Bản án số 358/2025/HC-PT ngày 02/05/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 358/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 358/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 358/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 358/2025/HC-PT ngày 02/05/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 358/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 02/05/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Ông Hứa Thanh Hùng kiện Ủy ban nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 358/2025/HC-PT
Ngày: 02 - 4 - 2025
V/v: “Khiếu kiện yêu cầu hủy quyết định
giải quyết khiếu nại và yêu cầu cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Văn Đạt;
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Cúc;
Bà Nguyễn Thị Thúy Hòa.
- Thư ký phiên tòa: Ông Thân Văn Nhường - Thư ký của Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Phạm Ba Duy - Kiểm sát viên.
Ngày 02 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số
01/2025/TLPT-HC ngày 06 tháng 01 năm 2025, về việc “Khiếu kiện yêu cầu hủy
quyết định giải quyết khiếu nại và yêu cầu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 15/2024/HC-ST ngày 14 tháng 11 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước, bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 815/2025/QĐ-PT ngày
20 tháng 3 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Ông Hứa Thanh H, sinh năm 1968 (có mặt);
Địa chỉ: Tổ H, khu phố N, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bình Phước.
2. Người bị kiện:
2.1. Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Bình Phước; người đại diện theo pháp
luật: Ông Nguyễn Gia H1, chức vụ: Chủ tịch
2.2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Bình Phước
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: Ông Hồ Quang K, chức
vụ: Phó Chủ tịch (có mặt).
Địa chỉ trụ sở: Thị trấn L, huyện L, tỉnh Bình Phước.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

2
3.1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn L, huyện L, tỉnh Bình Phước
3.2. Ủy ban nhân dân thị trấn L, huyện L, tỉnh Bình Phước; người đại diện
theo pháp luật: Ông Cao Thành G, chức vụ: Chủ tịch.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trương Thành H2, chức vụ: Phó Chủ
tịch (có mặt).
Địa chỉ trụ sở: Thị trấn L, huyện L, tỉnh Bình Phước.
3.3. Bà Hứa Thị L, sinh năm 1955 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số I, đường N, tổ H, khu phố N, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bình
Phước.
3.4. Ông Hứa Nghiệp Q, sinh năm 1956 (có mặt);
Địa chỉ: Số A, đường H, khu phố N, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bình Phước.
3.5. Ông Hứa Nghiệp H3, sinh năm 1960 (có mặt);
Địa chỉ: Số nhà A, đường H, khu phố N, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bình
Phước.
3.6. Ông Hứa Nghiệp P, sinh năm 1964 (có mặt);
Địa chỉ: Số I, tổ H, khu phố N, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bình Phước.
3.7. Ông Hứa Nghiệp D, sinh năm 1965 (có mặt);
Địa chỉ: Số I, khu phố N, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bình Phước.
Người đại diện theo ủy quyền của bà L, ông Q, ông H3, ông P, ông D: Ông
Hứa Thanh H4 (có mặt).
4. Người kháng cáo: ông Hứa Thanh H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ kiện, người khởi
kiện trình bày:
Khoảng trước năm 1972, cha mẹ của ông Hứa Thanh H là ông Hứa Nghiệp
P1 (chết năm 2002) và bà Lý Thị T (chết năm 2015) khai phá một thửa đất (chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) có diện tích khoảng 95,3m², tọa lạc
tại tổ I, ấp B, xã L, thị trấn L, huyện L, tỉnh Sông Bé (nay là tổ H, khu phố N, thị
trấn L, huyện L, tỉnh Bình Phước). Năm 1986, ông H bắt đầu quản lý và sử dụng
thửa đất này, trên thửa đất đã có sẵn 01 cái giếng đào và 01 cây vú sữa (do cha
ông H đào giếng và trồng cây). Năm 1996, Ủy ban nhân dân xã L (nay thuộc thị
trấn L) yêu cầu ông H chặt cây vú sữa để tránh nguy hiểm cho các hộ dân lân cận.
Năm 1997, ông H tiến hành mở rộng đường đi để tạo điều kiện cho các hộ dân
xung quanh có đường đi song song đó ông H cũng tiến hành san lấp mặt bằng nên
gốc cây vú sữa đã bị lấp nhưng riêng cái giếng vẫn còn giữ nguyên. Ông H sinh
sống trên thửa đất từ khi ông H sinh ra cho đến nay. Quá trình sử dụng đất từ
khoảng trước năm 1972 đến khi có Pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước quy định
về thuế nhà, đất năm 1992 và đến năm 1993 do cha mẹ ông H kê khai thuế và
thực hiện nghĩa vụ đóng thuế đều hàng năm cũng như các khoản thu về công ích

3
và lệ phí khác do chính quyền địa phương phát động. Ông H sử dụng liên tục công
khai, không tranh chấp với ai, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất của địa phương.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 101 Luật Đất đai năm 2013 và theo quy
định tại điểm a khoản 2 Điều 70 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ thì
gia đình ông H đủ điều kiện để xin được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, tại Công văn số 77/UBND-KT ngày 24/10/2022 của Ủy ban nhân dân
thị trấn nhận định rằng: “Các giấy tờ, văn bản pháp lý liên quan đến hiện trạng
thửa đất sử dụng và việc sử dụng thửa đất của gia đình ông H là chưa rõ ràng,
nên việc đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông H là không có
căn cứ”.
Ông H không đồng ý với nhận định trên của Ủy ban nhân dân thị trấn vì
các giấy tờ, văn bản pháp lý liên quan đến hiện trạng sử dụng đất của gia đình ông
H đều theo đúng quy định của pháp luật, cụ thể: Biên lai nộp thuế sử dụng đất
nông nghiệp, thuế nhà đất (căn cứ vào văn bản trả lời của Chi cục thuế L1-Bù Đốp
số 1818/CCTKVLNBĐ-LXI ngày 02/11/2023 đã xác nhận từ năm 1993 gia đình
ông H đã bắt đầu đóng thuế nhà đất cùng 01 số biên lai còn lưu giữ lại được);
Giấy tờ từ trước năm 1976 đã bị thất lạc nhưng qua tra cứu tàng thư hộ khẩu theo
giấy xác nhận số 12/2023/GXN của Công an huyện L ngày 30/10/2023 tại thời
điểm ngày 10/12/1976, hộ gia đình ông H có 08 nhân khẩu và hiện nay vẫn thường
trú tại địa chỉ thuộc thửa đất có diện tích nêu trên. Tuy nhiên, qua các thời kỳ thì
về phần địa chỉ thửa đất sẽ có sự thay đổi nhưng về phần vị trí hiện trạng vẫn giữ
nguyên không thay đổi (địa chỉ từ tổ I, ấp B, xã L, thị trấn L, huyện L, tỉnh Sông
Bé nay đổi thành tổ H, khu phố N, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bình Phước); Ngày
30/6/1994, cha ông H đăng ký hợp đồng mua bán điện sinh hoạt số 624 của Điện
lực S (nay đổi thành Điện lực Lộc Ninh) và vẫn sử dụng ổn định, liên tục đến nay
và thanh toán tiền điện đầy đủ cho đến thời điểm hiện tại; Do trước đây các anh
chị em trong gia đình tách ra ở riêng nhưng vẫn sử dụng chung 01 công tơ điện
theo Hợp đồng số 624 dẫn đến quá tải cho nên đến ngày 09/01/2023 ông H đã tiến
hành đăng ký sử dụng công tơ điện riêng theo Hợp đồng mua bán điện số
22/024585. (căn cứ theo xác nhận của Đ ngày 03/11/2023).
Từ những căn cứ nêu trên là cơ sở để chứng minh về thời điểm gia đình
ông H sử dụng liên tục, công khai và ngay tình thửa đất trên, có đủ điều kiện để
thực hiện thủ tục hành chính đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất theo quy định.
Quyết định hành chính số 373/QĐ-UBND của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
thị trấn L ngày 14/11/2022 và Quyết định hành chính số 3249/QĐ-UBND của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện L ngày 16/10/2023 còn nhiều nội dung chưa
được làm rõ và không tuân thủ đúng quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại.
Bởi lẽ: Theo kết quả làm việc với Ủy ban nhân dân thị trấn L thì Thanh tra huyện
nhận định: “Trong sổ Mục kê của Ủy ban nhân dân thị trấn L được lập và phê
duyệt năm 2009, Sổ địa chính được lập năm 2003 và phê duyệt năm 2009 thể hiện
thửa đất 130 tờ bản đồ số 30 là đất của Ủy ban nhân dân thị trấn quản lý thuộc
loại đất xây dựng có phần diện tích đất mà ông H đang khiếu nại và yêu cầu được

4
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất" nhưng lại mâu thuẫn với nhận định tiếp
theo, cụ thể “Về công tác quản lý, kiểm kê, sử dụng: Giai đoạn trước năm 2003
Ủy ban nhân dân thị trấn không cung cấp được hồ sơ, tài liệu liên quan đến công
tác quản lý, sử dụng khu đất trên. Từ năm 2003 đến nay, Ủy ban nhân dân thị trấn
C vào Sổ địa chính và Sổ mục kê để xác định thửa đất trên là do Ủy ban nhân dân
thị trấn quản lý". Qua 02 nhận định trên của Thanh tra huyện cho thấy rằng: Ủy
ban nhân dân thị trấn không có căn cứ để xác thực thửa đất trên do Ủy ban nhân
dân thị trấn quản lý trong khi trước năm 2003 Ủy ban nhân dân thị trấn K cung
cấp được hồ sơ, tài liệu chứng minh. Không cung cấp được tài liệu trước năm
2003 thì Ủy ban nhân dân thị trấn không có căn cứ để lập và duyệt vào Sổ mục
kê. Ông Cao Thành G - Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn cho biết: Từ thời điểm
trước năm 2003 đến năm 2020 Ủy ban nhân dân thị trấn không thực hiện việc
kiểm tra, lập báo cáo hay đăng ký nhu cầu sử dụng đối với thửa đất trên. Qua trả
lời của ông G thì được hiểu là Ủy ban nhân dân thị trấn chưa tiến hành kiểm tra,
lập báo cáo hay đăng ký nhu cầu sử dụng đất đối với hộ gia đình đang sinh sống
từ trước năm 1972 cho đến nay đã tự ý tiến hành kê khai vào Sổ mục kê thửa đất
trên do Ủy ban nhân dân thị trấn quản lý trong khi đó chưa tính đến xác nhận của
Công an huyện L từ năm 1976 hộ khẩu gia đình ông H vẫn còn dữ liệu trong tàng
thư hộ khẩu thì từ ngày 17/12/2003 hộ khẩu gia đình ông H đã cấp đổi theo quyển
số 941 vẫn còn địa chỉ cũ tại tổ I, ấp B, thị trấn L, huyện L. Từ năm 2001-2005
gia đình ông H được Ủy ban nhân dân huyện công nhận đạt danh hiệu “Gia đình
văn hóa" do Ủy ban nhân dân huyện K xác nhận vào năm 2004. Qua 02 lần kiểm
tra của Ủy ban nhân dân thị trấn và Ủy ban nhân dân huyện Đ không có căn cứ để
xác minh nguồn gốc thửa đất trên từ năm 2003 trở về trước. Ủy ban nhân dân thị
trấn cũng không đưa ra được căn cứ, tài liệu hay lời khai chính xác của những hộ
dân xung quanh thửa đất thuộc sở hữu của hộ gia đình ông H để khẳng định cây
vú sữa mọc hoang và cái giếng không phải do cha ông H để lại. Các biên lai đóng
tiền thuế đều khẳng định do gia đình ông H đóng theo đúng quy định tuy nhiên
do về phần địa chỉ thửa đất có sự thay đổi nhưng về phần vị trí hiện trạng vẫn giữ
nguyên không thay đổi. Từ những căn cứ nêu trên ông H cho rằng Ủy ban nhân
dân thị trấn làm việc chỉ dựa trên những lời khai mà không tiến hành xác minh
thực địa, không xác minh lại những thông tin được người dân cung cấp dẫn đến
sự nhầm lẫn trong việc xác định nguồn gốc thửa đất và vị trí nhà máy điện. Bên
cạnh đó, Ủy ban nhân dân huyện cũng đã nhận thấy được lỗi sai của Ủy ban nhân
dân thị trấn, tuy nhiên Ủy ban nhân dân huyện K không có hướng giải quyết hay
khắc phục những lỗi sai nêu trên đồng thời vẫn không tiến hành kiểm tra thông
tin liên quan đến thửa đất trước năm 2003 để khắc phục và có văn bản trả lời thỏa
đáng cho gia đình ông H mà vẫn đưa ra nhận định theo lỗi sai của Ủy ban nhân
dân thị trấn là căn cứ theo Sổ mục kê và Sổ địa chính (trong khi cả Ủy ban nhân
dân thị trấn cũng như Ủy ban nhân dân huyện đều không đưa ra được căn cứ thỏa
đáng tại thời điểm kê khai thửa đất gia đình ông H vẫn đang sử dụng ổn định từ
trước năm 1972 cho đến nay) là thửa đất của gia đình ông H do Ủy ban nhân dân
thị trấn quản lý, thửa đất của gia đình ông H vẫn không đủ điều kiện để cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất.

5
Cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, ông H nộp đơn khởi kiện
yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết tuyên:
1. Hủy Quyết định hành chính số 3249/QĐ-UBND của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân huyện L, tỉnh Bình Phước ngày 16/10/2023 về việc giải quyết khiếu nại
của ông Hứa Thanh H (lần hai).
2. Buộc Ủy ban nhân dân huyện L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đối với phần diện tích 95,3m² trong tổng diện tích 504,6m² thuộc thửa đất số 130,
tờ bản đồ số 30 được đăng ký tại Sổ mục kê năm 2003 của Ủy ban nhân dân thị
trấn L; đất toạ lạc tại tổ H, khu phố N, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bình Phước. Tại
phiên tòa, ông H thay đổi, chỉ yêu cầu được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đối với diện tích đất 93m
2
theo Mảnh trích đo địa chính số 11-2024, hệ tọa độ
VN-2000, khu phố N, tờ bản đồ số 30 do Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai
huyện L thực hiện được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B phê duyệt ngày
17/9/2024.
Tại các văn bản trình bày ý kiến người bị kiện Ủy ban nhân dân huyện L,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện L và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền
của người bị kiện là ông Hồ Quang K trình bày:
Ngày 22/8/2022, Ông Hứa Thanh H ngụ tại tổ H, khu phố N, thị trấn L,
huyện L làm đơn xin cấp giấy chứng nhận chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
diện tích 93m² là một phần diện tích tại thửa đất số 130 tờ bản đồ số 30, tọa lạc
tại đường N, thuộc tổ H, khu phố N, thị trấn L, huyện L. Ủy ban nhân dân thị trấn
L tiến hành xác minh và có Công văn số 77/UBND-KT ngày 24/10/2022 về việc
trả lời đơn kiến nghị của ông H. Qua đó, Ủy ban nhân dân thị trấn trả lời cho ông
H về việc cung cấp thông tin nguồn gốc thửa đất chưa chính xác, mặt khác nội
dung các giấy tờ, văn bản pháp lý liên quan đến hiện trạng sử dụng đất chưa rõ
ràng nên việc đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không có căn cứ
giải quyết. Không đồng ý nội dung có Công văn số 77/UBND-KT ngày
24/10/2022 ông H làm đơn khiếu nại. Ngày 14/11/2022, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân thị trấn L ban hành Quyết định số 373/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu
nại của ông H (lần đầu). Không đồng ý với Quyết định số 373/QĐ-UBND ngày
14/11/2022 ông H làm đơn khiếu nại. Ngày 16/10/2023 Chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện L ban hành Quyết định số 3249/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại
của ông Hứa Thanh H (lần hai).
Nội dung Quyết định số 3249/QĐ-UBND ngày 16/10/2023 của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân huyện L. Ông H yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân huyện giải quyết
khiếu nại lần hai về việc giải quyết thủ tục hành chính đối với đơn đăng ký cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với
đất cho gia đình ông theo quy định của pháp luật (là một phần của thửa đất số 130,
tờ bản đồ số 30) tọa lạc tại khu phố N, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bình Phước. Ủy
ban nhân dân thị trấn đã thực hiện tiếp nhận và giải quyết khiếu nại theo đúng
trình tự quy định tại Luật khiếu nại năm 2011 và Nghị định số 124/2020/NĐ-CP
ngày 19/10/2020 của Chính phủ về quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành luật khiếu nại. Tuy nhiên, khi tiến hành xác minh, Tổ xác minh đơn của Ủy

6
ban nhân dân thị trấn đã không tiến hành xác minh thực địa, không xác minh lại
những thông tin được người dân cung cấp, chỉ tiến hành mời các hộ dân cung cấp
thông tin để xác nhận thông tin, dẫn đến sự nhầm lẫn trong việc xác định nguồn
gốc thửa đất và vị trí nhà máy P2.
Qua kết quả làm việc với Ủy ban nhân dân thị trấn, các hộ dân sống lâu
năm gần thửa đất và xem xét các hồ sơ, tài liệu có liên quan nhận thấy thửa đất
hộ ông H đang khiếu nại có nguồn gốc lấn chiếm đất do Ủy ban nhân dân thị trấn
quản lý trước ngày 01/7/2014. Khu vực đất tại thửa đất số 130, tờ bản đồ 30 trước
thời điểm vào Sổ địa chính để theo dõi biến động thì thửa đất trên chưa được Ủy
ban nhân dân thị trấn xác định mục đích sử dụng, nên trong quá trình quản lý đã
thiếu công tác kiểm tra hàng năm để các hộ dân có đất xung quanh lấn chiếm và
sử dụng. Theo Sổ mục kê và Sổ địa chính đã được Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh phê duyệt thì Ủy ban nhân dân thị trấn L từ 2003 đến nay đã xác định khu
vực đất trên là đất do Ủy ban nhân dân thị trấn quản lý sử dụng vào mục đích xây
dựng cơ bản. Ngày 07/9/2020, Ủy ban nhân dân thị trấn có Báo cáo số 71/BC-
UBND về tình hình quản lý quỹ đất công trên địa bàn thị trấn L, trong đó có đưa
thửa đất trên quản lý theo diện đất công và ngày 11/10/2022 đã đăng ký nhu cầu
sử dụng thửa đất 130 tờ bản đồ 30 là đất văn hóa, thể thao. Như vậy, việc ông H
lấn, chiếm diện tích đất khoảng 93m
2
tại thửa đất số 130, tờ bản đồ số 30 là một
trong những hành vi bị nghiêm cấm theo quy định tại Điều 12 Luật Đất đai; việc
ông H đã sử dụng diện tích đất từ nhiều năm mà chưa được Ủy ban nhân dân thị
trấn xử lý cho thấy việc thiếu kiểm tra trong công tác quản lý đất đai của Ủy ban
nhân dân thị trấn trong khoảng thời gian khá dài. Hiện nay, Ủy ban nhân dân thị
trấn đã có mục đích sử dụng cụ thể đối với khu đất trên, nên xét thấy hiện nay
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H là chưa đủ điều kiện theo
quy định pháp luật, do đó chưa thể thực hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Qua đó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện đã quyết định: “Công nhận
một phần nội dung đơn khiếu nại của ông Hứa Thanh H về việc sử dụng đất của
ông; Công nhận một phần Quyết định số 373/QĐ-UBND ngày 14/11/2022 của
Chủ tịnh UBND thị trấn L giải quyết đơn khiếu nại của ông Hứa Thanh H về nội
dung không đồng ý cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Bác nội dung yêu
cầu cấp giấy chứng nhận quyền sử đất của ông Hứa Thanh H; Hủy một phần
Quyết định số 373/QĐ-UBND ngày 14/11/2022 của Chủ tịch UBND thị trấn giải
quyết đơn khiếu nại của ộng Hứa Thanh H về nội dung xác định nguồn gốc khu
đất ông H sử dụng trước đây là sân bóng và nhà máy P2”. Nay ông H khiếu kiện
Quyết định số 3249/QĐ-UBND ngày 16/10/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện V yêu cầu buộc Ủy ban nhân dân huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất có diện tích 95,3m² thuộc thửa đất số 130, tờ bản đồ số 30, tọa lạc khu
phố N, thị trấn L là không có cơ sở, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh giải quyết vụ
án theo đúng quy định.
Tại văn bản trình bày ý kiến người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Chủ
tịch Ủy ban nhân dân thị trấn L và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền là
ông Trương Thành H2 trình bày:

7
Ủy ban nhân dân thị trấn L vẫn giữ quan điểm đây là thửa đất công cộng có
phần đất liền kề là đường đi bao quanh ngăn cách với đất các hộ dân lân cận. Năm
2002 đến năm 2003 thị trấn L được thực hiện đo đạc và công bố số liệu bản đồ
chính quy thì trong Sổ mục kê và Sổ địa chính không đăng ký tên ai và phần đất
này vẫn do Ủy ban nhân dân thị trấn quản lý, thửa đất số 130, tờ bản đồ số 30 diện
tích 504,6m², mục đích chuyên dùng là xây cơ bản. Tại thời điểm này trên hồ sơ
địa chính vẫn ghi nhận là đất trống. Căn cứ vào kết quả xác minh từ những người
sống lâu năm, sinh sống cùng thời điểm hình thành thửa đất và đối chiếu các hồ
sơ, tài liệu có liên quan, Ủy ban nhân dân thị trấn đã có văn bản trả lời từ chối
việc xét duyệt nguồn gốc để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Hứa
Thanh H. Sau khi nhận được văn bản trả lời của Ủy ban nhân dân thị trấn ông H
không đồng ý với nội dung văn bản trả lời, ông H tiếp tục có đơn khiếu nại đến
Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn. Theo thẩm quyền Ủy ban nhân dân thị trấn tiếp
nhận và giải quyết vụ việc. Trình tự thủ tục và hình thức giải quyết được thực hiện
theo Nghị định 124/2020/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2020 của Chính Phủ. Sau
khi tiếp nhận và giải quyết, Ủy ban nhân dân thị trấn đã thành lập Tổ xác minh để
xác minh nội dung đơn khiếu nại của ông H. Căn cứ vào báo cáo kết quả xác minh
và các thông tin, tài liệu có liên quan, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn ban hành
Quyết định số 373/QĐ-UBND ngày 14/11/2022 để giải quyết khiếu nại cho ông
H với nội dung bác khiếu nại. Do đó, đề nghị Toà án xem xét bác yêu cầu khởi
kiện của ông H, để Ủy ban nhân dân thị trấn lập kế hoạch sử dụng đất xây dựng
công viên phục vụ đời sống tinh thần theo nhu cầu của nhân dân tại khu vực này.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Hứa Thị L, ông Hứa Nghiệp Q,
ông Hứa Nghiệp H3, ông Hứa Nghiệp P, ông Hứa Nghiệp D, bà Trần Thị Ngọc
M (vợ ông H) trình bày: Đề nghị Tòa án không xác định các đương sự nêu trên
vào tham gia tố tụng trong vụ án và thống nhất với lời trình bày của ông Hứa
Thanh H.
Tòa án đã tiến hành tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và tiến hành đối thoại để các đương sự thống nhất với nhau về việc
giải quyết vụ án nhưng không tiến hành đối thoại được, do đó Toà án nhân dân
tỉnh đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 15/2024/HC-ST ngày 14 tháng 11
năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước quyết định:
Căn cứ vào khoản 1, 2, 3, 4 Điều 3; khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32;
điểm a khoản 2 Điều 116; điểm b khoản 2 Điều 157; điểm a khoản 2 Điều 193;
khoản 1 Điều 348; Điều 358 và Điều 359 Luật Tố tụng hành chính;
Căn cứ vào các Điều 7, 9, 18, 27, 28, 29, 30, 31 của Luật Khiếu nại năm
2011 và Nghị định số 124/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Khiếu nại; Điều 13 Luật Đất đai
năm 1987; Điều 8 Nghị định số 30 ngày 23/3/1989 của Hội đồng bộ trưởng (Thi
hành luật Đất đai năm 1987); các Điều 99, Điều 100, Điều 101 của Luật Đất đai
năm 2013; các Điều 18, 19, 20, 21 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai năm 2013;

8
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí,
lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Hứa Thanh H, về việc:
- Hủy Quyết định hành chính số 3249/QĐ-UBND của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân huyện L, tỉnh Bình Phước ngày 16/10/2023 về việc giải quyết khiếu nại
của ông Hứa Thanh H, địa chỉ: Tổ H, khu phố N, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bình
Phước (lần hai).
- Buộc Ủy ban nhân dân huyện L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho ông H đối với phần diện tích 93m
2
trong tổng diện tích 504,6m² thuộc thửa
đất số 130, tờ bản đồ số 30 được đăng ký tại sổ mục kê năm 2003 của Ủy ban
nhân dân thị trấn L; đất toạ lạc tại tổ H, khu phố N, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bình
Phước (Theo Mảnh trích đo địa chính số 11-2024, hệ tọa độ VN-2000, khu phố
N, tờ bản đồ số 30 do Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện L thực hiện
được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B phê duyệt ngày 17/9/2024 kèm theo).
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo
luật định.
Ngày 22/11/2024, ông Hứa Thanh H có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người khởi kiện giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện và đơn kháng cáo, cụ
thể đề nghị xem xét việc Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào lời trình bày của bà
Nguyễn Thị N, ông Nguyễn Bá T1, anh Nguyễn Anh K1 về việc cái giếng không
phải do cha mẹ ông H đào là không có căn cứ. Mảnh đất mà ông H khởi kiện là
Ủy ban nhân dân thị trấn đang tranh chấp với gia đình ông H. Ủy ban nhân dân
thị trấn có thương lượng với gia đình ông H lấy phần đất khoảng 500m
2
để tặng
cho các gia đình liệt sỹ. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận yêu cầu
kháng cáo của ông, sửa bản án sơ thẩm.
Đại diện hợp pháp cho người bị kiện là ông Hồ Quang K trình bày: Đề nghị
Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng
cáo của người khởi kiện, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham
gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư
ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể
từ khi thụ lý, cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: đã tuân thủ đúng
các quy định của pháp luật.
Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào sổ mục kê và sổ địa chính xác định
diện tích 500m
2
là đất công do Ủy ban nhân dân thị trấn Q. Do đó, Ủy ban nhân

9
dân huyện L bác khiếu nại của ông H là có căn cứ. Bản án sơ thẩm xét xử là có
căn cứ pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay, người khởi kiện không xuất trình được
chứng cứ mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử
phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo của người
khởi kiện, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên toà, kết
quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của Kiểm sát viên, các quy định của pháp
luật, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Hứa Thanh H là hợp lệ, nên
được Hội đồng xét xử xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Xét Quyết định số 3249:
[2.1.1] Thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành:
Thẩm quyền ban hành: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện L ban hành Quyết
định số 3249 để giải quyết khiếu nại của ông H khiếu nại đối với Quyết định số
373 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn L là đúng thẩm quyền theo quy định
tại Điều 18 Luật Khiếu nại.
Trình tự, thủ tục ban hành: Sau khi nhận được đơn khiếu nại Quyết định số
373 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn L về việc từ chối thực hiện thủ tục
hành chính đối với đơn đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu
của ông H. Sau khi xác minh nội dung đơn khiếu nại, ngày 28/7/2023 Thanh tra
huyện ban hành Báo cáo số 40/BC-TTr về kết quả xác minh nội dung đơn khiếu
nại của ông H. Trên cơ sở Báo cáo số 40 của Thanh tra huyện, ngày 16/9/2023
Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện B Quyết định số 3249 về việc giải quyết khiếu
nại của ông H là đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Luật Khiếu nại; Nghị
định số 124/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một
số điều và biện pháp thi hành Luật Khiếu nại.
[2.1.2] Thời hạn, thời hiệu ban hành:
Thời hạn ban hành: Sau khi nhận được đơn khiếu nại ngày 28/11/2022 của
ông H, ngày 12/12/2022 Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện B Quyết định số 5651
về việc giao nhiệm vụ xác minh nội dung đơn khiếu nại; ngày 13/12/2022 Ủy ban
nhân dân huyện B Thông báo số 533 về việc thụ lý giải quyết khiếu nại (lần hai);
ngày 28/7/2023 Thanh tra huyện ban hành Báo cáo số 40; ngày 16/9/2023 Chủ
tịch Ủy ban nhân dân huyện M ban hành Quyết định số 3249 là chưa đảm bảo
thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định tại Điều 28 Luật Khiếu nại.
Thời hiệu ban hành: Ngày 28/11/2022, ông H làm đơn khiếu nại gửi Chủ
tịch Ủy ban nhân dân huyện là còn trong thời hiệu khiếu nại theo quy định tại
Điều 9 Luật Khiếu nại. Do đó, việc thụ lý và giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân huyện đối với ông H là đúng quy định pháp luật.
[2.1.3] Về nội dung Quyết định số 3249:

10
Nguồn gốc đất, tại phiên tòa, ông H cho rằng thửa đất trên do cha mẹ ông
khai phá từ trước năm 1972 để lại, trong quá trình sử dụng đã kê khai thuế và thực
hiện nghĩa vụ đóng thuế đều hàng năm cũng như các khoản thu về công ích và lệ
phí khác do chính quyền địa phương phát động. Cha ông H đã đăng ký hợp đồng
mua bán điện sinh hoạt và vẫn sử dụng ổn định, liên tục cho đến nay. Do đó, đủ
cơ sở để chứng minh về thời điểm gia đình ông H quản lý, sử dụng liên tục, công
khai và ngay tình đối với thửa đất trên nên ông có đủ điều kiện để thực hiện thủ
tục hành chính đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản gắn liền với đất theo quy định của Luật Đất đai.
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì Hội đồng xét xử xác định:
Khu vực đất thuộc thửa đất 130, tờ bản đồ số 30 mà ông H đang khởi kiện
trước thời điểm vào sổ địa chính để theo dõi biến động xác định thửa đất này là
đất trống chưa được Ủy ban nhân dân thị trấn xác định mục đích sử dụng nên để
các hộ dân có đất xung quanh lấn chiếm và sử dụng. Phù hợp với kết quả xác minh
từ những người sống lâu năm, sinh sống cùng thời điểm hình thành thửa đất như
ông Nguyễn Bá T1, bà Nguyễn Thị N, ông Bùi Văn T2 xác định (bút lục 137-
139).
Căn cứ vào sổ mục kê đất và sổ địa chính đã được Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh phê duyệt tại quyển số 13, tờ bản đồ số 30, 31; địa chỉ thị trấn L, huyện
L do Ủy ban nhân dân thị trấn L cung cấp (bút lục 219-220) thể hiện từ năm 2003
đến nay, toàn bộ thửa đất số 130, tờ bản đồ số 30 có diện tích 504.6m
2
là đất công
do Ủy ban nhân dân thị trấn quản lý sử dụng vào mục đích xây dựng cơ bản. Do
đó, căn cứ theo quy định người bị kiện xác định nguồn gốc đất của ông H đang
khởi kiện thuộc đất công và không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là có
căn cứ.
Sau khi thụ lý khiếu nại của ông H, Ủy ban nhân dân thị trấn và Thanh tra
huyện đã lập biên bản xác minh ngày 05/10/2022 về nguồn gốc thửa đất số 130,
tờ bản đố 30 đường N, tổ H, khu phố N thì ông H còn xây nhà sau thời gian khoảng
năm 2004-2005, sau thời gian Ủy ban nhân dân thị trấn đăng ký vào sổ địa chính
xác lập đất công. Còn về giếng đào thì ông Nguyễn Anh K1 xác định tại biên bản
xác minh ngày 03/11/2022 do người khác đào chứ không phải do gia đình ông H
đào. Ngoài ra, diện tích đất mà ông H đang sử dụng không được Ủy ban nhân dân
cấp có thẩm quyền giao đất theo quy định, không có văn bản xác nhận của cơ
quan có thẩm quyền về quá trình sử dụng diện tích đất, trong quá trình giải quyết
ông H cũng không cung cấp được bất cứ hồ sơ, giấy tờ liên quan chứng minh
nguồn gốc, quá trình sử dụng đất và diện tích đất ông đang khởi kiện theo quy
định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013.
Ông H cho rằng đã quản lý, sử dụng thửa đất của ông Hứa Nghiệp P1 từ
năm 1986 đến nay, ngoài thửa đất này ông P1 không còn thửa đất nào khác. Tuy
nhiên, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án xác định quá trình sinh sống
tại huyện L, ông P1 có 04 thửa đất đều cùng ở khu phố N, thị trấn L, huyện L,
trong đó ông P1 đứng tên 1 thửa (thửa đất số 110, tờ bản đồ 30, sau này để lại
thừa kế cho Hứa Nghiệp D), còn lại 03 thửa thì các con ông P1 đứng tên gồm ông

11
Hứa Nghiệp P (thửa số 131, tờ bản đồ số 30), ông Hứa Nghiệp H3 (thửa đất số
145, tờ bản đồ 30) và ông Hứa Nghiệp Q (thửa đất số 4, tờ bản đồ 32), các thửa
đất này đều được đo đạc chính quy lần đầu vào tháng 4 năm 2002 và được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng ngày 31/12/2003. Khi cơ quan nhà nước
tiến hành đo đạc khu vực chợ L2, nơi gia đình ông P1 cùng các con (trong đó có
ông H) sinh sống, biết việc nhà nước đo đạc chính quy, trong đó ông P1 và 03
người anh của ông H đã đăng ký, kê khai, ông H cùng sinh sống trong gia đình lại
không đăng ký một phần của thửa đất số 130, tờ bản đồ 30 mà ông H đang sử
dụng. Đến năm 2022 ông H mới làm đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với phần diện tích đất này. Do đó, có thể khẳng định phần diện tích
đất mà ông H đang khởi kiện là đất công và thực tế tại thời điểm đó là đất trống,
không có người sử dụng nên không ai đăng ký, kê khai. Ủy ban nhân dân thị trấn
đã đăng ký vào sổ mục kê, đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh phê duyệt
là đúng quy định. Về hiện trạng tài sản trên đất được Ủy ban nhân dân thị trấn xác
định: “không có nhà, chỉ có 1 khung tiền chế lợp tôn không vách” (bút lục 92,172),
đối chiếu phù hợp với Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 27/9/2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh (bút lục 246-247), thể hiện trên phần diện tích đất mà ông
H đang khởi kiện có 01 mái che lợp tôn, cột sắt dạng tiền chế và 01 giếng nước
đào, không có công trình nhà cửa kiên cố, không có vách ngăn tường, không có
công trình phụ, không có các vật sinh hoạt hàng ngày. Ông H thừa nhận trong quá
trình sử dụng thửa đất ông không tiến hành xây dựng công trình nhà cửa kiên cố
vì khi ông định tiến hành xây dựng thì các cơ quan chức năng ở địa phương xuống
cản trở không cho ông tiến hành xây dựng. Như vậy, chứng tỏ ông H cũng biết
được phần đất này thuộc đất công có Nhà nước quản lý, không đủ điều kiện để
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ông H cho rằng cha mẹ ông đã kê khai thuế và thực hiện nghĩa vụ đóng
thuế đều hàng năm cũng như các khoản thu về công ích và lệ phí khác do chính
quyền địa phương phát động. Ông P1 đã đăng ký hợp đồng mua bán điện sinh
hoạt và vẫn sử dụng ổn định, liên tục cho đến nay thể hiện tại Công văn số
1818/CCTKVLNBĐ-LXI ngày 02/11/2023 của Chi cục thuế khu vực L1 (bút lục
33) và Tờ khai nộp thuế đất ngày 28/7/1993 của ông Hứa Nghiệp P1 địa chỉ: A L,
L, Sông B đối với vị trí thị trấn thuộc lô đất số nhà số D, tổng diện tích đất sử
dụng là 79m
2
(bút lục 30). Tuy nhiên, thời điểm này tên hành chính thị trấn L chưa
được thành lập, bởi theo Nghị định 101/CP ngày 29/8/1994 thì thị trấn L mới được
thành lập và diện tích 79m
2
này được ông Hứa Nghiệp Q kê khai cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là thửa đất số 4 tờ bản đồ 32 với nguồn gốc thửa đất do
cho cha mẹ (ông P1, bà T) tặng cho ông Q. Còn lại phần lớn các biên lai đóng
thuế do ông P nộp và ông P cũng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đối với thửa đất số 131 tờ bản đồ 30. Còn các biên lai thực hiện nghĩa vụ tài chính
khác đều không thể hiện rõ vị trí, số thửa, số tờ bản đồ đối với thửa đất nộp thuế,
do đó, không có cơ sở để xác định việc kê khai và nộp thuế theo các biên lai trên
có liên quan đến thửa đất nào. Ngoài ra, theo kết quả kiểm tra việc sử dụng điện
ngày 13/01/2023 của Điện lực Đ cho thấy việc đăng ký sử dụng điện của ông P1
từ năm 1994 đến nay được ông P1 sử dụng để sinh sống tại thửa đất số 110, tờ

12
bản đồ số 30, diện tích 50m
2
đất ở tại đô thị, tọa lạc tại khu phố N, thị trấn L, sau
khi ông P1 chết ông Hứa Nghiệp D nhận thừa kế thửa đất này và tiếp tục sử dụng
hệ thống công tơ điện đã đăng ký của ông P1. Hệ thống công tơ điện này không
liên quan đến phần diện tích đất 95,3m
2
thuộc thửa đất số 130, tờ bản đồ số 30 mà
ông H đang khởi kiện.
Thửa đất của ông H không có giấy tờ về quyền sử dụng đất và cũng không
được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với
quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng
điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt theo
quy định nêu trên nên không đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất theo quy định.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy yêu cầu khởi kiện của ông
H về việc hủy Quyết định số 3249 là không có căn cứ, nên không được chấp nhận.
[2.2] Về quyết định hành chính có liên quan: Đối với Quyết định số 373 và
Công văn số 77.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện B Quyết định số 3249 về việc giải quyết
khiếu nại của ông H là đúng quy định pháp luật, nên Quyết định số 373 và Công
văn số 77 được ban hành trả lời kiến nghị đối với ông H đối với phần nội dung
không chấp nhận yêu cầu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H là
có cơ sở. Đối với việc giải quyết khiếu nại lần 1 ông H khiếu nại toàn bộ Công
văn số 77 nhưng lại yêu cầu: “chính quyền địa phương xem xét, giải quyết nếu thu
hồi đất của gia đình ông H thì phải hỗ trợ bồi thường, tái định cư hợp lý cho gia
đình ông” là không đúng nhưng Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn không hướng
dẫn, yêu cầu ông H sửa đổi lại đơn, yêu cầu khiếu nại cho đúng mà vẫn xem xét
thụ lý giải quyết là chưa phù hợp. Về hình thức Công văn số 77 do Phó Chủ tịch
thị trấn ký mà không thay mặt Ủy ban nhân dân, ký thay Chủ tịch là không đúng.
Tuy nhiên, Hội đồng xét xử chỉ nêu ra đánh giá để có căn cứ giải quyết vụ án chứ
không xem xét việc giữ nguyên hay hủy bỏ các quyết định, công văn này.
[3] Đối với yêu cầu buộc Ủy ban nhân dân huyện L cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho ông H đối với phần diện tích 93m
2
trong tổng diện tích 504,6m²
thuộc thửa đất số 130, tờ bản đồ số 30 được đăng ký tại sổ mục kê năm 2003 của
Ủy ban nhân dân thị trấn L; đất toạ lạc tại tổ H, khu phố N, thị trấn L, huyện L,
tỉnh Bình Phước.
Ông H không cung cấp được các giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy
định tại Điều 100 Luật Đất đai, Điều 18 Nghị định số 43và cũng không chứng
minh được ông H sử dụng ổn định diện tích đất nêu trên từ trước ngày 01 tháng 7
năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp
xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy
hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch.
Ngoài ra, theo sổ mục kê đất và sổ địa chính đã được Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh phê duyệt thì toàn bộ thửa đất số 130, tờ bản đồ số 30 có diện tích 504.6m
2
là
đất công do Ủy ban nhân dân thị trấn L quản lý sử dụng vào mục đích xây dựng

13
cơ bản. Do đó, Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
ông H.
Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử sơ thẩm không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của ông Hứa Thanh H là có căn cứ.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, phía người khởi kiện không xuất
trình được chứng cứ mới để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng
cáo. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi
kiện và yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện.
[4]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh tại phiên tòa được chấp nhận.
[5]. Các quyết định khác của bản án hành chính sơ thẩm không bị kháng
cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị.
[6]. Về án phí hành chính phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận
nên ông Hứa Thanh H phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241, Điều 242 Luật tố tụng hành chính;
Điều 32, Điều 33, Điều 34 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, giữ quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Không chấp nhận kháng cáo của ông Hứa Thanh H.
Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 15/2024/HC-ST ngày 14 tháng
11 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước.
Tuyên xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Hứa Thanh H, về việc:
- Hủy Quyết định hành chính số 3249/QĐ-UBND của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân huyện L, tỉnh Bình Phước ngày 16/10/2023 về việc giải quyết khiếu nại
của ông Hứa Thanh H, địa chỉ: Tổ H, khu phố N, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bình
Phước (lần hai).
- Buộc Ủy ban nhân dân huyện L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho ông H đối với phần diện tích 93m
2
trong tổng diện tích 504,6m² thuộc thửa
đất số 130, tờ bản đồ số 30 được đăng ký tại sổ mục kê năm 2003 của Ủy ban
nhân dân thị trấn L; đất toạ lạc tại tổ H, khu phố N, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bình
Phước (Theo Mảnh trích đo địa chính số 11-2024, hệ tọa độ VN-2000, khu phố
N, tờ bản đồ số 30 do Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện L thực hiện
được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B phê duyệt ngày 17/9/2024 kèm theo).
3. Các quyết định khác của bản án hành chính sơ thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

14
4. Về án phí hành chính phúc thẩm: Ông Hứa Thanh H phải chịu 300.000
đồng; được khấu trừ số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm do ông Hứa
Thanh H đã nộp theo biên lai số 0000076 ngày 27/11/2024 của Cục Thi hành án
dân sự tỉnh Bình Phước; (ông H đã nộp đủ án phí hành chính phúc thẩm).
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP.HCM;
- TAND tỉnh Bình Phước;
- Cục THADS Bình Phước;
- Các đương sự;
- Lưu: HSVA, VT (TVN).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Văn Đạt
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 26/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 22/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm