Bản án số 63/2025/DSPT ngày 18/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 63/2025/DSPT

Tên Bản án: Bản án số 63/2025/DSPT ngày 18/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Cà Mau
Số hiệu: 63/2025/DSPT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 18/02/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo. Giữ nguyên bản án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 63/2025/DS-PT
Ngày 18 02 2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Dương Hùng Quang.
Các Thẩm phán: Bà Đinh Cẩm Đào
Bà Châu Minh Hoàng.
- Thư phiên tòa: ông Nguyễn Trọng Bằng- Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Cà Mau Cà Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Mau tham gia phiên toà: Ông
Phạm Văn Hùng - Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Mau xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 459/2024/TLPT-DS ngày 04 tháng 11
năm 2024 về việc tranh chấp quyền sử dụng đất.
Do bản án dân sự thẩm số: 140/2024/DS-ST ngày 20 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 410/2024/QĐ-PT ngày
26 tháng 12 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trần Hoàng Ê, sinh năm: 1962 (có mặt)
Địa chỉ cư trú: Ấp X, xã B, huyện T, tỉnh Cà Mau.
- Bị đơn: Ông Hoàng Quốc H, sinh năm 1988 (có mặt)
Địa chỉ cư trú: Ấp X, xã B, huyện T, tỉnh Cà Mau;
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông Triệu Hoàng A, sinh năm 1986 (có mặt)
Địa chỉ cư trú: Ấp N, xã B, huyện T, tỉnh Cà Mau;
2/ Bà Trần Hồng T, sinh năm 1967
Địa chỉ cư trú: Ấp X, xã B, huyện T, tỉnh Cà Mau;
Người đại diện theo ủy quyền của bà T là ông Trần Hoàng Ê
3/ Chị Nguyễn Thị T1 (vắng mặt)
2
Địa chỉ cư trú: Ấp X, xã B, huyện T, tỉnh Cà Mau;
4/ Anh Huỳnh Hữu E, sinh năm 1984 (có mặt)
Địa chỉ cư trú: Ấp A, xã B, huyện T, tỉnh Cà Mau
5/ Chị Nguyễn Thị Ngọc L (vắng mặt)
Địa chỉ cư trú: Ấp X, xã B, huyện T, tỉnh Cà Mau.
6/ Ông Trần Văn G (vắng mặt)
Địa chỉ cư trú: Ấp Q, xã B, huyện T, tỉnh Cà Mau.
- Người kháng cáo: Ông Trần Hoàng Ê nguyên đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Nguyên đơn ông Trần Hoàng Ê trình bày tại đơn khởi kiện, quá trình giải
quyết vụ án và tại phiên toà như sau:
Năm 2000 vợ chồng ông nhận chuyển nhượng từ ông Trần Văn A1.
diện tích 12.420m
2
tại ấp X, B, huyện T tỉnh Mau. Phần đất trên vợ chồng
ông đã được Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
P175730 ngày 19/12/2000 đứng tên Trần Hoàng Ê, Trần Hồng T. Phần đất của ông
chiều ngang mặt tiền 35m, giáp Lộ Xe (lộ nhựa cũ). Trong quá trình quản sử
dụng đến năm 2017 ông phát hiện phần đất mặt tiền giáp Lộ xe bị ông Trần Văn G
lấn chiếm diện tích ngang 16m, dài 12m chuyển nhượng cho Triệu Hoàng A, ông
Hoàng A sau đó chuyển nhượng lại cho ông Hoàng Quốc H, ông H đã xây dựng
nhà trên đất và quản lý sử dụng đến nay.
Ông yêu cầu ông Hoàng Quốc H tháo dỡ nhà, công trình kiến trúc trên đất
trả lại phần đất diện tích là 192m
2
. Do khi khởi kiện chưa đo đạc chính xác nên yêu
cầu theo trích đo hiện trạng ngày 14/3/2024 của Công ty P diện tích là 101m
2
được
giới hạn các mốc M6M7M11M12 (thửa số 3) tại ấp X, xã B, huyện T.
- Bị đơn ông Hoàng Quốc H trình bày:
Nguồn gốc phần đất tranh chấp vào năm 2017 ông vợ là Nguyễn Thị
Ngọc L nhận chuyển nhượng từ ông Nguyễn Hữu E1, giá chuyển nhượng
128.000.000 đồng. Sau khi nhận chuyển nhượng đã xây dựng nhà và quản sử
dụng đến nay. Khi nhận chuyển nhượng 02 bên chỉ làm giấy tay. Khi vợ chồng ông
xây dựng nhà thì phía Ủy ban nhân dân B lập biên bản do việc xây dựng nhà
trên tuyến lộ đất giao thông thuộc quyền quản của nhà nước. Ủy ban nhân dân
B vẫn đồng ý cho xây dựng nhưng buộc ông cam kết khi Uỷ ban buộc tháo d
thì ông phải tháo dỡ. Hiện nay trên phần đất tranh chấp ông xây dựng gồm 02 căn
nhà đà bê tông cốt thép, 01 căn nhà tạm che chắn hồ ươm thuỷ sản. Ông xác định
phần đất trên ông đang quản phần đất do Nhà Nước quản không phải đất
ông Ê. Khi xây dựng từ năm 2017 đến năm 2023 không ai ngăn cản tranh chấp.
Nên ông không theo yêu cầu khởi kiện của ông Ê. Đồng thời, ông thống nhất với
kết quả đo đạc theo Trích đo hiện trạng ngày 14/3/2024 của Công ty P thống
nhất với kết quả chứng thư Thẩm định giá ngày 29/3/2024 của Công ty TNHH T2
3
Thẩm định giá CITYLAND gtrị phần đất tranh chấp 83.530.000 đồng, giá
trị tài sản trên đất là 291.891.150 đồng.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Triệu Hoàng A trình bày: Ông
chỉ là người giới thiệu cho ông Trần Hữu E2 và ông H chuyển nhượng. Hiện ông Ê
và ông H tranh chấp không liên quan gì đến ông.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Hữu E trình bày:
Vào năm 2017 ông nhận chuyển nhượng từ ông Trần Văn G phần đất có vị trí
từ Lộ Xuyên Á trở vào phía bên lộ xe (đối diện với phần đất tranh chấp). Khi nhận
chuyển nhượng ông G thoả thuận cho ông phần đất từ mép lộ X đến giáp Kinh
xáng Lộ xe (phần đất ông Ê đang tranh chấp với ông H), do tập quán được sử
dụng luôn phần mặt tiền giáp Kinh xáng Lộ xe. Đến năm 2018 ông chuyển nhượng
toàn bộ phần đất tL đến giáp Kinh xáng Lộ xe cho ông H chiều ngang 16m
dài từ mép lộ X đến Kinh với số tiền là 128.000.000 đồng. Khi chuyển nhượng hai
bên chỉ viết giấy tay không làm hợp đồng theo quy định. Phần đất trên theo ông
biết đất giao thông thuộc hành lang lộ giới nên ông G cũng không giấy tờ
chứng nhận quyền sử dụng phần đất nói trên.
Tại bản án dân sự thẩm số: 140/2024/DS-ST ngày 20 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình tuyên Xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Hoàng Ê về
việc buộc ông Hoàng Quốc H tháo dỡ nhà, công trình kiến trúc trên đất trả lại phần
đất diện tích 101m
2
toạ lạc tại Xóm M, B, huyện T, tỉnh Mau theo trích
đo hiện trạng ngày 14/3/2024 của Công ty TNHH P.
Án phí dân sự sơ thẩm ông Trần Hoàng Ê đã được miễn nộp nên không đặt
ra.
Chi phí xem xét, thẩm định và đo đạc, thẩm định giá ông Trần Hoàng Ê phải
chịu số tiền là 16.036.000 đồng (đã thanh toán xong).
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 01/10/2024, ông Trần Hoàng Ê kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm sửa
án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn vẫn ginguyên đơn khởi kiện đơn
kháng cáo; Bị đơn yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Mau tham gia phiên toà phát biểu:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; của Hội
đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa
đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của
Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Hoàng Ê. Giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Xét kháng cáo của ông Trần Hoàng Ê còn trong hạn luật định.
4
Phần đất tranh chấp ông Trần Hoàng Ê buộc ông Hoàng Quốc H trả có vị trí,
kích thước, diện tích theo đo đạc thực tế như sau: Mặt tiền giáp đường Hành lang
ven biển phía Nam (lộ xuyên Á) mốc M6M7 dài 16,11m; mặt hậu giáp Kinh
Xáng Lộ xe có mốc M11M12 dài 16,08m; Cạnh phải giáp phần đất bà Cao Thị H1
quản mốc M6M12 dài 6,36m; Cạnh trái giáp phần đất bà Nguyễn ThT1
quản mốc M7M11 dài 6,19m. Phần đất tranh chấp diện tích 101m
2
. Trên
phần đất tranh chấp bị đơn đã xây dựng ndiện tích 94m
2
công trình tạm
diện tích 60,2m
2
.
Phần đất trên ông Ê xác định nằm trong diện tích 12.420m
2
đã được Ủy ban
nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số P175730 ngày
19/12/2000 cho Trần Hoàng Ê Trần Hồng T. Theo đo đạc thực tế diện tích còn
lại ông đang quản sử dụng 10.697,8m
2
được giới hạn bởi các mốc
M1M2M3M10.
[2] Căn cứ vào tài liệu chứng cứ tại hồ sơ. Theo nguyên đơn xác định
phần đất của nguyên đơn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa 364 tờ
bản đồ 11 (thửa 98 tờ bản đồ 17- chỉnh lý năm 2018) có mặt tiền giáp Lộ xe (tức lộ
nhựa cũ), không giáp Kinh xáng lộ xe. Mặc dù Kinh xáng lộ xe có từ lâu trước thời
điểm cấp giấy, nhưng giấy chứng nhận quyền sdụng đất đã cấp cho ông Ê không
thể hiện Kinh xáng lộ xe, nên ông cho rằng phần đất thuộc quyền sử dụng của
ông bao trùm qua cả Kinh Xáng LXe tiếp giáp lộ nhựa đều này không
phù hợp. Bỡi lẽ, phần đất của ông nhận chuyển nhượng từ ông Trần Văn A1 theo
giấy chứng nhận cấp từ năm 1995 đối chiếu bản đồ 298 thời điểm đó đã Kinh
Xáng Lộ Xe, chưa lộ nhựa nên các thửa đất liền kthời điểm đó được cấp
giấy chứng nhận đều tiếp giáp Kinh Xáng Lộ Xe, không bao trùm cả Kinh Xáng
Lộ Xe như ông Ê trình bày; Kinh Xáng Lộ Xe là giao thông đường thuỷ quan trọng
chạy dài từ Cầu R, thị trấn T đến cầu K, T nên không việc phần đất thuộc
Kinh xáng nhân, hộ gia đình được quan thẩm quyền giao quản lý, sử
dụng và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cả Kinh xáng như ông Ê xác
định. Nên mặt tiền giáp “Lộ Xe” trong giấy chứng nhận được cấp cho ông Ê chính
Kinh Xáng Lộ Xe hiện nay chứ không phải lộ nhựa . Nên không sxác
định phần đất tranh chấp nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho
ông Ê, bà T.
Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ bản vẽ trích đo hiện trạng ngày
14/3/2024 của Công ty P thì phần đất ông Ê yêu cầu ông H tháo dỡ nhà trả lại
thửa số 3 diện tích 101m
2
phần đất mặt tiền giáp đường Hành lang ven biển
phía Nam (lộ X) được giới hạn bỡi mốc M6M7 dài 16,11m; mặt hậu giáp K Lộ Xe
mốc M11M12 dài 16,08m phần đất thuộc đất giao thông của đường Hành
lang ven biển Phía Nam, toàn bộ phần đất tranh chấp nằm trên vtrí lộ nhựa cũ,
phần đất này theo văn bản số 880/BC- UBND ngày 16/12/2020 của Ủy ban nhân
dân huyện T xác định theo Quyết định số 88/QĐ-UBND ngày 03/8/2020 thì tuyến
lộ nhựa (cũ) từ cầu R, thị trấn T đến cầu K, T quy hoạch đất giao thông, từ
khi tuyến đường Hành lang ven biển Phía Nam đưa vào sử dụng, thì đoạn đường
này trùng với hành lang an toàn của đường Hành lang ven biển Phía Nam. Việc
ông H xây dựng nhà trên phần đất đã bị Ủy ban nhân dân xã B lập biên bản do xây
5
dựng nhà trái phép vi phạm an toàn của tuyến đường Hành lang ven biển phía
Nam. Ông H cam kết khi nhà nước yêu cầu tháo dỡ di dời sẽ tháo ddi dời trả lại
cho nhà nước, do phần đất này nhà nước quản lý là phù hợp.
[3] Ông Ê cũng thừa nhận phần đất tranh chấp trên là đất thuộc tuyến đường
hành lang ven biển phía Nam, ông chỉ yêu cầu trả lại để ông tạm quản lý, sử dụng
đến khi nhà nước cần thì ông sẽ giao lại. Yêu cầu này là không phù hợp vì đất giao
thông của đường Hành lang ven biển phía Nam tphải do quan nhà nước
thẩm quyền quản lý.
Án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của ông Ê về việc buộc ông H tháo dỡ
nhà công trình kiến trúc trên đất giao trả phần đất tranh chấp 101m
2
căn
cứ.
[4] Tại tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị hội đồng xét xử, giữ nguyên bản
án dận sự sơ thẩm là phù hợp với nhận định trên.
[5] Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Nguyên đơn phải chịu chi phí xem
xét thẩm định, đo đạc, định giá theo quy định pháp luật với số tiền 16.036.000
đồng
[6] Án phí dân sự sơ thẩm phúc thẩm: Do ông Trần Hoàng Ê thuộc
trường hợp người cao tuổi đơn xin miễn dự nộp nên được miễn nộp theo quy
định
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308, của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Hoàng Ê.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 140/2024/DS-ST ngày 20 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.
Tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Hoàng Ê về
việc buộc ông Hoàng Quốc H tháo dỡ nhà, công trình kiến trúc trên đất trả lại phần
đất diện tích 101m
2
toạ lạc tại Xóm M, B, huyện T, tỉnh Cà Mau (Theo trích
đo hiện trạng ngày 14/3/2024 của Công ty TNHH P).
Chi phí xem xét, thẩm định và đo đạc, thẩm định giá ông Trần Hoàng Ê phải
chịu số tiền là 16.036.000 đồng (đã thanh toán xong).
Án phí dân sự thẩm phúc thẩm: Do ông Trần Hoàng Ê thuộc trường
hợp người cao tuổi có đơn xin miễn dự nộp nên được miễn nộp theo quy định
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
6
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân huyện Thới Bình ;
- Chi cục THADS huyện Thới Bình;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Dương Hùng Quang
Tải về
Bản án số 63/2025/DSPT Bản án số 63/2025/DSPT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 63/2025/DSPT Bản án số 63/2025/DSPT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất