ quầy kiot do cha
mẹ bà cho trước khi lấy chồng. Việc bà M trình bày đối với kiot số 8, có nhiều người
biết sự việc như ông Huỳnh Kim Hội, bà Hồ Hồng Nhặn, bà Lâm Thị Bé Tư và
những người ở gần quầy kiot của ông L bà M đều biết sự việc nêu trên. Lời xác nhận
của những người biết sự việc phù hợp với giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của
bà M đăng ký lần đầu vào năm 2001. Do đó, việc bà M được cha mẹ tặng cho một
quầy kiot từ năm 1997 đến năm 2001 thì bà M đăng ký kinh doanh tại giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh có địa chỉ khóm 1, thị trấn C huyện C, thời điểm này bà M
và ông L chưa đăng ký kết hôn. Nên việc bà M có một kiot để đăng ký kinh doanh
trước khi kết hôn với ông L là tài sản riêng của bà M là có căn cứ. Nên việc ông L
xác định tài sản chung là cả hai quầy kiot là không phù hợp.
[2.2.2] Đối với quầy kiot số 09 được đăng ký mua lại trong thời kì hôn nhân
của ông L bà M nên đây là tài sản chung của ông L bà M. Bà M xác định trước đây
bà có trình bày khi chia tài sản chung bà M đồng ý nhận hai quầy kiot và trả lại cho
ông L 40% giá trị vì ông L đồng ý cho lại hai con để lấy tiền đi học. Lời trình bày
của bà M chỉ thể hiện bằng lời nói, không có văn bản nào thể hiện ông L đồng ý giao
lại giá trị quyền kinh doanh kiot cho hai người con của ông L. Do đó, xác định quyền
kinh doanh là tài sản chung của ông L bà M nên ông L yêu cầu chia tài sản chung là
phù hợp. Do quầy kiot thuộc quyền quản lý của nhà nước, quyền kinh doanh kiot thì
không thể tiến hành định giá được.Theo bà M xác định khi chuyển nhượng quyền
kinh doanh mỗi quầy có giá từ 350.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng, ông L xác
định không biết giá chuyển nhượng, các hộ dân kinh doanh xác định giá chuyển
nhượng từ 400.000.000 đồng đến 450.000.000 đồng trên một quầy. Do quyền kinh
doanh kiot không thể tiến hành định giá được, do đó lấy giá trung bình của các đương
sự và giá thực tế các hộ dân ở gần kiot tranh chấp là 425.000.000 đồng trên một quầy
kiot.
[2.2.3] Xét về quyền kinh doanh kiot, ông L yêu cầu nhận quầy kiot, do ông
không có nhà ở, không có cơ sở kinh doanh; anh Hải, bà M yêu cầu giao kiot cho
anh Hải bà M để kinh doanh vì đây là nguồn sống duy nhất của ba mẹ con.
Qua xem xét thực tế, thấy rằng, quầy kiot số 08 là tài sản riêng của bà M và
căn nhà của bà M đã cầm cố cho bà Tuyết. Chỉ còn quầy kiot số 9 do anh Hải đang
7
buôn bán kinh doanh để nuôi bà M và em gái đang học phổ thông. Tại phiên tòa
phúc thẩm, ông L thừa nhận sau khi ly hôn và chia tài sản chung lần đầu thì tất cả
tài sản đều chia đôi, ông không có cấp dưỡng nuôi con, cũng không có dành lại phần
tài sản nào cho hai người con của ông. Do đó, hiện nay con gái của bà M ông L đang
học phổ thông, gia đình bà M, anh Hải đang kinh doanh trên quầy số 09, đây là
nguồn thu duy nhất của gia đình nên tiếp tục giao cho bà M, anh Hải tiếp tục kinh
doanh. Bà M có nghĩa vụ giao lại cho ông L ½ giá trị quyền kinh doanh kiot số 09
với số tiền là 212.500.000 đồng là phù hợp.
[3] Từ những phân tích trên, không chấp nhận kháng cáo của ông L, chấp nhận
kháng cáo của bà M, anh Hải.
[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát không phù hợp với nhận định của
Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do chấp nhận kháng cáo của bà M, anh Hải
nên các đương sự không phải chịu án phí. Ông L phải chịu án phí, do ông L là người
cao tuổi có đơn xin miễn án phí nên được miễn án phí.
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên không đặt
ra xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết
số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Phi L.
Chấp nhận kháng cáo của bà Lê Thị M, anh Nguyễn Phi H.
Sửa bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 206/2024/HNGĐ-ST ngày 06
tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Cà Mau.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Phi L.
Buộc bà Lê Thị M có nghĩa vụ giao trả cho ông Nguyễn Phi L số tiền
212.500.000 đồng (Hai trăm mười hai triệu năm trăm nghìn đồng) là ½ giá trị quyền
kinh doanh tại quầy kiot số 9 theo hợp đồng cho thuê diện tích bán hàng Chợ Cái
Nước giai đoạn 3 số 09/HĐ-TMB-UBND/2020, ngày 08/7/2020 giữa Ủy ban nhân
dân thị trấn C và ông Nguyễn Phi L.
Bà M có quyền, nghĩa vụ liên hệ đến cơ quan quản lý quầy kiot số 9 để thực
hiện việc chuyển đổi tên trên hợp đồng khi thực hiện xong nghĩa vụ với ông L.
8
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người
phải thi hành án không thi hành xong khoản tiền trên, thì người phải thi hành án
phải trả thêm khoản lãi theo quy định tại Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng
với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
2. Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Phi L về việc yêu cầu bà Lê Thị
M phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại số tiền là 360.000.000 đồng (Ba trăm sáu
mươi triệu đồng) và chia tài sản chung là quầy kiot số 08 có diện tích là 10,5 m
2
,
thuộc địa chỉ khóm 1, thị trấn C, huyện C, tỉnh Cà Mau.
Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của ông Nguyễn Phi L, về việc yêu cầu chia
số tiền thuê quầy kiot là 188.244.000 đồng (Một trăm tám mươi tám triệu hai trăm
bốn mươi bốn nghìn đồng).
3. Chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Phi H, bà Lê Thị M về việc yêu cầu
được quản lý kinh doanh quầy kiot số 08 và số 09, mỗi quầy có diện tích là 10,5 m
2
,
kết cấu xây dựng nền bê tông, khung tiền chế, vách tol thiếc, trong có quầy gác lửng,
thuộc địa chỉ khóm 1, thị trấn C, huyện C, tỉnh Cà Mau.
4. Về án phí:
4.1. Án phí sơ thẩm:
Bà Lê Thị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: 10.625.000 (Mười
triệu sáu trăm hai mươi lăm nghìn) đồng (chưa nộp).
Ông Nguyễn Phi L được miễn án phí.
Anh Nguyễn Phi H không phải chịu án phí sơ thẩm, ngày 04/4/2024, anh Hải
có nộp tạm ứng 300.000 đồng (biên lai số 0013035) tại Chi cục thi hành án dân sự
huyện C, được nhận lại.
4.2. Án phí phúc thẩm:
Ông Nguyễn Phi L được miễn án phí.
Bà Lê Thị M, anh Nguyễn Phi H không phải chịu án phí. Ngày 13/9/2024, bà
M, anh Hải mỗi người đã nộp tạm ứng 300.000 đồng (lai thu số 0013598, 0013597)
tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, được nhận lại.
5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
9
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân huyện C;
- Chi cục THADS huyện C;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đinh Cẩm Đào
10
11
12
13
14
15
êu cầu của ông L về việc yêu cầu nhận quầy kios số 09, yêu cầu bà M và anh
Hải giao lại quầy kios số 09 cho ông L quản lý kinh doanh. Phía bà M không đồng
ý, cho rằng quầy số 08 là tài sản riêng, đã giao cho bà Tuyết để trừ nợ; Quầy số 09
là tài sản chung của vợ chồng, đã giao cho anh Hải quản lý kinh doanh. Anh Hải yêu
cầu được quản lý sử dụng quầy số 09 và trả ½ giá trị cho ông L.
Thấy rằng, đối với quầy kios số 08 do bà M ký hợp đồng thuê với Uỷ ban
nhân dân thị trấn C và quầy số 09 do ông L ký hợp đồng thuê với Uỷ ban nhân dân
thị trấn C, tiền thuê quầy kios là của ông L và bà M. Đối với 02 quầy kios là tài sản
được xây dựng trên phần đất thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, phần công trình
kiến trúc xây dựng quầy là của Uỷ ban nhân dân thị trấn C chứ không thuộc tài sản
chung của ông L và bà M, phía ông L và bà M chỉ thực hiện việc ký hợp đồng thuê
quầy kios với Ủy ban nhân dân thị trấn C để buôn bán kinh doanh. Xét việc ông L
và bà M ký hợp đồng thuê quầy kios số 08 và quầy kios số 09 của Uỷ ban nhân dân
thị trấn C trong thời kỳ hôn nhân, bà M không có chứng cứ chứng minh tiền thuê
quầy kios số 08 là tài sản riêng của bà có trước khi kết hôn, không có văn bản thoả
thuận giữa ông L và bà M về việc tiền thuê quầy số 08 là tài sản riêng của bà M.
Ngày 13/8/2017 ông L ký hợp đồng thuê quầy kios số 09 với Uỷ ban nhân dân thị
trấn C trong thời hạn 06 năm, thời gian này ông L và bà M chưa ly hôn. Đến ngày
10/9/2019 ông L và bà M ly hôn. Tiếp đến ngày 08/7/2020 ông L tiếp tục ký hợp
đồng thuê lại với Uỷ ban nhân dân thị trấn C, tiền thuê 02 quầy kios là tài sản chưa
được chia nên vẫn là tài sản chung của vợ chồng. Xét thấy, việc ký hợp đồng thuê
quầy kios là việc cá nhân ký hợp đồng thuê quầy với Uỷ ban nhân dân thị trấn C.
Đồng thời, tại Bản án số: 137/2022/HNGĐ-ST, ngày 01 tháng 12 năm 2022 của Tòa
án nhân dân huyện C, tại các lời trình bày bà M cũng thừa nhận đối với quầy kios số
08 và quầy kios số 09 thì bà M yêu cầu nhận hai quầy kios và trả lại giá trị cho ông
L theo tỷ lệ bà M 6 phần, ông L 4 phần.
Như vậy, căn cứ theo Hợp đồng thuê quầy kios được lập ngày 08/7/2020 giữa
ông L với Ủy ban nhân dân thị trấn C thể hiện ông L là người thuê quầy kios số 09
và Hợp đồng thuê quầy kios được lập ngày 09/10/2020 giữa bà M với Ủy ban nhân
dân thị trấn C thể hiện bà M là người thuê quầy kios số 08. Hai hợp đồng thuê quầy
kios, mỗi quầy đều có diện tích là 10,5 m
2
, kết cấu xây dựng nền bê tông, khung tiền
chế, vách tol thiếc, trong có quầy gác lửng. Thời gian thuê quầy số 08 là 27,9 năm
16
(từ ngày 01/3/2018 đến ngày 24/01/2046 hết hạn hợp đồng), thời gian thuê quầy số
09 là 24,9 năm (từ ngày 01/3/2018 đến ngày 24/01/2043 hết hạn hợp đồng). Phía
ông L và bà M cùng Ủy ban nhân dân thị trấn C xác định trước đó ông L và bà M đã
có ký hợp đồng thuê quầy với Ủy ban nhân dân thị trấn C để kinh doanh mua bán
trong thời kỳ hôn nhân, sau khi hết hạn hợp đồng nên ông L và bà M ký lại. Phía
anh Hải cũng xác định không có đóng góp công sức, tiền để thuê quầy kios số 08 và
quầy kios số 09 của Ủy ban nhân dân thị trấn C là của ông L và bà M. Đồng thời,
Uỷ ban nhân dân thị trấn C cũng đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng thuê quầy kios
số 08 đối với bà M và quầy kios số 09 với ông L.
Từ những phân tích trên có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của ông L, ông L được nhận quản lý kinh doanh quầy kios số 09; Buộc bà M
và anh Hải có nghĩa vụ di dời các tài sản kinh doanh để giao trả lại cho ông L quyền
quản lý quầy kios số 09. Bà M được quản lý kinh doanh quầy kios số 08. Vị trí hai
quầy cùng thuộc địa chỉ khóm 1, thị trấn C, huyện C, tỉnh Cà Mau.
[2.3] Đối với yêu cầu của ông L về việc yêu cầu bà M bồi thường thiệt hại do
không sử dụng, quản lý quầy số 09, từ tháng 7/2020 đến nay, mỗi tháng là
10.000.000 đồng, với số tiền là 360.000.000 đồng. Thấy rằng, số tiền thuê quầy kios
số 08 và số 09 của Ủy ban nhân dân thị trấn C là tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân. Tại Bản án số: 137/2022/HNGĐ-ST, ngày 01 tháng 12 năm 2022
của Tòa án nhân dân huyện C khi giải quyết về ly hôn, ông L và bà M có yêu cầu
chia tài sản chung và nợ nhưng không yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản đối với
tiền thuê quầy số 08 và số 09 là quyền định đoạt của các đương sự. Sau đó, ông L
và bà M không thỏa thuận được nên ông L có đơn khởi kiện bà M, về việc yêu cầu
chia tài sản chung sau khi ly hôn. Phía ông L cũng không cung cấp được chứng cứ
chứng minh có thiệt hại. Do đó, Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận yêu cầu
của ông L về việc yêu cầu bà M bồi thường thiệt hại số tiền là 360.000.000 đồng.
[3] Theo nhận định tại mục [2.2] chấp nhận yêu cầu của ông L buộc bà M và
anh Hải giao trả lại cho ông L quầy kios số 09 để tiếp tục hợp đồng thuê với Ủy ban
nhân dân thị trấn C nên không chấp nhận yêu cầu độc lập của anh Nguyễn Phi H về
việc yêu cầu được quản lý quầy kios số 09 và trả lại cho ông L ½ giá trị quầy.
[4] Đối với việc Ủy ban nhân dân thị trấn huyện C ký hợp đồng với ông L cho
thuê quầy kios số 09 và ký hợp đồng với bà M cho thuê quầy kios số 08, thời hạn
hợp đồng thuê vẫn còn nên tiếp tục thực hiện hợp đồng cho thuê diện tích bán hàng
chợ Cái Nước giai đoạn 3 giữa ông L, bà M và Uỷ ban nhân dân thị trấn C.
17
[5] Do bà M được nhận quầy kios số 08 để tiếp tục hợp đồng thuê với Uỷ ban
nhân dân thị trấn C nhưng bà M giao cho bà Tuyết quản lý, giữa bà M và bà Tuyết
không có tranh chấp hay yêu cầu gì trong vụ án này nên không đặt ra xem xét.
[3] Tại cấp sơ thẩm tiến hành định giá nhà đất tổng diện là 01 nền nhà theo
quyền sử dụng đất là 81m
2
được cấp giấy chứng nhận và phần đo đạc thực tế đang
sử dụng là 49,7m
2
tổng diện tích theo đo đạc thực tế là 130,70m
2
, tổng giá trị nhà
đất là 2.101.240.000 đồng.
Ông Dựa không đồng ý kết quả định giá nhà đất ở cấp sơ thẩm và yêu cầu
định giá diện tích là 81m
2
. Phần đất còn lại là 49,7m
2
ông Dựa xác định là đất do
nhà nước quản lý. Tại công văn số 413/UBND ngày 23/9/2024 của Uỷ ban nhân dân
thị trấn Trần Văn Thời, xác định: “ ...Nếu trường hợp hộ dân có nhu cầu xin cấp giấy
chứng nhận phần diện tích đất nêu trên thì nhà nước thực hiện giao đất với mục đích
là đất ở và hộ dân phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định...” Đại diện theo uỷ quyền
của bà Ẩn xác định không đồng ý theo kết quả định giá của ông Dựa.
[4] Tại phiên toà phúc thẩm các đương sự thoả thuận được với nhau về việc
giải quyết vụ án, cụ thể ông Dựa đồng ý giao toàn bộ 01 nền nhà và phần đất theo
đo đạc thực tế là 130,70m
2
. Phần đất này được cấp quyền sử dụng số AC 905789,
ngày 22.7.2005 do hộ ông Lâm Hoàng Dựa và bà Nguyễn Ngọc Ẩn đứng tên, tại
thửa số 30, tờ bản đồ số 17, phần đất được cấp quyền sử dụng đất là 81m
2
tọa lạc tại
khóm 1, thị trấn Trần Văn Thời, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Đồng thời, bà
Ẩn có nghĩa vụ giao lại cho ông Dựa số tiền 1.050.000.000 đồng. Bà Ẩn có quyền
liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để làm thủ tục cấp quyền sử dụng đất theo quy
định.
Xét đây là sự thoả thuận của các đương sự là tự nguyện, không trái quy định
pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự thoả thuận của các đương sự, sửa bản án
dân sự sơ thẩm theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.
[] Chi phí tố tụng: Chi phí đo đạc định giá ở cấp sơ thẩm tổng là 16.004.000
đồng, nguyên đơn đã nộp xong và đồng ý tự chịu số tiền trên. Đối với tiền định giá
tại sản ở cấp phúc thẩm, bị đơn tự chịu, bị đơn đã nộp xong.
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 05/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 30/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm