Bản án số 07/2025/HNGĐ-PT ngày 19/02/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 07/2025/HNGĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 07/2025/HNGĐ-PT ngày 19/02/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Số hiệu: 07/2025/HNGĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/02/2025
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu H, bị đơn ông Trần Tiến H1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Đức Huỳnh . Giữ nguyên Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 100/2024/HNGĐ-ST ngày 23/8/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 07/2025/HNGĐ-PT
Ngày: 19/02/2025
V/v:“Chia tài sản chung sau ly hôn
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
ông Trần Đức Kiên
Các Thẩm phán:
ông Lê Văn Thường
ông Phùng Anh Dũng
- Thư ký phiên tòa: ông Trần Xuân Lộc, Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao tại
Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên tòa:
ông Trần Viết Tuấn, Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 02 năm 2025, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng, kết nối với điểm cầu thành phần tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh
Quảng Bình, mở phiên toà xét xử phúc thẩm công khai bằng hình thức trực tuyến vụ
án hôn nhân gia đình phúc thẩm thụ số 17/2024/TLPT-HNGĐ ngày 01 tháng 10
năm 2024 về việc “Chia tài sản chung sau ly hôn”.
Do Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 100/2024/HNGĐ-ST ngày
23/8/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 311/2025/-PT ngày 20 tháng 01
năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1972; địa chỉ: số B B, phường
H, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Thái T, sinh năm 1948; địa chỉ: tổ dân phố
P, thị trấn K, huyện L, tỉnh Quảng Bình; có mặt.
- Bị đơn: ông Trần Tiến H1, sinh năm 1967; địa chỉ: tổ dân phố M, phường Q,
thị xã B, tỉnh Quảng Bình; có mặt.
2
Đại diện theo ủy quyền: bà Nguyễn Thị H2; địa chỉ: thôn T, N, huyện L, tỉnh
Quảng Bình; có mặt.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: anh Trần Đức H3, sinh năm 1993; địa
chỉ cư trú trước khi xuất cảnh: tổ dân phố M, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình,
hiện cư trú tại: Osaka-fu Osaka Shi Ikuno-ku M L verite 21-505 - Nhật Bản.
Đại diện theo ủy quyền: ông Trần Tiến H1, sinh năm 1967; địa chỉ: tổ dân phố
M, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình; có mặt.
Người kháng cáo: nguyên đơn, bị đơn người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị
Thu H trình bày: ông Trần Tiến H1 đăng ký kết hôn với nhau vào năm 1990
tại UBND xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, nhưng do mâu thuẫn trong cuộc sống,
giữa các bên đã thuận tình ly hôn nhau theo Quyết định số 33/2020/QĐST-HNGĐ,
ngày 21/5/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn về việc công nhận ly hôn và sự
thỏa thuận của các đương sự, nhưng về phần i sản chung trong thời kỳ hôn nhân
thì các bên tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng tạo lập được khối tài sản chung gồm: thửa
đất số 1049, tờ bản đồ số 10, diện tích 442,2m
2
tại tổ dân phố M, phường Q mang
tên Trần Tiến H1Nguyễn Thị Thu H (BL 46) và thửa đất số 961, tờ bản đồ số 10,
diện tích 470,1m
2
tại tổ dân phố M, phường Q mang tên Trần Tiến H1 Nguyễn
Thị Thu H (BL 43), trên hai thửa đất đã ncác tài sản vật dụng sinh hoạt.
Các tài sản trên có nguồn gốc từ số tiền bà đã lao động trong thời gian ở nước ngoài
gửi về cho ông H1, còn con cái đang còn nhỏ nên không có đóng góp tôn tạo tài sản
chung.
Do đó, khởi kiện yêu cầu Tòa án phân chia tài ½ giá trị tài sản chung được
tạo lập trong thời kỳ hôn nhân và được nhận giá trị tài sản bằng hiện vật thửa
đất số 1049 và toàn bộ tài sản gắn liền trên đất; còn vật dụng khác trong gia đình bà
không yêu cầu phân chia.
- Quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Trần Tiến H1 trình bày: về mối quan
hệ hôn nhân đã được Tòa án giải quyết như bà H trình bày ông không ý kiến
gì thêm. Tuy nhiên, về nguồn gốc hình thành nên khối tài sản chung ngoài công sức
của vợ chồng còn sự đóng góp của 02 người con hiện đang lao động ở nước ngoài
đã gửi tiền để xây nhà ở. Ngoài ra, ông còn cho rằng việc làm nhà bắt đầu từ tháng 4
âm lịch năm 2015 nhưng do thiếu tiền nên ông đã bàn bạc với H để vay Ngân
hàng, chứ con ở nước ngoài gửi tiền về không kịp làm. Sau đó, vợ chồng đã bàn bạc
và thế chấp thửa đất số 961 để vay ngân hàng Nông nghiệp với số tiền 300.000.000
đồng để có tiền xây nhà mới tại thửa đất số 1049 và đưa vào sử dụng vào Tết âm lịch
năm 2016. Sau khi làm xong nhà mới, ông tiếp tục thế chấp toàn bộ thửa đất 1049
và nhà mới để vay 1.000.000.000 đồng để trả cho khoản vay 300.000.000đ tại Ngân
3
hàng Nông nghiệp, số tiền còn lại sử dụng vào mục đích mua xe trả nợ. Sau khi
vào ổn định, ông đã tiến hành các thủ tục biến động tăng thêm về diện tích đất ở,
đất vườn tại thửa đất 961 lên 350m
2
như hiện nay nhằm mục đích các con trai sau
này lấy vợ sẽ đất ở. Tiếp đó, ông đã mua thêm 01m chiều rộng đcó đường đi
vào nhà, đồng thời đổ cát sửa chữa với số tiền 130.000.000 đồng. Riêng số tiền đã
bỏ ra để mua đất hai lần hết 75.000.000 đồng toàn bộ số tiền đều do hai con gửi
về để có thêm vốn cũng như trả các khoản vay tại Ngân hàng. Hiện nay, hai con trai
lớn đã gửi tiền v trả xong các khoản nợ; hiện nay còn nợ riêng của chú D
78.000.000đ và chỉ mới đã trả được 43.000.0000đ. Sau khi vợ chồng đã ly hôn thì số
tiền vay tại Ngân hàng chưa trả hết, nhưng ông tiếp tục vay của chú C S số tiền
30.000.000đ, hiện nay vẫn chưa trả được; ngoài ra, vợ chồng vẫn còn một số
khoản vay mượn khác nhưng hiện nay đã trả hết. vậy, ông đề nghị Tòa án phân
chia tài sản chung được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân theo quy định của pháp luật,
nhưng phải khấu trừ số tiền 01 tỷ đồng công sức đóng góp xây dựng nhà trên
thửa đất 1049 do con trai Trần Đức H3, hiện đang lao động tại Nhật Bản từ năm 2012
đã gửi về.
- Đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Trần Đức H3: theo nội
dung công văn số 2054/CV-QLXNK, ngày 13/9/2023 của Phòng Q Công an tỉnh Q
xác nhận anh H3 đã xuất cảnh lần gần nhất vào ngày 05/02/2020, hiện chưa thông
tin nhập cảnh về nước (BL 105). Căn cứ địa chỉ do ông H1 cung cấp thể hiện anh H3
hiện nay đang lao động tại Nhật Bản, Tòa án đã thực hiện việc ủy thác pháp cho
Đại sứ quán tại Việt Nam để tống đạt các văn bản tố tụng yêu cầu anh H3 cung
cấp tài liệu chứng cứ cũng như ý kiến về việc ông H1 đề nghị Tòa án trích số tiền 01
tỷ đồng phần công sức đóng góp vào tài sản chung của bố mẹ, nhưng không nhận
được bất cứ ý kiến phản hồi của anh H3 (BL:178-179-180). Do đó, Tòa án tiến hành
thủ tục thông báo trên kênh đài tiếng nói Việt Nam dành cho người nước ngoài trong
03 số liên tiếp vào các ngày từ ngày 28/02/2024 đến ngày 01/3/2024 (BL:182-183),
đồng thời thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Bình nhưng vẫn không nhận được ý kiến phản hồi của anh H3. Sau đó ông H1 đã
trực tiếp nộp cho Tòa án các văn bản có xác nhận của L thể hiện thông tin, hiện nay
anh H3 đang làm việc trong Công ty D1 tại Nhật Bản (từ bút lục 185 đến bút lục
210). Ngoài ra không văn bản nào thể hiện ý kiến của anh H3 về phần đóng góp
vào khối tài sản chung của bố mẹ.
Tại phiên toà thẩm, ông H1 nộp văn bản ủy quyền lập ngày 13/8/2024 (có
xác nhận của T1 tại Nhật Bản) về việc anh H3 ủy quyền cho ông H1, trong đó anh
H3 trình bày nội dung: từ năm 2012 sau khi sang Nhật Bản học tập, làm việc cho đến
ngày bố mẹ ly hôn, anhgửi về cho bố mẹ giữ hsố tiền khoảng 02 tỷ đồng theo
sao kê Ngân hàng mà ông H1 đã gửi cho Tòa án. Trong khoảng thời gian đó bố mẹ
có tạm mượn trước số tiền này để chi trả cho việc xây nhà, tiền vay Ngân hàng, tiền
đáo hạn Ngân hàng, tiền lãi Ngân hàng cũng như các khoản chi khác của gia đình.
4
Theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ ngày 31/3/2023 của Tòa án nhân dân
thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình, cụ thể như sau:
+ Thửa đất số 1049, tờ bản đồ số 10, diện tích 262,4 m
2
tại tổ dân phố M,
phường Q giá trị theo giá thị trường: 12.000.000 đồng/m
2
x 262,4 m
2
=
3.148.800.000 đồng; trên thửa đất có các tài sản: 01 ngôi nhà hai tầng xây năm 2015
có giá trị 1.414.820.000 đồng; xung quanh nhà có tường xây bao, giá trị 22.452.910
đồng; cổng sắt kiên cố, đổ mái giá 12.880.560 đồng; trụ cổng: 2.512.152 đồng.
Ngoài ra, phía trước phần đất phía Nam có 01 ngôi nhà đặt máy cắt đá, mái lợp tôn;
01 chuồng nuôi lợn xây đơn giản. Tổng giá trị đất tài sản trên đất
4.601.465.000 đồng.
+ Thửa đất số 961, tờ bản đồ số 10, diện tích 470,1 m
2
tại tổ dân phố M, phường
Q giá trị theo giá thị trường 5.000.000 đồng/m
2
x 470,1 m
2
= 2.350.500.000 đồng;
trên thửa đất có các tài sản: 01 ngôi nhà cấp 4 xây năm 1996 có giá trị 201.476.000
đồng; 01 mái che lợp tôn có giá trị 19.734.000 đồng. Tổng giá trị đất và tài sản gắn
liền là 2.571.710.000 đồng.
Sau khi nhận được biên bản thẩm định định giá tài sản, kết quả đo vẽ các
thửa đất, các bên đương sự đều nhất trí và không có ý kiến gì quá trình giải quyết
vụ án các bên đương sự đề nghị sử dụng kết quả này để làm căn cứ giải quyết vụ án.
Với nội dung nêu trên, tại Bản án hôn nhân gia đình thẩm số
100/2024/HN-ST ngày 23/8/2024, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình quyết
định: căn cứ khoản 2 Điều 28, khoản 3 Điều 35, Điều 39, 147, 151, 153, 157, khoản
2 Điều 165, 227, 228, 474 và Điều 479 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều
29, 33, 38, 59, 62 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a, b khoản 1 Điều 24;
khoản 2 Điều 26, Điều 27; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu H về việc
chia tài sản chung sau khi ly hôn với ông Trần Tiến H1.
1.1. Về tài sản chung: xác định tài sản chung được tạo lập trong thời kỳ hôn
nhân của ông Trần Tiến H1 Nguyễn Thị Thu H tổng gtrị thành tiền
7.713.165.000 đồng, trong đó:
+ Thửa đất số 1049, tờ bản đồ số 10; diện tích 262,4m
2
đất ở tại tổ dân phố M,
phường Q, thị B, tỉnh Quảng Bình được UBND thị xã B, tỉnh Quảng Bình cấp
GCNQSDĐ số BT 600484, số vào sổ cấp GCN CH 02017 ngày 18/6/2014 mang tên
Trần Tiến H1 Nguyễn Thị Thu H và toàn bộ tài sản gắn liền trên đất có tổng giá
trị 4.601.465.000 đồng.
+ Thửa đất số 961, tờ bản đsố 10; diện tích 470,1m
2
tại tổ dân phố M, phường
Q, thị B, tỉnh Quảng Bình đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q cấp
GCNQSDĐ sCR 153684, số vào sổ cấp GCN: CS 03873 ngày 21/6/2019 mang tên
5
Trần Tiến H1 Nguyễn Thị Thu H và toàn bộ tài sản gắn liền trên đất có tổng giá
trị 2.571.700.000 đồng.
1.2. Về phân chia tài sản chung:
1.2.1. Phân chia bằng giá trị:
- Chia cho ông Trần Tiến H1 ½ giá trị tài sản tương ứng số tiền 3.586.582.000
đồng.
- Chia cho Nguyễn Thị Thu H ½ giá trị tài sản tương ứng số tiền
3.586.582.000 đồng.
1.2.2. Phân chia bằng hiện vật:
- Giao thửa đất số 1049, tờ bản đồ số 10; diện tích 262,4m
2
đất ở, tại tổ dân phố
M, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình được UBND thị xã B, tỉnh Quảng Bình cấp
GCNQSDĐ số BT 600484, số vào sổ cấp GCN: CH02017 ngày 18/6/2014 mang tên
Trần Tiến H1 Nguyễn Thị Thu H toàn bộ tài sản gắn liền trên đất giá trị
4.601.465.000 đồng cho ông Trần Tiến H1 được quyền sở hữu và sử dụng.
- Giao thửa đất số 961, tờ bản đồ số 10; diện tích 470,1m
2
(trong đó 200m
2
đất ở 270,1m
2
đất trồng cây hàng năm khác) tại tổ dân phố M, phường Q, thị
B, tỉnh Quảng Bình đã được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Q cấp GCNQSDĐ
số CR 153684, số vào sổ cấp GCN: CS03873 ngày 21/6/2019 mang n Trần Tiến
H1 Nguyễn Thị Thu H toàn bộ tài sản gắn liền trên đất có giá trị 2.571.710.000
đồng cho bà Nguyễn Thị Thu H được quyền sở hữu và sử dụng.
- Buộc ông Trần Tiến H1 có nghĩa vụ thanh toán cho bà Nguyễn Thị Thu H số
tiền chênh lệch về giá trị tài sản được nhận 1.014.882.000 đồng.
1.3. Sau khi thực hiện xong các nghĩa vụ, các bên đương squyền liên hệ
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đăng ký biến động về quyền sử dụng đất
tài sản gắn liền với thửa đất theo quy định của pháp luật đất đai.
Ngoài ra, bản án còn tuyên vchi phí tố tụng, án phí, nghĩa vụ thi hành án và
thông báo quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 30/8/2024, bị đơn ông Trần Tiến H1 kháng cáo đnghị sửa bản án
thẩm, bác đơn khởi kiện của nguyên đơn, xác định tài sản tranh chấp trong vụ án
sở hữu chung của cả bốn người con của ông H1, H; căn nhà hai tầng trên thửa đất
số 1049 là tài sản riêng của anh Trần Đức H3;
Ngày 06/9/2024, nguyên đơn Nguyễn Thị Thu H kháng cáo bản án sơ thẩm,
đề nghị sửa án thẩm, H xin được nhận ngôi nhà 2 tầng, thửa đất 1049 các
tài sản trên đất, bà sẽ thanh toán giá trị chênh lệch tài sản cho ông Trần Tiến H1;
Ngày 11/9/2024, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Đức H3 kháng
cáo đnghị sửa án thẩm theo hướng chia toàn bộ tài sản tranh chấp trong vụ án
cho cả các con chung của ông H1, H; giao cho bà H căn nhà cấp 4 một phần
đất tại thửa đất số 961.
6
Tại phiên toà, nguyên đơn giữ nguyên đơn khởi kiện; nguyên đơn, bị đơn
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan giữ nguyên các nội dung kháng cáo; các bên
đương sự không hoà giải, không tự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ
án và đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử
căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bluật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo
của các đương sự và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên
toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Về tố tụng:
Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn luật định, nguyên đơn, bị đơn và người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo bản án sơ thẩm. Do đó, Hội đồng xét xử
quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
[2]. Về nội dung:
Nội dung kháng cáo của các đương sự liên quan đến tài sản chung tranh chấp
trong vụ án nên Hội đồng xét xử xem xét các vấn đề sau:
[2.1]. Về nguồn gốc tài sản:
Ông Trần Tiến H1 và bà Nguyễn Thị Thu H vợ chồng, đăng ký kết hôn vào
năm 1990 tại UBND Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Tại Quyết định công nhận
thuận tình ly hôn số 33/2020/QĐST-HNGĐ ngày 21/5/2020, Toà án nhân dân thị
Ba Đồn, tỉnh Quảng nh công nhận sự thuận tình ly hôn giữa Nguyễn Thị Thu
H với ông Trần Tiến H1. Sau khi ly hôn, phần tài sản chung các bên không tự thỏa
thuận được nên phát sinh tranh chấp. vậy, nguyên đơn H khởi kiện yêu cầu
phân chia tài sản chung được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân giữa bà với ông H1.
Trong quá trình giải quyết vụ án, ông H1, H đều thừa nhận trong thời khôn
nhân ông, bà tạo lập được khối tài sản chung đứng tên ông, bà bao gồm:
+ Thửa đất số 1049, tờ bản đồ số 10, diện tích 262,4 m
2
tại tổ dân phố M, phường
Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình và ngôi nhà 02 tầng cùng các tài sản khác gắn liền với
đất có tổng trị giá là 4.601.465.000đ;
+ Thửa đất số 961, tờ bản đồ s10, diện tích 470,1m
2
tại tổ dân phố M, phường
Q, thị B, tỉnh Quảng Bình ngôi ncấp 04 cùng các tài sản gắn liền thửa đất
đất có trị giá 2.571.710.000đ.
Tổng trị giá tài sản chung của ông H1, bà H thành tiền 7.173.175.000đ, Bản
án thẩm xác định 7.713.165.000đ không chính xác, Hội đồng xét xử điều
chỉnh lại cho đúng.
Nguyễn Thị Thu H cho rằng toàn bộ tài sản chung trên do bà và ông H1 tạo
lập trong thời kỳ hôn nhân. Khi chia tài sản, bà yêu cầu được nhận thửa đất số 1049
7
các tài sản trên đất, giao cho ông H1 thửa đất số 961 các tài sản trên đất; ông
H1 không đồng ý phân chia tài sản như yêu cầu của bà H mà mong muốn để lại cho
các con. Mặt khác, ông Trần Tiến H1 cho rằng để tạo lập được khối tài sản chung
như hiện nay, nhiều công sức đóng góp của hai con trai lớn hiện đang làm ăn
nước ngoài gửi về. Trong đó con trai Trần Đức H3 gửi về số tiền 01 tỷ đồng, còn anh
H3 cho rằng khoảng từ năm 2012 cho đến thời điểm bố mẹ ly hôn vào năm 2020 anh
đã gửi về số tiền khoảng 02 tỷ đồng thông qua tài khoản cá nhân của ông H1 để làm
nhà trả nợ Ngân hàng. Ông Trần Tiến H1 thừa nhận tài khoản sao tại Ngân
hàng TMCP C1 - Chi nhánh Q1 - Phòng G là của ông (từ BL 69 đến BL 88) và anh
H3 đã gửi tiền về thông qua tài khoản này. Tuy nhiên, tại bảng sao này chỉ thể
hiện chi tiết các giao dịch nhân của ông H1 hàng ngày; ông H1 không chứng minh
được số tiền anh H3 đã gửi vcho ông trong khoảng thời gian nào, tổng số tiền đã
nhận là bao nhiêu. Trong khi đó, H khai không biết việc anh H3 chuyển tiền cho
ông H1 và không thừa nhận có sự đóng góp của những người con chung của ông bà
trong việc tạo lập tài sản chung của ông, bà trong thời kỳ hôn nhân. Nếu có việc gửi
và nhận tiền giữa ông H1 và anh H3 thì đó là việc cá nhân giữa hai bên.
Khi xác định công sức của từng người đóng góp trong việc hình thành nên khối
tài sản chung nêu trên, ông Trần Tiến H1 cho rằng mình có công sức nhiều hơn bà H
từ năm 2013 bà H đã bỏ nhà đi ở nơi khác nên không công sức gì. Tuy nhiên,
tại phiên tòa sơ thẩm, ông H1 thừa nhận trong khoảng thời gian trước năm 2012, bà
H đi lao động ở nước ngoài đã gửi về cho ông tổng số tiền 415.000.000 đồng; đất tại
thửa 961 được mua năm 1991 và nhà trên đất được hoàn thiện đưa vào sử dụng năm
1996; đất tại thửa 1049 mua khoảng năm 1993, nhà trên đất được hoàn thiện vào
khoảng năm 2016; c Hợp đồng tín dụng do ông H1 cung cấp thể hiện vào các năm
2017 năm 2019 H, ông H1 cùng nhau nhận các khoản vay tại Ngân hàng.
Tại các bản tự khai, ông H1 cũng thừa nhận đã bàn bạc với bà H trong việc vay tiền
Ngân hàng làm nhà. Tuy nhiên, tại phiên tòa thẩm ông H1, H đều xác nhận
khoản vay Ngân hàng năm 2017 là để mua xe ôtô inova chứ không phải để làm nhà,
đến năm 2021 ông H1 đã bán xe này để trả nợ. Ngoài ra, ông H1 còn nại ra các sự
việc đứng ra vay các khoản tiền của một số người khác cung cấp các giấy nộp tiền
tại Ngân hàng TMCP C1 (từ BL 116 đến BL 140) nhưng tại các giấy nộp tiền này
không thể hiện nội dung trả tiền cho khoản vay nào của hai vợ chồng; đồng thời các
giao dịch này đều được thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng 4/2018 đến tháng
2/2020 (trước thời điểm ông H1, bà H thuận tình ly hôn - tháng 5/2020).
Ông Trần Tiến H1 không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh mình
công sức đóng góp lớn hơn H trong quá trình tạo lập nên khối tài sản chung;
ông H1 anh Trần Đức H3 cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng
minh anh H3 có công sức đóng góp trong việc xây dựng ngôi nhà hai tầng trên thửa
đất số 1049, tờ bản đồ số 10, diện tích 262,4 m
2
tại tổ dân phố M, phường Q, thị xã
B, tỉnh Quảng Bình nên Toà án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của anh H3 và
ông H1 đề nghị khấu trừ khoản tiền cho rằng anh H3 gửi về xây nhà trong khi xem
8
xét chia tài sản chung của ông H1, H và yêu cầu của ông H1 được chia tỷ lệ nhiều
hơn trong khối tài sản chung là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2.2]. Về phân chia tài sản và giao tài sản cho các bên:
Căn cứ vào nguồn gốc, công sức đóng góp để hình thành, duy trì khối tài sản
chung của bà Nguyễn Thị Thu H ông Trần Tiến H1, Toà án cấp thẩm đã xác
định và phân chia cho mỗi bên được hưởng ½ giá trị tài sản chung là có căn cứ, phù
hợp với quy định của pháp luật, cụ thể: các thửa đất các tài sản gắn liền với các
thửa đất 1049, 961 tổng giá trị thành tiền là 7.173.175.000đ, H, ông H1 mỗi
người được chia ½ giá trị tài sản tương ứng số tiền 3.586.587.500đ.
Hiện nay ngôi nhà 02 tầng trên thửa đất 1049 và các tài sản gắn liền với đất do
ông H1 đang trực tiếp quản sử dụng sinh sống, còn theo lời khai của H thì
hiện đang phải thuê nhà trọ để tại thành phố V. Khi phân chia giao tài sản
bằng hiện vật, Toà án cấp thẩm đã xem xét, đánh giá căn cứ vào nhu cầu sử
dụng, nguyện vọng của các bên nên đã giao toàn bộ thửa đất và các tài sản gắn liền
với thửa đất 1049 có giá trị 4.601.465.000 đồng cho ông H1 quản lý và sở hữu; giao
toàn bộ thửa đất 961 và các tài sản gắn liền với thửa đất cho bà H quản lý và sở hữu,
đồng thời buộc ông H1 phải trả lại cho H stiền chênh lệch về gtrị tài sản tương
ứng số tiền 1.014.877.500 đồng là công bằng, phù hợp, đảm bảo cuộc sống của mỗi
bên.
[3].Từ nhận định, phân tích các mục [2.1], [2.2] nêu trên của bản án, Hội đồng
xét xkhông chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn Thị Thu H, bị đơn
ông Trần Tiến H1 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Đức Huỳnh .
Giữ nguyên Bản án hôn nhân gia đình thẩm số 100/2024/HNGĐ-ST ngày
23/8/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.
[4]. Án phí phúc thẩm: do kháng cáo không được chấp nhận nên Nguyễn Thị
Thu H, ông Trần Tiến H1 và anh Trần Đức H3 phải chịu theo quy định.
[5]. Những phần quyết định khác còn lại của bản án thẩm không kháng
cáo, kháng nghị nên không xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn Thị Thu H, bị đơn ông
Trần Tiến H1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Đức Huỳnh . Giữ
nguyên Bản án hôn nhân và gia đình thẩm số 100/2024/HNGĐ-ST ngày 23/8/2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.
2. Căn cứ khoản 2 Điều 28, khoản 3 Điều 35, Điều 39, 147, 151, 153, 157,
khoản 2 Điều 165, 227, 228, 474 và Điều 479 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015; các
Điều 29, 33, 38, 59, 62 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Tuyên xử:
9
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị Thu H về việc
chia tài sản chung sau khi ly hôn với ông Trần Tiến H1.
2.1. Về tài sản chung: xác định tài sản chung được tạo lập trong thời kỳ hôn
nhân của ông Trần Tiến H1 Nguyễn Thị Thu H tổng gtrị thành tiền
7.173.175.000 đồng, trong đó:
+ Thửa đất số 1049, tờ bản đồ số 10; diện tích 262,4m
2
đất ở tại tổ dân phố M,
phường Q, thị B, tỉnh Quảng Bình được UBND thị xã B, tỉnh Quảng Bình cấp
GCNQSDĐ số BT 600484, số vào sổ cấp GCN CH 02017 ngày 18/6/2014 mang tên
Trần Tiến H1 Nguyễn Thị Thu H và toàn bộ tài sản gắn liền trên đất có tổng giá
trị 4.601.465.000 đồng.
+ Thửa đất số 961, tờ bản đsố 10; diện tích 470,1m
2
tại tổ dân phố M, phường
Q, thị B, tỉnh Quảng Bình đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q cấp
GCNQSDĐ sCR 153684, số vào sổ cấp GCN: CS 03873 ngày 21/6/2019 mang tên
Trần Tiến H1 Nguyễn Thị Thu H và toàn bộ tài sản gắn liền trên đất có tổng giá
trị 2.571.700.000 đồng.
2.2. Về phân chia tài sản chung:
2.2.1. Phân chia bằng giá trị:
- Chia cho ông Trần Tiến H1 ½ giá trị tài sản tương ứng số tiền 3.586.587.500
đồng.
- Chia cho Nguyễn Thị Thu H ½ giá trị tài sản tương ứng số tiền
3.586.587.500 đồng.
2.2.2. Phân chia bằng hiện vật:
- Giao thửa đất số 1049, tờ bản đồ số 10; diện tích 262,4m
2
đất ở, tại tổ dân phố
M, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình được UBND thị xã B, tỉnh Quảng Bình cấp
GCNQSDĐ số BT 600484, số vào sổ cấp GCN: CH02017 ngày 18/6/2014 mang tên
Trần Tiến H1 Nguyễn Thị Thu H toàn bộ tài sản gắn liền trên đất giá trị
4.601.465.000 đồng cho ông Trần Tiến H1 được quyền sở hữu và sử dụng.
- Giao thửa đất số 961, tờ bản đồ số 10; diện tích 470,1m
2
(trong đó 200m
2
đất ở 270,1m
2
đất trồng cây hàng năm khác) tại tổ dân phố M, phường Q, thị
B, tỉnh Quảng Bình đã được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Q cấp GCNQSDĐ
số CR 153684, số vào sổ cấp GCN: CS03873 ngày 21/6/2019 mang n Trần Tiến
H1 Nguyễn Thị Thu H toàn bộ tài sản gắn liền trên đất có giá trị 2.571.710.000
đồng cho bà Nguyễn Thị Thu H được quyền sở hữu và sử dụng.
- Buộc ông Trần Tiến H1 có nghĩa vụ thanh toán cho bà Nguyễn Thị Thu H số
tiền chênh lệch về giá trị tài sản được nhận 1.014.877.500 đồng.
2.3. Sau khi thực hiện xong các nghĩa vụ, các bên đương squyền liên hệ
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đăng ký biến động về quyền sử dụng đất
tài sản gắn liền với thửa đất theo quy định của pháp luật đất đai.
10
3. Án phí phúc thẩm: áp dụng khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/NQ-
UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Án phí và Lệ phí
Tòa án;
- Nguyễn Thị Thu H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm nhưng
được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ng án phí phúc thẩm đã nộp tại Biên lai số
0005049 ngày 16/9/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình;
- Ông Trần Tiến H1 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm nhưng
được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ng án phí phúc thẩm đã nộp tại Biên lai số
0005040 ngày 30/8/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình;
- Anh Trần Đức H3 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm nhưng
được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ng án phí phúc thẩm đã nộp tại Biên lai số
0005048 ngày 16/9/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.
4. Các quyết định về: án phí thẩm; chi phí tố tụng; quy định về thi hành án,
chậm thi hành án được thực hiện theo Quyết định tại Bản án hôn nhân và gia đình
thẩm số 100/2024/HNGĐ-ST ngày 23/8/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
HỘI ĐNG T XỬ PHÚC THM
CÁC THM PHÁN
Văn Tờng Phùng Anh Dũng
THẨM PHÁN
CH TỌA PHN TOÀ
ĐÃ KÝ
Trần Đc Kn
Tải về
Bản án số 07/2025/HNGĐ-PT Bản án số 07/2025/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 07/2025/HNGĐ-PT Bản án số 07/2025/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất