Bản án số 55/2025/DS-PT ngày 18/02/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 55/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 55/2025/DS-PT ngày 18/02/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 55/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 18/02/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: ông Bùi Hoàng L, bà Lã Thùy C khởi kiện yêu cầu bà Phạm Thị H phải trả cho ông Bùi Hoàng L, bà Lã Thùy C diện tích đất 163,6 m2 có vị trí tiếp giáp và cạnh dài theo bản vẽ hoàn công của Công ty cổ phần Đ đồng thời tháo dở toàn bộ tài sản trên đất để trả lại diện tích đất nói trên để trả lại đất.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc
Bản án số: 55/2025/DS-PT
Ngày: 18 - 02 - 2025
V/v: “Tranh chấp quyền sử
dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đinh Thị Tuyết.
Các Thẩm phán: Ông Võ Thanh Hà.
Ông Y Phi Kbuôr.
- Thư ký phiên tòa: Ông Hoàng Văn Việt - Thư Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: - Đại
diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Lương Thị Diệu
A - Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sphúc thẩm thụ số 446/2024/TLPT DS ngày
11 tháng 12 năm 2024, về việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 68/2024/DS-ST ngày 26/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 438/2024/QĐ-PT ngày
26/12/2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Bùi Hoàng L (có mặt), bà Lã Thùy C (vắng mặt).
Địa chỉ: Tổ dân phố E, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn Thùy C: Ông Nguyễn
Đình C1 (có mặt);
Địa chỉ: Tổ dân phố F, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Bùi Hoàng L: Bà Huỳnh Lê Thị Diệu T
(có mặt);
Địa chỉ: Số A H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
- Bị đơn: Bà Phạm Thị H (còn gọi là Phạm Thị Mỹ H).
Địa chỉ: Thôn C, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Y Winh N. Địa chỉ: Buôn M, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk(vắng
mặt).
+ Nguyễn Thị T1. Địa chỉ: Tổ dân phố G, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk
Lắk(vắng mặt).
+ Huỳnh Thị Lệ . Địa chỉ: Thôn T, E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk(vắng
mặt).
+ Ông Trần Hữu T2. Địa chỉ: Tổ dân phố F, phường N, thành phố G, tỉnh
Đắk Nông(vắng mặt).
+ Ông Nguyễn Xuân Q. Địa chỉ: Tổ dân phố E, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk
Lắk(vắng mặt).
+ Ông Nguyễn Minh T3. Địa chỉ: Thôn C, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk(vắng
mặt).
+ Ông HViết C2, Phạm Thị H1. Địa chỉ: Thôn C, C, huyện E, tỉnh
Đắk Lắk(vắng mặt).
+ Ủy ban nhân dân huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Địa chỉ: E T, thị trấn E, huyện E,
tỉnh Đắk Lắk(vắng mặt).
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Nguyễn Ngọc D, chức vụ: Trưởng Phòng
Tài nguyên - Môi trường huyện E(vắng mặt).
Ông Võ Thanh X, sinh năm 1968(vắng mặt).
Địa chỉ: Tổ dân phố E, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lăk.
- Bà Huỳnh Thị Kim A1, sinh năm1994(vắng mặt).
Địa chỉ: Tổ dân phố A, T, huyện E, tỉnh Đắk Lăk.
Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Bùi Hoàng L.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình làm việc, tại phiên tòa nguyên
đơn ông Bùi Hoàng L người đại diện theo uỷ quyền của Thùy C ông
Nguyễn Đình C1 trình bày:
Nguồn gốc thửa đất số 41, tờ bản đồ số 14 ông Bùi Hoàng L và bà Lã Thùy C
sử dụng (naythửa đất số 03, tờ bản đồ số 14) toạ lạc tại Tổ dân phố E, thị trấn E,
huyện E nguồn gốc ông Bùi Hoàng L nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn
Xuân Q vào năm 1985. Khi nhận chuyển nhượng hai bên chỉ viết giấy tay “Sang
nhượng đất thổ cư” lập ngày 20/5/1985, thỏa thuận giá chuyển nhượng 0,5 chỉ
vàng, nội dung giấy sang nhượng không ghi số đo, diện tích chiều dài các cạnh
cụ thể chghi theo 04 mốc như sau, phía Bắc giáp Quốc lộ B đường đi N; phía
Đông giáp đường đi vào đập hồ vào đập 720; phía Nam giáp đường đất đi của đồng
bào dân tộc xuống hồ E; phía Tây giáp hàng muồng nhà ông V, T1. Do khi giao
đất hai bên không tiến hành kiểm tra đo đạc nên không biết được diện tích và số đo
các cạnh tiếp giáp mà chỉ căn cứ vào mốc cố định nói trên để sử dụng.
Đến ngày 18/6/1992, ông L đã làm giấy “Xin chuyển lên đất thổ cư” để làm
căn cứ sử dụng, nội dung thể hiện vị trí tiếp giáp: Phía Bắc giáp Quốc lộ B 20m;
phía Nam giáp đường đi của đồng bào dài 29,6m, phía Đông giáp đường 720 vào
bờ hồ (nay đường N) 39m, phía Tây giáp đất nhà Vinh T4 dài 39m, tổng
diện tích 1194,2m
2
trong đó diện tích đất 967,2m
2
đất ao 227m
2
, các
số liệu này do ông L tự đo đạc và vẽ sơ đồ sau đó chuyển đến Ban quản lý khối ông
Nguyễn Tiến T5 xác nhận ngày 23/6/1992 và Uỷ ban nhân dân (UBND) thị trấn
EaKar do ông Nguyễn Xuân P làm Chủ tịch xác nhận ký đóng dấu ngày 22/7/1992.
Hiện nay thửa đất chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Năm 1986, gia đình ông V, bà T4 cho vợ chồng ông Nguyễn Đức H2 và bà
Huỳnh Thị L1 01 lô đất giáp đất của ông L, bà C thuộc thửa đất số 40, tờ bản đồ số
14 (nay thửa đất số 02, tờ bản đồ số 14) có chiều ngang phía bắc giáp QL 26
cạnh dài 05m; phía Nam giáp đường đi cạnh dài 8m; phía Tây giáp phần đất còn lại
của ông V, T4; phía Đông giáp đất của ông L cạnh dài 48 m. Sau khi nhận đất
sử dụng bà L1, ông H2 làm 01 ngôi nhà gỗ 03 gian và đã lấn qua đất của ông L,
C khoảng 05 m chiều ngang, chiều dài khoảng 8m. Ông làm việc với vợ
chồng ông H2 yêu cầu trả lại đất vợ chồng ông H2 lấn chiếm thì hai bên đã thỏa
thuận miệng lúc nào vợ chồng ông H2 làm nhà xây thì trả lại cho ông L phần diện
tích đã lấn chiếm.
Cuối năm 1986, gia đình L1 bán căn nhà gỗ cho ông T2, không bán đất.
Trong quá tnh sdụng thì ông T2 chặt đổ hàng muồng làm ranh giới tiếp tục
lấn sang đất của ông L phía giáp Quốc lộ B 1,3m phần cuối thửa đất
1,7m. Sau khi kết quđo đạc của Công ty cổ phần Đ thì ông L, C xác định
phần diện tích ông T2 đã lấn chiếm của ông 197,8 m
2
vị trí phía Bắc giáp
Quốc lộ B dài 6,3m; phía Đông giáp đất của ông L, bà C dài 48m; phía Tây giáp
đất ông T2 dài 48m,; phía Nam giáp đường đi xuống hồ ( nay giáp nhà nghỉ A2)
dài 1,7m. Sau khi đã trừ mốc lộ giới thì diện tích đất lấn chiếm còn lại là 163,6 m
2
.
Đến ngày 08/12/2003, Phạm Thị Hồng N1 chuyển nhượng của ông T2 01
căn nhà gỗ trên đất sử dụng luôn diện tích đất của ông T2 trong đó 163,6 m
2
ông T2 đã lấn chiếm. Vì vậy ông Bùi Hoàng L, bà Thùy C khởi kiện yêu cầu
Phạm Thị H phải trả cho ông Bùi Hoàng L, Lã Thùy C diện tích đất 163,6 m
2
vtrí tiếp giáp và cạnh dài theo bản vẽ hoàn công của Công ty cổ phần Đ đồng thời
tháo dở toàn bộ tài sản trên đất để trả lại diện tích đất nói trên để trả lại đất.
Bị đơn bà Phạm Thị H trình bày: Về nguồn gốc đất ngày 08/12/2003 H
Phạm Thị H1 nhận chuyển nhượng của ông Trần Hữu T2 Tổ dân phố E, thị
trấn E, huyện E đất vị trí tứ cận: phía Bắc giáp giáp Quốc lộ B chiều rộng
11,30m; phía Đông giáp nhà ông L dài 46m (đã xây tường rào); Phía Tây giáp
nhà H1, ông L2 dài 46m; phía Nam giáp nhà ông Q dài 9,7m; Giá chuyển
nhượng là 200.000.000 đồng. Bà H đã giao đủ tiền cho ông T2 và nhận đất sử dụng
từ ngày 08/12/2003, thửa đất hiện nay chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Khi đó ông T2 nói nguồn gốc đất ông T2 mua của ông H2 đưa cho
H một bản photo biên bản thỏa thuận sang, bán nhà đngày 29/11/1986 giữa
ông H2 với ông T2, còn bản gốc ông T2 vẫn giữ. Khi chuyển nhượng trên đất đã có
sẵn 03 gian ki ốt bán hàng rộng khoảng 10m, lối đi vào nhà công trình phụ
phía sau, hàng rào xây bằng gạch làm ranh giới với đất của ông L, việc ai xây
dựng hàng rào các công trình trên đất tH không . Việc sang nhượng đã
được UBND thị trấn E xác nhận ngày 15/12/2003 và bà H đã nhận đất, tài sản quản
lý, sử dụng từ đó cho đến nay. Vì vậy, bà H không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của ông L, C, khi H nhận chuyển nhượng đất thì tứ cận đã ranh
giới cụ thể, ràng. Phần đất giáp ranh với ông L đã được xây dựng hàng rào gạch
kiên cố từ trước. Trên đất cũng đã nhà cửa, công trình H sử dụng ổn định từ
năm 2003 cho đến nay. Việc chuyển nhượng cũng đã được UBND thị trấn E xác
nhận.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Y Winh N trình bày: Thửa đất
gia đình ông L gia đình H đang sử dụng nằm trong diện tích đất khoảng 1,5
ha của gia đình ông đã khai hoang từ năm 1968. Đến năm đến năm 1984, huyện E
thành lập, nhiều người từ nơi khác về đây sinh sống, dựng nhà trên diện tích đất
nêu trên. Khoảng năm 1984 ông Y Winh N cho một số hộ dân phần diện tích đất
nói trên để ở, trong đó cho gia đình Trần Hữu T2 được ông Y W cho thửa đất
chiều dài tiếp giáp với quốc lộ B 11m; chiều sâu 48m; cho gia đình ông Nguyễn
Xuân Q thửa đất có chiều dài tiếp giáp với quốc lộ B 12m; chiều sâu 38m; Năm
1985, thì ông Q chuyển nhượng quyền sử dụng phần diện tích đất cho ông L
chiều dài tiếp giáp với quốc lộ B là 12m chiều sâu giáp với đường Ngô Gia tự
38m; phía nam giáp đất còn lại của ông Q chiều dài cạnh khoảng 20m, phía tây
giáp đất của ông Y Winh N cạnh dài 38m. Hiện trạng lúc ông Q bán đất cho ông L
thì trên phần diện tích đất này trồng phê, các ranh giới giữa các hộ với nhau
thể hiện không ràng. Còn phần đất gia đình H sử dụng do nhận chuyển
nhượng từ ông Trần Hữu T2 năm bao nhiêu thì ông Y Winh N không rõ,với diện
tích 528m
2
, chiều dài tiếp giáp với quốc lộ B 11m; chiều sâu 38m. Hiện nay,
ông L khởi kiện bà H về việc bà H lấn chiếm 6,3m mặt đường ngang Quốc lộ B thì
ông Y Winh N ý kiến như sau, phần 6,đất tranh chấp này thuộc phần diện tích
mà ông Y Winh N đã tặng cho ông Trần Hữu T2 chiều ngang là 11m giáp Quốc
lộ B. Việc ông L khởi kiện bà H không có căn cứ phần diện đất tranh chấp đó
là thuộc quyền sử dụng của ông T2 mà ông T2 đã chuyển nhượng lại cho bà H. Đối
với thửa đất nói trên ông đã tặng cho ông T2 ông Q nên ông không yêu cầu
gì.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T1 trình bày:
Năm 1984, vợ chồng bà T1 được ông Y Winh N tặng cho 1 thửa đất, diện tích
khoản 1428m
2
, tọa lạc tại TDP E, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Vị trí tiếp
giáp: phía Bắc tiếp giáp Quốc lộ B, phía Nam tiếp giáp đường đi xuống bờ hồ, phía
Tây tiếp giáp với thửa đất còn lại của ông Y Winh N, phía Đông tiếp giáp đất gia
đình ông L. Cụ thể chiều dài các cạnh tiếp giáp thì T1 không xác định được.
Cũng khoảng năm 1984, thì gia đình T1 tặng cho vợ chồng ông H2 L1 một
phần thửa đất nói trên chiều dài tiếp giáp Quốc lộ B 5m, cạnh phía Nam giáp
đất nhà ông Q, phía Đông giáp đất của ông L, phía Tây giáp đất còn lại của gia đình
T1. Khi tặng cho quyền sử dụng thửa đất trên tchồng bà T1 là ông Nguyễn V
đứng ra giao đất cho vợ chồng ông H2 L1, ai chứng kiến sự việc trên
không thì T1 không biết. T1 chỉ xác định tặng cho gia đình ông H2
L1 lô đất 05m mặt đường Quốc lộ 26 có vị trí tiếp giáp nêu trên.
Hiện nay, thời gian quá lâu nên bà T1 không xác định được ranh giới giữa
thửa đất bà T1 cho gia đình ông H3, L1. Việc bà H hiện nay đang sdụng thửa
đất chiều dài lớn hơn 5m tiếp giáp với Quốc lB thì T1 cũng không biết
do vì sao. Nay ông L khởi kiện bà H về việc H lấn chiếm 6,3m mặt đường Quốc
lộ 26 đất ông L thì bà T1 không biết nên bà T1 không ý kiến hay yêu cầu gì.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Huỳnh Thị L1 trình bày: Khoảng
năm 1986, vợ chồng bà T1 ông V tặng cho vợ chồng L1 một đất, chiều
dài tiếp giáp Quốc lộ B 5m, cạnh phía Nam giáp đất nhà ông Q cạnh dài khoảng
30m, phía Đông giáp đất của ông L cạnh dài khoảng 30m, phía Tây giáp đất còn lại
của gia đình T1 và ông V cạnh dài khoảng 5m. Giữa ranh giới đất với đất ông L
thì hàng muồng làm ranh giới. Do thửa đất nói trên trên một phần btrũng nên
thì vợ chồng L1 đã xây dụng một căn nhà gỗ chiều ngang khoảng 7m lấn sang
phần đất thuộc quyền sử dụng của ông L chiều ngang khoảng 3m, do đã lâu nên
L1 không nhớ . Vợ chồng L1 đến ngày 23/11/1986 thì bán lại cho ông T2
ngôi nhà gỗ trên đất. đất thông tin quy hoạch công viên cây xanh nên L1
chỉ bán nhà mà không chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Sau khi bán nhà cho ông
T2 thì việc sử dụng căn nhà trên ông T2 lấn sang phần đất của ông L hay không
thì bà L1 không biết. Do thời gian quá lâu nên L1 không xác định được ranh
giới giữa thửa đất vợ chồng L1 với thửa đất của ông L. Nay ông L khởi kiện
H về việc H lấn chiếm 6,3m mặt đường Quốc l26 đất ông L thì L1 không
có yêu cầu gì.
Tại Bản tự khai (bút lục 139) người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Xuân Q trình bày: Vào đầu năm 1984 ông Q đề nghị xin một đất để
ở, được Chủ tịch UBND E đồng ý cấp cho ông Q đất vị trí phía Bắc giáp
Quốc lộ B 12 mét, phía Nam giáp đường đi xuống hồ 50 mét, chiều dài phía
Đông phía Tây khoảng 78 mét. Ngày 20/5/1985 ông Q đã sang nhượng lại cho
ông Bùi Hoàng L thửa đất nói trên, 2 bên có viết một giấy tay. Vì bận rộn công việc
nên hai bên không đo đạc diện tích của đất chỉ lấy mốc cố định làm ranh
giới.
Đến năm 1992, ông Bùi Hoàng L có nhu cầu làm thủ tục để căn cứ làm bìa
đỏ quyền sử dụng đất sau này nên đã đo đạc trực tiếp diện tích của đất: Đầu trên
phía Bắc giáp Quốc lộ B 20 mét; Phía Đông giáp đường vào đập hồ E đường
N hiện nay dài 39 mét; Phía Nam giáp con đường của đồng bào dân tộc 29,6
mét; Phía Tây giáp với hàng muồng đất ông V, T1 là 39m. Lô đất có diện tích là
967,2m
2
, diện tích ao 227m
2
. Sau này ông Bùi Hoàng L không có nhu cầu thả
nữa nên nhượng lại ao cho ông Q sử dụng. Giấy chuyển nhượng được lập
ngày 18/6/1992 được ông Q và cơ quan chính quyền địa phương xác nhận đóng dấu
ngày 23/6/1992.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đại diện cho UBND huyện E ông
Nguyễn Ngọc D1 trình bày: Việc tranh chấp đất đai giữa ông i Hoàng L,
Thùy C với Phạm Thị H, Phạm Thị H1 đã được UBND các cấp giải quyết.
Tuy nhiên hiện nay các quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của UBND huyện
E UBND tỉnh Đ đã bị Toà án các cấp huỷ bỏ. Nay vợ chồng ông L, C khởi
kiện yêu cầu H trả lại đất cho ông L thì UBND huyện ý kiến như sau: Việc
tranh chấp đất đai giữa ông Bùi Hoàng L, Thùy C với Phạm Thị H, đã
được các quan thẩm quyền giải quyết. Vậy đề nghị Tòa án nhân dân huyện
Ea Kar bác đơn khởi kiện của ông Bùi Hoàng L, bà Thị C3. Đồng thời công
nhận ranh giới theo hiện trạng sử dụng đất giữa ông Bùi Hoàng L và ông Trần Hữu
T2 (ông T2 đã sang nhượng cho bà Phạm Thị Mỹ H và bà Phạm Thị H1).
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Thanh X và bà Huỳnh Thị
Kim A1 trình bày: chúng tôi là người thuê nhà của bà Phạm Thị H để mở cửa hàng
kinh doanh, hiện nay ông Bùi Hoàng L có tranh chấp đất với bà H trong đó có phần
cửa hàng chúng tôi đang thuê của H để kinh doanh thì chúng tôi không ý
kiến hay yêu cầu gì. Đối với việc thuê nhà thì chúng tôi với bà H tự giải quyết.
* Quá trình giải quyết ván Toà án đã tiến hành làm việc với ông T2, tuy
nhiên do ông T2 tuổi cao, bị bệnh nên không tiến hành làm việc ghi nhận ý kiến
của ông T2 được; người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Minh T3,
Phạm Thị H, ông Hồ Viết C2 đã được Toà án triệu tập nhưng không đến Toà án
để làm việc nên Toà án không lấy được lời khai và ghi nhận ý kiến.
Tại Bản tự khai ngày 06/12/2022 người làm chứng ông Nguyễn Tiến T5
trình bày: Ông T5 làm Khối trưởng K thị trấn E từ năm 1989 đến năm 1995, do đó
biết nguồn gốc đất tranh chấp giữa ông L với H như sau: Nguồn gốc đất hiện
ông L đang sử dụng ban đầu là của ông Nguyễn Xuân Q được Hợp tác E cấp.
Đến năm 1992, ông Q đã chuyển nhượng cho ông L đất diện tích 1194,2m
2
,
vị trí: Phía Đông giáp đường vào hồ E dài 39m; phía Tây giáp đất ông H2; Phía
Nam giáp phần đất còn lại của ông Q dài 29,6m và giáp hồ; phía Bắc giáp đường Q
dài 20m. bao gồm một ao diện tích 22,7m x 10m. Khi hai bên chuyển nhượng
nhờ Ban tự quản chứng kiến và ông T5 là người ký xác nhận việc mua bán là có
trên thực tế. Tuy nhiên, ông T5 không đi đến thực địa thửa đất để bàn giao đất. Đối
với diện tích đất bà H đang sử dụng nguồn gốc của ông Y Winh N, sau đó đó
ông Y W bán lại cho ông V, bà T1. Ông V T1 lại chuyển nhượng lại cho ông
H2, L1 một phần diện tích đất của ông V. Sau đó ông H2 chuyển nhượng cho
ông T2, ông T2 lại chuyển nhượng lại cho H. Nội dung chi tiết diện tích, giá
chuyển nhượng các bên thoả thuận như thế nào ông T5 không biết.
Trong quá trình sử dụng đất giữa ông L H phát sinh tranh chấp v
nguyên nhân, quá trình sử dụng đất cụ thể như thế nào tông T5 không biết
cũng không khẳng định được nguồn gốc đất tranh chấp là của ai.
Tại Bản án n sự thẩm số: 68/2024/DS-ST ngày 26/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk, đã quyết định:
1. Về điều luật áp dụng:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, các điểm a, c khoản 1 Điều
39, khoản 1 Điều 147, Điều 157, Điều 165; Điều 266, điểm b khoản 2 Điều 227,
khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 175, Điều 176 của Bộ luật Dân sự; Căn cứ Điều 166, khoản 1
Điều 170, khoản 2 Điều 203 Luật Đất đai; Điều 12; Điều 26 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vQuốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
2. Về nội dung:
Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Bùi
Hoàng L, bà Lã Thùy C về việc yêu cầu bà Phạm Thị Hồng di D2 nhà cửa, vật kiến
trúc trả lại diện tích đất 163,6m
2
đã lấn chiếm.
Ngoài ra, bản án thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí tuyên
quyền kháng cáo quyền yêu cầu thi nh án cho các đương stheo quy định
pháp luật.
Sau khi xét xử thẩm, ngày 11/10/2024, nguyên đơn ông Bùi Hoàng L
đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm.
Tại phiên toà người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ nguyên
nội dung kháng cáo cho rằng: Cấp sơ thẩm đánh giá chứng cứ đánh giá chứng
cứ chưa đầy đủ đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn.
Nên đnghị hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận đơn kháng cáo hủy Bản án dân
sự thẩm số 68/2024/DS-ST ngày 26/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Ea Kar,
tỉnh Đắk Lắk để điều tra xét xử lại từ đầu.
Tại phiên tòa phúc thẩm, kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Đắk Lắk phát biểu ý kiến:
- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã tuân thủ đầy đủ và thực hiện
đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Không căn cứ chấp nhận đơn kháng cáo của nguyên đơn
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự: Giữ
nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 68/2024/DS-ST ngày 26/9/2024 của Tòa án nhân
dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ o kết
quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng
cứ, lời trình bày của các đương sự ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử
nhận định như sau:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Bùi Hoàng L làm
trong hạn luật định thuộc trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí phúc
thẩm nên được xem xét, giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2]. Xét kháng cáo của nguyên đơn ông Bùi Hoàng L, Hội đồng xét xử thấy
rằng:
[2.1]. Về nguồn gốc đất mà nguyên đơn ông Bùi Hoàng L, bà Lã Thùy C đang
quản lý, sử dụng: Ông Bùi Hoàng L Thùy C nhận chuyển nhượng từ ông
Nguyễn Xuân Q vào ngày 20/5/1985, khi nhận chuyển nhượng hai bên không tiến
hành đo đạc, không xác định diện tích đất cụ thể và số đo các cạnh và không có xác
nhận của chính quyền địa phương. Trước đó, vào năm 1984, ông Nguyễn Xuân Q
đã làm đơn xin UBNDE (nay là UBND thị trấn E) cấp đất nhưng bị thất lạc nên
ngày 01/8/1985, ông Q làm lại đơn xin cấp đất với thông tin trong đkèm
theo cụ thể như sau: Phía Đông giáp đường dọc bờ hồ (nay đường N) cạnh dài
78m; phía Tây giáp hồ E (không thể hiện cạnh dài); Phía Nam giáp đường đi xuống
hồ E cạnh dài 50m; phía Bắc giáp Quốc lộ B (nay là Quốc lộ B) cạnh dài 12m.
Tại “Đơn xin chuyển lên đất ở” ngày 18/6/1992 của ông L, C lại thể hiện
tổng diện tích đất của ông L, bà C 1194,2m
2
, cạnh phía Bắc của thửa đất trên
giáp Quốc lộ B chiều dài 20m (trong đơn của ông Q là 12m) là có sự chênh lệch
với đơn xin cấp đất ban đầu ông Nguyễn Xuân Q. Theo tài liệu chứng cứ trong hồ
vụ án, “Đơn xin chuyển lên đất ở” trên sự tẩy xóa tại vị ttẩy xóa không
có đóng dấu treo xác nhận của UBND thị trấn E nên không có căn cứ xác định việc
tẩy xóa trên là trước hay sau khi UBND thị trấn E c nhận cho ông L, bà C.
Về thực tế, căn cứ theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 21/7/2022 và
kết quả đo đạc của Công ty Đ thể hiện: Hiện nay ông L, C đang sdụng tổng
diện tích 1228,5m
2
trong đó diện tích nằm trong chỉ giới quy hoạch giao thông
210.2m
2
cạnh phía Bắc của thửa đất giáp với Quốc lộ B dài 19,3m. Như vậy,
tổng diện tích đất mà ông L, bà C đang quản lý sử dụng so với diện tích đất ban đầu
ông L, C xin cấp đất t không thiếu (Diện tích xin cấp1194,2m
2
, diện tích
đang sử dụng là 1228,5m
2
)
[2.2]. Về nguốc gốc đất của bị đơn bà Phạm Thị H đang quản lý, sử dụng:
Năm 1984, vợ chồng bà Nguyễn Thị T1, ông Nguyễn V được ông Y Winh N
tặng cho 01 thửa đất, diện tích khoảng 1.428m
2
phía đông thửa đất giáp đất của ông
Q. Sau đó, ông V, T1 cho vợ chồng ông Nguyễn Đức H2, Huỳnh Thị L1
chiều ngang 05m theo QL 21 nay Quốc lB phần giáp đất của ông L, C.
Sau khi nhận đất bà L1, ông H2 làm 01 ngôi nhà gỗ 03 gian. Năm 1986 bà L1, ông
H2 bán lại căn nhà cho ông Trần Hữu T2. Đến ngày 08/12/2003, ông Trần Hữu T2
chuyển nhượng nhà đất cho Phạm Thị H sử dụng. Việc sang nhượng của
H ông T2 đã được UBND thị trấn E xác nhận ngày 15/12/2003. Bà H nhận nhà,
đất và sử dụng từ năm 2003 cho đến nay.
[2.3]. Về tranh chấp ranh giới đất:
Ông L cho rằng ranh giới đất của gia đình ông ông T2 hàng muồng,
nhưng hiện nay đã bị chặt phá. Quá trình giải quyết vụ án, ông L xác định giữa ông
ông T2 xảy ra tranh chấp từ năm 1996, nhưng sau khi hoà giải thì hai bên đã
đồng ý giữ nguyên ranh giới từ trước. Sau đó, năm 1996 ông T2 đã xây dựng phần
hàng rào phía trước, ông L xây dựng phần tường rào nối ở phía sau. Ông T2, ông
L đã xây dựng tường rào kiên cố làm ranh giới sử dụng cho đến nay. Việc các
bên cùng nhau xây dựng hàng rào thể hiện ranh giới giữa các bên đã được xác định
từ năm 1996. Đến năm 2003, ông Trần Hữu T2 chuyển nhượng nhà đất cho
Phạm Thị H sử dụng đến nay. Tại phiên tòa phúc thẩm ông Bùi Hoàng L cũng
thừa nhận quá trình sử dụng bà H không xây dựng và cơi nới gì thêm.
Do đó, Cấp thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Hoàng L,
Thùy C yêu cầu Phạm Thị H trả lại diện tích đất đã lấn chiếm 163,6 m
2
;
buộc di dời toàn bộ tài sản trên đất gồm: 01 nhà gỗ diện tích 30,4m
2
; 01 nhà xây
cấp 4 diện tích 55,9m
2
; 01 nhà bếp khung gỗ diện tích 13,4m
2
; 01 nhà vsinh
diện tích 4,5m
2
để trả lại diện tích đất nói trên là có căn cứ.
[3] Từ những nhận định trên Hội đồng xét xử xét thấy: Không căn cứ để
chấp nhận đơn kháng cáo của ông Bùi Hoàng L, Thùy C, cần giữ nguyên án
sơ thẩm là phù hợp.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: ông Bùi Hoàng L, bà Lã Thùy C là người cao
tuổi. Nên được miễn án phí DSPT.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
[1]. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Bùi Hoàng L;
Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 68/2024/DS-ST ngày 26/9/2024 của
Tòa án nhân dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk.
[2]. Điều luật áp dụng: Căn cứ Điều 175, Điều 176 của Bộ luật Dân sự;
Căn cứ Điều 166, khoản 1 Điều 170, khoản 2 Điều 203 Luật Đấtđai;
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thườngvụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[3] Tuyên xử:
[3.1] Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Bùi Hoàng L,
L3 về việc yêu cầu Phạm Thị Hồng di D2 nhà cửa, vật kiến trúc trả lại diện
tích đất 163,6m
2
đã lấn chiếm.
[3.2] Về chi phí tố tụng: ông Bùi Hoàng L và Thùy C phải chịu chi phí
tố tụng tổng cộng là 7.911.000 đồng, bao gồm chi phí đo đạc 6.511.000 đồng và chi
phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản 1.400.000 đồng. Số tiền này
nguyên đơn đã nộp đủ và Toà án đã chi hết.
[3.3]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn ông Bùi Hoàng L và bà Lã Thùy
C được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
[3.4]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn ông Bùi Hoàng L và
Thùy C được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
[4]. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TANDCC;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện Eakar;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
- Chi cục THA huyện Eakar;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
Đinh Thị Tuyết
Tải về
Bản án số 55/2025/DS-PT Bản án số 55/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 55/2025/DS-PT Bản án số 55/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất