Bản án số 52/2025/DS-PT ngày 24/03/2025 của TAND tỉnh Bình Định về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 52/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 52/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 52/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 52/2025/DS-PT ngày 24/03/2025 của TAND tỉnh Bình Định về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Định |
Số hiệu: | 52/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Lê Văn S - Lê Văn N "Tranh chấp chia di sản thừa kế, yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất" |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BÌNH ĐỊNH Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 52/2025/DS-PT
Ngày: 24 – 3 – 2025
V/v “Tranh chấp chia di sản thừa kế, yêu cầu hủy
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hoài Xuân.
Các Thẩm phán: Ông Ung Quang Định.
Ông Trần Bá Nguyên
- Thư ký phiên tòa: Bà Huỳnh Thị Khánh Nhi là Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Định.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Tú Oanh – Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 3 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 170/2024/TLPT-DS ngày 04 tháng 11
năm 2024 về việc tranh chấp chia di sản thừa kế, yêu cầu hủy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 136/2024/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân thị xã A, tỉnh Bình Định bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 05/2024/QĐXXPT-DS
ngày 04 tháng 02 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lê Văn S, sinh năm 1966; trú tại: Thôn B, xã N, thị xã
A, tỉnh Bình Định (Có mặt).
- Bị đơn: Ông Lê Văn N, sinh năm 1964; trú tại: Thôn V, xã N, thị xã A,
tỉnh Bình Định (Có mặt).
Đại diện theo uỷ quyền: Anh Lê Xuân H, sinh năm 1990 (Theo văn bản uỷ
quyền ngày 03/11/2023) (Có mặt).
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Lê Thị N1, sinh năm 1961 (Có mặt).
2. Bà Võ Thị B, sinh năm 1968 (Có mặt).
3. Anh Lê Xuân H, sinh năm 1990 (Có mặt).
2
Đồng trú: Thôn V, xã N, thị xã A, Bình Định.
4. Chị Lê Thị Ngọc B1, sinh năm 1987; trú tại: Số nhà G N, phường Đ, thị
xã A, tỉnh Bình Định (Có mặt).
5. Ủy ban nhân dân thị xã A (Vắng mặt).
Địa chỉ: Số G L, phường B, thị xã A, tỉnh Bình Định
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Thanh T, chức vụ: Chủ tịch.
6. Ủy ban nhân dân xã N (Có mặt).
Địa chỉ: Thôn V, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Giả Văn T1, chức vụ: Chủ tịch.
Đại diện theo uỷ quyền: Ông Hồ Văn H1, chức vụ công chức Tư pháp, hộ
tịch UBND xã N (Có mặt).
- Người kháng cáo: Ông Lê Văn N là bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình tham gia tố tụng cũng như
tại phiên tòa nguyên đơn ông Lê Văn S trình bày:
Cha của ông là Lê Đình P bị bom chết tại N - P, không tìm được thi thể, mồ
mã. Gia đình được báo là cha chết ngày 18/3/1968 âm lịch nên lấy ngày này để
cúng giỗ. Mẹ là Phạm Thị H2 chết ngày 16/11/2018. Cha mẹ sinh 05 người con,
chết lúc nhỏ 02 người, hiện còn 03 người là Lê Thị N1, Lê Văn N, Lê Văn S. Cha
mẹ không có con nuôi, con riêng. Trước khi chết, cha mẹ không có lập di chúc.
Khi cha còn sống, gia đình sống chung với bà nội, không có tài sản riêng. Sau khi
cha chết, mẹ mua được một thửa đất ở thôn V, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định xây
dựng một ngôi nhà cấp 4 diện tích khoảng 50m
2
và đưa các con đến đây sinh sống.
Hiện nay thửa đất này có số hiệu 534, tờ bản đồ số 3, diện tích 960m
2
(200m
2
đất
ở và 760m
2
đất vườn) được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày
27/12/1993. Trên thửa đất có 03 ngôi nhà: Nhà của mẹ xây dựng năm 1972, nhà
Lê Văn N xây dựng năm 2004, nhà Lê Thị N1 xây dựng năm 2011. Ông yêu cầu
chia di sản thừa kế của mẹ (Phạm Thị H2) theo quy định pháp luật và yêu cầu
được nhận bằng hiện vật.
Tại biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải và trong quá trình xét xử bị đơn
ông Lê Văn N trình bày: Thống nhất lời khai của ông Lê Văn S về quan hệ gia
đình. Cha mẹ chết không lập di chúc.
Trước khi cha chết, gia đình sống trong ngôi nhà của ông bà nội cách nhà
đất tranh chấp khoảng 100m. Năm 1968, cha chết ngôi nhà này bị bom đánh sập
không ở được nên mẹ Phạm Thị H2 mới xin chính quyền chế độ cũ một khu đất
trống xây dựng một lán trại khoảng 07m
2
, nhưng mẹ đã xây dựng một ngôi nhà
02 gian diện tích khoảng 45m
2
để sinh sống. Sau khi đi bộ đội về thấy gia đình
đông người ở trong căn nhà 45m
2
chật chội nên gia đình khai hoang cơi nới tăng
3
diện tích lên như hiện nay. Năm 1993, thực hiện chủ trương của Nhà nước, ông
đại diện gia đình kê khai quyền sử dụng đất và được UBND huyện A cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng thửa đất 534, tờ bản đồ số 3, diện tích 960m
2
đứng tên
Lê Văn N. Quá trình sử dụng, gia đình ông đã bồi trúc đất, năm 1993 xây tiếp theo
nhà của mẹ một nhà bếp, năm 2004, vợ chồng xây dựng một ngôi nhà cấp 4 sát
cạnh nhà của mẹ, năm 2012, xây dựng 01 chuồng bò diện tích khoảng 22
m2
, năm
2019, xây dựng một nhà kho để chứa hàng.
Năm 2014, vợ chồng ông ký hợp đồng chuyển nhượng cho chị gái Lê Thị
N1 182m
2
đất trong đó 82m2 đất ở, 100m2 đất vườn. Chị N1 xây dựng nhà và ở
đến nay. Ông không đồng ý yêu cầu chia di sản thừa kế của ông Lê Văn S vì thửa
đất số 534, tờ bản đồ số 3 tại thôn V, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị N1 trình bày: Bà thống
nhất về mối quan hệ gia đình như ông Lê Văn S, ông Lê Văn N đã khai. Cha mẹ
chết không có lập di chúc. Năm 2011, bà ly hôn chồng nên đã được mẹ cho một
phần đất ở phía Bắc thửa đất diện tích 182m
2
. Năm 2014, vợ chồng ông Lê Văn
N đã ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà sử dụng diện tích
182m
2
(gồm 82m
2
đất ở, 100m
2
đất vườn), bà đã được Ủy bản nhân thị xã A cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được tách thành thửa 1150, tờ bản đồ số 3.
Bà đã sử dụng ổn định nhà đất từ năm 2011 cho đến nay. Bà thống nhất với yêu
cầu của ông Lê Văn S chia di sản thừa kế của mẹ đối với thửa đất số 534, tờ bản
đồ số 3 tại thôn V, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị B trình bày thống nhất
như ông Lê Văn N.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Xuân H trình bày: Anh là
con của ông Lê Văn N. Anh thống nhất lời khai của ông Lê Văn N về quan hệ gia
đình ông bà nội, chú, cô. Năm 1993, hộ gia đình của anh có 05 nhân khẩu gồm:
Phạm Thị H2, Lê Văn N, Võ Thị B, Lê Thị Ngọc B1, Lê Xuân H do Phạm Thị
H2 đứng tên chủ hộ.
Thửa đất 534, tờ bản đồ số 3, diện tích 960m2 đã được UBND huyện A
(nay là thị xã A) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01670/QSDĐ/13 ngày
27/12/1993 đứng tên cha của anh là cấp theo hộ gia đình. Cha anh chỉ là người
đại diện hộ gia đình nên việc cha mẹ chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà
Lê Thị N1 không có ý kiến đồng ý của hai chị em anh là không đúng quy định
pháp luật. Anh yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được lập giữa
vợ chồng ông Lê Văn N và bà Lê Thị N1.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lê Thị Ngọc B1 trình bày: Chị
thống nhất với lời khai của anh Lê Xuân H về quan hệ gia đình, nguồn gốc đất
cũng như yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng
ông Lê Văn N và bà Lê Thị N1.
4
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ủy ban nhân dân xã N trình bày:
Ngày 10/12/2013, Ủy ban nhân dân xã N nhận được đơn xin tách, hợp thửa đất
của vợ chồng ông Lê Văn N, Võ Thị B xin tách thành 02 thửa đối với thửa đất
534, tờ bản đố số 3, diện tích 960m
2
(200m
2
đất ở và 760m
2
đất vườn). UBND xã
N đã cử cán bộ địa chính lập sơ đồ hiện trạng nhà – đất, sơ đồ hiện trạng phần nhà
– đất xin tách thành thửa đất 1150, tờ bản đồ 3, diện tích 182m
2
(82m
2
đất ở và
100m
2
đất vườn). Ngày 14/01/2014, vợ chồng ông Lê Văn N, bà Võ Thị B cùng
chị ruột bà Lê Thị N1 đến Ủy ban nhân dân xã N làm hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thửa đất xin tách thửa (thửa 1150),
tài sản trên đất có ngôi nhà loại N5 diện tích 80,83m
2
. Ngày 15/01/2014, Ủy ban
nhân dân xã N đã ký chứng thực hợp đồng. Đối với yêu cầu hủy hợp đồng chuyển
nhượng giữa vợ chồng ông Lê Văn N bà Võ Thị B với bà Lê Thị N1 của chị Lê
Thị Ngọc B1 và anh Lê Xuân H, Ủy ban nhân dân xã N xác định như sau: Đối với
diện tích đất ở được chuyển nhượng (82m
2
) là tài sản của bà Phạm Thị H2 (mẹ
ông Lê Văn N, bà Lê Thị N1), không phải là đất cấp cho hộ gia đình. Chị Lê Thị
Ngọc B1 và anh Lê Xuân H không được cấp sử dụng đất ở, nên không có quyền
khiếu nại. Đối với diện tích đất vườn được chuyển nhượng (100m
2
) thuộc quyền
sử dụng của vợ chồng ông Lê Văn N bà Võ Thị B được cấp theo Nghị định 64/CP
cho các thành viên trong hộ gia đình (760m
2
đất vườn /05 nhân khẩu = 152m
2
cho
mỗi nhân khẩu). Vợ chồng ông Lê Văn N bà Võ Thị B được quyền chuyển
nhượng. Ủy bân nhân dân xã N không chấp nhận yêu cầu hủy hợp đồng của chị
Lê Thị Ngọc B1 và anh Lê Xuân H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ủy ban nhân dân thị xã A trình
bày: Ngày 15/01/2014, Ủy ban nhân dân xã N ký chứng thực hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liến với đất được lập ngày 14/01/2014
giữa bên chuyển nhượng là ông Lê Văn N, bà Võ Thị B, bên nhận chuyển nhượng
là bà Lê Thị N1. Nội dung hợp đồng chuyển nhượng phần đất phía Bắc thửa đất
534 (tách thành thửa 1150) tờ bản đồ số 3, diện tích 182m
2
(82m
2
đất ở và 100m
2
đất vườn) và nhà ở loại N5, diện tích 80,83m
2
tại thôn V, xã N, thị xã A, tỉnh Bình
Định. Căn cứ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với
đất được UBND xã N ký chứng thực số 11, quyển số 01/2014/TP/CC-SCT/HĐGD
ngày 15/01/2014, Ủy ban nhân dân thị xã A đã cấp giấy chứng nhận số CH00617
ngày 27/02/2014. Tại thời điểm ký kết hợp đồng và tại thời điểm cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất không có sự khiếu nại và tranh chấp. Việc Ủy ban nhân
dân thị xã A cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Lê Thị N1 là đúng
trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Do đó, yêu cầu của chị Lê Thị Ngọc
B1 và anh Lê Xuân H là không có căn cứ.
Bản án dân sự sơ thẩm số 136/2024/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2024 của
Toà án nhân dân thị xã A, tỉnh Bình Định quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn S. Xác định di sản thừa kế
của cụ Phạm Thị H2 được chia thừa kế theo pháp luật cho hàng thừa kế thứ nhất
gồm: bà Lê Thị N1, ông Lê Văn N, ông Lê Văn S là 118m
2
đất ở, 152m
2
đất vườn
5
và ngôi nhà có diện tích 49,5m
2
thuộc thửa đất 534, tờ bản đồ số 3 tại thôn Vân
Sơn, xã Nhơn Hậu, thị xã A, tỉnh Bình Định
2. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Lê Thị N1 giao kỷ phần thừa kế được chia
tặng cho ông Lê Văn N và ông Lê Văn S sở hữu, sử dụng.
3. Ông Lê Văn N, ông Lê Văn S mỗi người được chia thừa kế 135m
2
(59m
2
đất ở và 76m
2
đất vườn) thuộc thửa đất 534, tờ bản đồ số 3 tại thôn V, xã N, thị
xã A, tỉnh Bình Định.
4. Chia cho ông Lê Văn S 135m
2
(59m
2
đất ở và 76m
2
đất vườn) thuộc thửa
đất 534, tờ bản đồ số 3 tại thôn V, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định có giới cận Đông
giáp thửa đất 403 và 412, Tây giáp đường, Nam giáp đất còn lại của thửa 534,
Bắc giáp thửa 1150. Giao cho ông Lê Văn S sở hữu nhà kho diện tích 31,6m do
vợ chồng ông Lê Văn N xây dựng. Buộc ông Lê Văn S có nghĩa vụ thanh toán
cho vợ chồng ông Lê Văn N bà Võ Thị B giá trị nhà kho, tường rào, công bồi trúc
số tiền 61.713.020đ
5. Ông Lê Văn N, bà Võ Thị B, chị Lê Thị Ngọc B1, anh Lê Xuân H được
sử dụng 643m
2
(gồm 59m
2
đất ở và 584m
2
đất vườn) còn lại của thửa đất 543, tờ
bản đồ số 3 tại thôn V, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định, có giới cận: Đông giáp
thửa 412 và thửa 532, Tây giáp đường, Nam giáp thửa 1027, Bắc giáp phần đất
chia cho ông Lê Văn S. Trong đó phần diện tích đất được chia thừa kế cho ông
Lê Văn N 135m
2
(gồm 59m
2
đất ở và 76m
2
đất vườn), phần diện tích đất vườn
584m
2
được cấp theo Nghị định 64/CP cho ông Lê Văn N, bà Võ Thị B mỗi người
102m
2
(đã trừ 100m
2
chuyển nhượng cho bà Lê Thị N1), chị Lê Thị Ngọc B1, anh
Lê Xuân H (mỗi người 152m
2
). Giao ngôi nhà cấp loại N8 diện tích 49,5m
2
do cụ
Phạm Thị H2 xây dựng cho ông Lê Văn N sở hữu. Buộc ông Lê Văn N thanh toán
cho ông Lê Văn S ½ giá trị nhà là 18.191.250đ
Các tài sản khác gắn liền với diện tích đất như: Nhà ở, tường rào, sân xi
măng, chuồng bò, giếng nước là tài sản riêng của vợ chồng ông Lê Văn N, bà Võ
Thị Bửu .
6. Bà Lê Thị N1 được sử dụng thửa đất 1150 tờ bản đồ số 3, diện tích 182m
2
(gồm 82m
2
đất ở và 100m
2
đất vườn) tại thôn V, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định,
có giới cận Đông giáp thửa 403, Tây giáp đường, Nam giáp thửa 534, Bắc giáp
thửa 1027. Tài sản trên đất gồm nhà ở, công trình phụ là tài sản riêng của bà Lê
Thị N1.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí dân sự sơ thẩm, về chi
phí định giá tài sản và quyền kháng cáo của các bên đương sự.
Ngày 07/10/2024 ông Lê Văn N kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm
huỷ bản án sơ thẩm.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: Trong quá trình tố tụng, người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật
tố tụng; đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không
chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Lê Văn N. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
6
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, giải quyết, thực hiện đúng
theo quy định của pháp luật về thẩm quyền, thành phần người tiến hành tố tụng
và người tham gia tố tụng. Đơn kháng cáo của bị đơn ông Lê Văn N hợp lệ, trong
hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của bị đơn ông Lê Văn N yêu cầu cấp phúc thẩm xét xử
huỷ bản án sơ thẩm, hội đồng xét xử nhận thấy:
Ông Lê Văn S yêu cầu chia thừa kế tài sản của mẹ là bà Phạm Thị H2 để
lại là thửa đất số 534, tờ bản đồ số 3, diện tích 960m
2
(200m
2
đất ở và 760m
2
đất
vườn). Nguồn gốc thửa đất này chính là thửa đất công điền thuộc công sản Q,
ngày 13/12/1972 cụ Phạm Thị H2 (mẹ của ông S đã làm đơn xin chính quyền địa
phương cho xây dựng nhà ở, sau khi cụ Lê Đình P (chồng của cụ H2) qua đời. Từ
ngày được Ban hành chính ấp V, xã N đồng ý cho cụ Phạm Thị H2 xây dựng nhà,
cụ H2 đã xây dựng 01 ngôi nhà cấp 4, diện tích 49,5m
2
và sinh sống trên thửa đất
này cho đến khi cụ H2 mất. Tuy nhiên ông Lê Văn N cho rằng nguồn gốc đất này
do ông khai hoang và hiện nay đã được UBND thị xã A cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho ông.
Theo công văn số 15/UBND ngày 13/3/2024 Ủy ban nhân dân xã N và
công văn số 926/UBND ngày 11/6/2024, Ủy ban nhân dân thị xã A cùng một nội
dung trả lời về việc cấp cho gia đình ông Lê Văn N sử dụng thửa đất 5534, tờ bản
đồ số 3 như sau: “Thửa đất đang tranh chấp có số hiệu 534, tờ bản đồ số 3, diện
tích 960m
2
(đất ở 200m
2
, đất vườn 760m
2
) nguồn gốc do chính quyền địa phương
Việt Nam C cấp cho bà Phạm Thị H2… Tại thời điểm đăng ký quyền sử dụng
ruộng đất theo nghị định 64/CP hộ gia đình bà Phạm Thị H2 có 05 thành viên
chung sống trong một gia đình, chung 1 sổ đăng ký hộ khẩu… khi thực hiện việc
đăng ký sử dụng đất, ông Lê Văn N đại diện hộ gia đình lại làm 2 đơn đăng ký,
tách riêng cụ Phạm Thị H2 đứng tên kê khai 1 đơn (01 nhân khẩu), đăng ký sử
dụng thửa ruộng 1008, tờ bản đồ số 4, diện tích 855m
2
, gia đình ông Lê Văn N
(gồm ông Lê Văn N, bà Võ Thị B và hai người con Lê Thị Ngọc B1, Lê Xuân H)
đứng kê khai 01 đơn do ông Lê Văn N đại diện (04 nhân khẩu) đăng ký sử dụng
thửa đất thổ cư 534, tờ bản đồ số 3, diện tích 960m
2
và thửa ruộng 806, tờ bản đồ
số 7, diện tích 1004m
2
. Việc chung một sổ hộ khẩu, chung một nhà nhưng lại làm
hai đơn đăng ký kê khai là không đúng quy định, nhưng do cán bộ chuyển môn
và Hội đồng đăng ký ruộng đất xã N tại thời điểm đó thiếu kiểm tra nên đã trình
UBND huyện A (nay là thị xã A) cấp 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là
không đảm bảo theo quy định. Đối với diện tích đất ở là tài sản riêng của cụ Phạm
Thị H2, trên phần diện tích đất có ngôi nhà của cụ Phạm Thị H2 xây dựng trước
năm 1975. Việc cấp giấy chứng nhận sử dụng đất với diện tích 200m
2
đất ở cho
hộ ông Lê Văn N là không đúng quy định. Phần diện tích đất vườn được cân đối
cấp cho nhân khẩu sản xuất nông nghiệp trong hộ”.
7
Tại phiên toà phúc thẩm, ông Lê Văn N trình bày nguồn gốc thửa đất thửa
đất số 534, tờ bản đồ số 3, diện tích 960m
2
, trước đây của mẹ ông được chính
quyền địa phương cho ở chỉ có diện tích 45m
2
, sau khi ông đi bộ đội chiến trường
Campuchia về sinh sống với mẹ, ông được UBND xã N hướng dẫn kê khai và
được Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông. Như vậy ông N đã thừa
nhận nguồn gốc đất nêu trên là của mẹ ông bà Phạm Thị H2. Do đó, có đủ căn cứ
xác định diện tích 200m
2
đất ở thuộc thửa 534 tờ bản đồ số 3 tại V, N, A, Bình
Định và ngôi nhà cấp loại N8, diện tích 49,5m
2
, giá trị 36.382.500đ là tài sản riêng
của cụ Phạm Thị H2. Cụ Lê Đình P và cụ Phạm Thị H2 có 03 người con là Lê Thị
N1, Lê Văn N và Lê Văn S. Ông S yêu cầu chia thừa kế di sản của bà H2 để lại
cho 03 người con là có căn cứ. Cụ P chết 18/3/1968 âm lịch, Cụ H2 chết ngày
16/11/2018. Cụ P chết trước thời điểm cụ Phạm Thị H2 xin đất và xây dựng nhà
nên không phải là tài sản chung vợ chồng. Trên thửa đất bà H2 đã cho bà N1 một
phần diện tích ở phía Bắc thửa đất 534, tờ bản đồ số 3 xây dựng một ngôi nhà cấp
loại N6, diện tích 88,6m
2
. Ngày 14/01/2014, vợ chồng ông Lê Văn N bà Võ Thị
B đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
phần diện tích đất bà Lê Thị N1 đã xây dựng nhà cho bà Lê Thị N1, diện tích
182m
2
(gồm 82m
2
đất ở, 100m
2
đất vườn). Hợp đồng được Ủy ban nhân dân xã
N ký chứng thực số 11, quyển số 01/2014/TP-CC/HĐGD ngày 15/01/2014. Ngày
27/02/2014, Ủy ban nhân dân thị xã A cấp cho bà Lê Thị N1 giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số
CH00617. Tại thời điểm chuyển nhượng cụ H2 vẫn còn sống và không ai có ý
kiến gì. Bà N1 đã xây dựng nhà ở và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Như vậy có đủ cơ sở để khẳng định cụ H2 đã đồng ý cho bà N1 (82m
2
) phần
diện tích đất thuộc quyền quản lý, sử dụng của cụ H2. Riêng 100m
2
đất vườn ông
N đã chuyển nhượng thuộc quyền sử dụng của vợ chồng N, B. Cụ thể: Diện tích
đất vườn 760m
2
thuộc thửa 534 tờ bản đồ số 3 tại V, N, A, Bình Định được cấp
cho thành viên trong hộ gia đình gồm: Cụ Phạm Thị H2, ông Lê Văn N, bà Võ
Thị B, chị Lê Thị Ngọc B1, anh Lê Xuân H mỗi thành viên được cấp 152m
2
. Chị
Lê Thị Ngọc B1, anh Lê Xuân H không phải là hàng thừa kế thứ nhất của cụ H2
nên không có quyền sử dụng diện tích 200m
2
đất ở của bà H2, việc chị B1, anh H
tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên là không có căn
cứ chấp nhận.
Như vậy, di sản cụ Phạm Thị H2 còn lại là 118m
2
đất ở và 152m
2
đất vườn
thuộc thửa đất 534, tờ bản đồ số 3 tại thôn V, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định. Diện
tích đất vườn còn lại 508m
2
(đã trừ 100m
2
chuyển nhượng cho bà Lê Thị N1)
được cấp cho 04 thành viên trong hộ là vợ chồng ông Lê Văn N, bà Võ Thị B
(mỗi người 102m
2
), chị Lê Thị Ngọc B1, anh Lê Xuân H (mỗi người 152m
2
).
Cụ Phạm Thị H2 chết ngày 16/11/2018 không lập di chúc. Thời điểm mở
thừa kế của cụ Phạm Thị H2 đến nay vẫn còn thời hiệu chia thừa kế cụ Phạm Thị
H2 nên di sản thừa kế của cụ được chia theo pháp luật cho hàng thừa kế thứ nhất
gồm bà Lê Thị N1, ông Lê Văn N, ông Lê Văn S. Đối với di sản của mẹ để lại N1
không tranh chấp và nhường kỷ phần thừa kế của bà N1 tặng cho ông Lê Văn N
8
và ông Lê Văn S. Do đó, ông Lê Văn S, ông Lê Văn N mỗi người được chia thừa
kế 135m
2
(gồm 50m
2
đất ở. 76m
2
đất vườn) đủ điều kiện để tách thửa đất.
Trên phần diện tích đất chia thừa kế cho ông Lê Văn S có tường rào, nhà
kho do ông Lê Văn N xây dựng và bồi trúc đất. Buộc ông Lê Văn S phải thanh
toán giá trị tài sản và công sức bồi trúc cho ông Lê Văn N như sau: Nhà kho
31,6m
2
x 2.261.000đ/m
2
x 70% chất lượng còn lại = 50.013.320đ. Tường rào
(phần lưới B40 34,1m x 80.000đ/m x 45% = 1.227.600đ và phần xây gạch 0,2 x
34,1m x 487.000đ/m
2
x 45% = 1.494.600đ). C bồi trúc nâng mặt bằng 135m
2
x
0,7m= 94,5m
3
x 95.000đ/m
3
= 8.977.500đ. Tổng cộng 61.713.000đ
Trên phần đất chia thừa kế cho ông Lê Văn N có ngôi nhà cấp loại N8
diện tích 49,5m
2
giá trị 36.382.500đ do cụ Phạm Thị H2 xây dựng. Giao cho ông
Lê Văn N sở hữu ngôi nhà này và buộc ông Lê Văn N thanh toán ½ giá trị nhà
cho ông Lê Văn S 18.191.250đ.
Từ những nhận định trên, hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của
bị đơn ông Lê Văn N yêu cầu huỷ bản bản án sơ thẩm. Giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Lê Văn N là người cao tuổi nên được
miễn án phí dân sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ
ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5] Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm đề nghị không
chấp nhận kháng cáo của ông Lê Văn N, giữ nguyên bản án sơ thẩm là ph hợp
với nhận định trên của Hội đồng xét xử phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng các Điều 500, Điều 501, Điều 503, Điều 609, Điều 612, Điều 613,
623, Điều 649, Điều 650, Điều 651 của Bộ luật dân sự 2015;
Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 3, điểm a khoản 7 Điều 27
nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Lê Văn N. Giữ nguyên bản
án dân sự sơ thẩm số: 136/2024/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2024 của Toà án
nhân dân thị xã A, tỉnh Bình Định.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn S. Xác định di sản thừa kế
của cụ Phạm Thị H2 được chia thừa kế theo pháp luật cho hàng thừa kế thứ nhất
gồm: bà Lê Thị N1, ông Lê Văn N, ông Lê Văn S là 118m
2
đất ở, 152m
2
đất vườn
9
và ngôi nhà có diện tích 49,5m
2
thuộc thửa đất 534, tờ bản đồ số 3 tại thôn Vân
Sơn, xã Nhơn Hậu, thị xã A, tỉnh Bình Định
3. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Lê Thị N1 giao kỷ phần thừa kế được chia
tặng cho ông Lê Văn N và ông Lê Văn S sở hữu, sử dụng.
4. Ông Lê Văn N, ông Lê Văn S mỗi người được chia thừa kế 135m
2
(59m
2
đất ở và 76m
2
đất vườn) thuộc thửa đất 534, tờ bản đồ số 3 tại thôn V, xã N, thị
xã A, tỉnh Bình Định.
5. Chia cho ông Lê Văn S 135m
2
(59m
2
đất ở và 76m
2
đất vườn) thuộc thửa
đất 534, tờ bản đồ số 3 tại thôn V, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định có giới cận Đông
giáp thửa đất 403 và 412, Tây giáp đường, Nam giáp đất còn lại của thửa 534,
Bắc giáp thửa 1150. Giao cho ông Lê Văn S sở hữu nhà kho diện tích 31,6m do
vợ chồng ông Lê Văn N xây dựng. Buộc ông Lê Văn S có nghĩa vụ thanh toán
cho vợ chồng ông Lê Văn N bà Võ Thị B giá trị nhà kho, tường rào, công bồi trúc
số tiền 61.713.020đ
6. Ông Lê Văn N, bà Võ Thị B, chị Lê Thị Ngọc B1, anh Lê Xuân H được
sử dụng 643m
2
(gồm 59m
2
đất ở và 584m
2
đất vườn) còn lại của thửa đất 543, tờ
bản đồ số 3 tại thôn V, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định, có giới cận: Đông giáp
thửa 412 và thửa 532, Tây giáp đường, Nam giáp thửa 1027, Bắc giáp phần đất
chia cho ông Lê Văn S. Trong đó phần diện tích đất được chia thừa kế cho ông
Lê Văn N 135m
2
(gồm 59m
2
đất ở và 76m
2
đất vườn), phần diện tích đất vườn
584m
2
được cấp theo Nghị định 64/CP cho ông Lê Văn N, bà Võ Thị B mỗi người
102m
2
(đã trừ 100m
2
chuyển nhượng cho bà Lê Thị N1), chị Lê Thị Ngọc B1, anh
Lê Xuân H (mỗi người 152m
2
). Giao ngôi nhà cấp loại N8 diện tích 49,5m
2
do cụ
Phạm Thị H2 xây dựng cho ông Lê Văn N sở hữu. Buộc ông Lê Văn N thanh toán
cho ông Lê Văn S ½ giá trị nhà là 18.191.250đ
Các tài sản khác gắn liền với diện tích đất như: Nhà ở, tường rào, sân xi
măng, chuồng bò, giếng nước là tài sản riêng của vợ chồng ông Lê Văn N, bà Võ
Thị Bửu .
7. Bà Lê Thị N1 được sử dụng thửa đất 1150 tờ bản đồ số 3, diện tích 182m
2
(gồm 82m
2
đất ở và 100m
2
đất vườn) tại thôn V, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định,
có giới cận Đông giáp thửa 403, Tây giáp đường, Nam giáp thửa 534, Bắc giáp
thửa 1027. Tài sản trên đất gồm nhà ở, công trình phụ là tài sản riêng của bà Lê
Thị N1.
8. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lê Thị N1, Ông Lê Văn N thuộc trường
hợp người cao tuổi nên được miễn án phí.
Ông Lê Văn S phải chịu 4.042.000đ án phí. Ông Lê Văn S đã nộp tạm ứng
3.000.000đ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0001994 ngày 20/10/2023 tại
Chi cục Thi hành án dân sự thị xã A, tỉnh Bình Định, ông Lê Văn S còn phải nộp
1.042.000đ.
Chị Lê Thị Ngọc B1, anh Lê Xuân H mỗi người phải chịu 300.000đ.
10
9. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Lê Văn N là người cao tuổi nên miễn
án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
10. Chi phí định giá: Chi phí định giá 12.036.00đ. Ông Lê Văn S tạm ứng,
ông Lê Văn S phải chịu 6.018.000đ, ông Lê Văn N phải trả cho ông Lê Văn S
6.018.000đ.
11. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ
ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
12. Về quyền và nghĩa vụ thi hành án:
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468
Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự.
13. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Bình Định; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND thị xã A;
- CCTHADS thị xã A;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ; Tòa dân sự.
Nguyễn Thị Hoài Xuân
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 20/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 11/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm