Bản án số 52/2024/DS-ST ngày 24/10/2024 của TAND huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 52/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 52/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 52/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 52/2024/DS-ST ngày 24/10/2024 của TAND huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Đắk Mil (TAND tỉnh Đắk Nông) |
Số hiệu: | 52/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/10/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Xét xử |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN ĐẮK MIL
TỈNH ĐẮK NÔNG
Bản án số: 52/2024/DS-ST
Ngày: 24-10-2024.
“V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hồng Huệ.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Duy Chấn và ông Nguyễn Tiến
Tịnh.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Vân Anh – Thư ký Tòa án nhân dân
huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông
tham gia phiên toà: Bà Lại Thị Huyền – Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 10 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil,
tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 50/2024/TLST-DS,
ngày 24 tháng 4 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2024/QĐXXST-DS ngày 19 tháng 9
năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa số: 80/2024/QĐST- DS ngày 04 tháng
10 năm 2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: + Ông Trần Phước T, sinh năm 1989 – Vắng mặt.
+ Bà Bùi Thị Kiều X, sinh năm 1991- Vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Thôn Đức A, xã Thuận A, huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Ông Thái Phan Quang H,
sinh năm 1997 – Có mặt.
Địa chỉ: Số B, đường Trần Hưng Đ, thị trấn Đắk M, huyện Đắk Mil, tỉnh
Đắk Nông.
Bị đơn: Ông Phạm Thanh L, sinh năm 1993 – Vắng mặt lần thứ hai không
lý do.
Địa chỉ: Thôn Thuận N, xã Thuận A, huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 27/02/2024, đơn khởi kiện bổ sung
đề ngày 21/3/2024 và lời khai của người đại diện của nguyên đơn trong quá
2
trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện theo uỷ quyền của
nguyên đơn ông Thái Phan Quang H trình bày:
Trên cơ sở quen biết, vào ngày 05/10/2022, ông T, bà X có cho ông
Phạm Thanh L vay số tiền 150.000.000 đồng (một trăm năm mươi triệu đồng)
để kinh doanh và hẹn một năm sau sẽ hoàn trả số tiền trên. Ông L có thế chấp
cho vợ chồng ông T, bà X 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CE
099235 nhưng chưa làm thủ tục đăng ký thế chấp theo quy định. Việc vay
được hai bên lập thành giấy vay tiền, có chữ ký của ông L lãi suất được các
bên thống nhất bằng lời nói là 4,5%/tháng tương đương với số tiền 6.750.000
đồng/tháng. Đến tháng 3/2023, vì ông L vẫn chưa có tiền trả tiền lãi cho ông
T, bà X, vì vậy giữa các bên đã thống nhất với nhau và thoả thuận như sau:
Chốt lãi đến hết tháng 3/2023 (thời gian vay 5 tháng 26 ngày), tuy nhiên, do
ông L trả lãi của 01 tháng nên chỉ tính thời gian vay là 4 tháng 26 ngày với số
tiền lãi được tính là 32.850.000 đồng. Sau đó hai bên thống nhất lấy số tiền
sau khi chuyển tiền lãi cộng với số tiền vay gốc như sau: 150.000.000 đồng +
30.000.000 đồng = 180.000.000 đồng (Một trăm tám mươi triệu đồng) và tính
lại lãi bắt đầu từ tháng 4/2023. Ông L còn nợ lại số tiền 2.850.000 đồng. Ông
L đã trả lãi được 01 tháng nên coi như số tiền trên ông trả là tiền lãi của tháng
3/2023. Về lãi suất và thời hạn vay được các bên thực hiện như thoả thuận vay
ngày 05/10/2023, việc vay mượn được hai bên lập thành giấy vay tiền có chữ
ký và điểm chỉ của hai bên, một giấy viết tay về việc thống nhất tổng nợ có
chữ ký của ông L và chữ viết tay của ông L về việc đọc và đồng ý các nội
dung đã thoả thuận. Đến thời hạn trả nợ như giấy vay tiền, ông T, bà X đã
nhiều lần gọi điện, đến tận nhà ông L để yêu cầu ông L trả nợ nhưng ông L
trốn tránh không chịu trả, hẹn hết lần này đến lần khác. Đến nay đã quá hạn
trả nợ, ông T, bà X liên hệ yêu cầu ông L hoàn trả lại số tiền nợ nêu trên thì
ông L lấy lý do để trốn tránh, hẹn ông T, bà X hết lần này đến lần khác. Vì
vậy, yêu cầu Toà án giải quyết buộc ông Phạm Thanh L phải trả cho ông T, bà
X số tiền tạm tính là 196.100.000 đồng (một trăm chín sáu triệu, một trăm
nghìn đồng), trong đó tiền gốc là 180.000.000 đồng (một trăm tám mươi triệu
đồng), tiền lãi từ ngày 01/4/2023 đến ngày 05/10/2023 (lãi suất 10%/năm, thời
gian: 6 tháng 4 ngày) là 9.200.000 đồng (chín triệu, hai trăm nghìn đồng), tiền
lãi chậm trả từ ngày 06/10/2023 đến ngày 23/02/2024 (lãi suất chậm trả:
10%/năm, thời gian 04 tháng 18 ngày) là 6.900.000 đồng (sáu triệu, chín trăm
nghìn đồng). Ông T, bà X không có yêu cầu gì đối với tài sản thế chấp là giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CE 099235.
Tại phiên toà người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn thay đổi một
phần yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bị đơn trả cho nguyên đơn 150.000.000 đồng
(Một trăm năm mươi triệu đồng) tiền gốc, lãi trong hạn tính từ ngày
05/10/2022 đến ngày 05/10/2023 mức lãi là 20%/năm là 30.000.000 đồng (Ba
3
mươi triệu đồng), tiền lãi quá hạn tính từ ngày 06/10/2023 mức lãi 20%/năm
đến ngày xét xử là 31.000.000 đồng, trừ đi số tiền bị đơn đã trả là 6.750.000
đồng (sáu triệu, bảy trăm nghìn đồng).
Bị đơn ông Phạm Thanh L: Quá trình giải quyết vụ án không đến Tòa án
làm việc để trình bày ý kiến đồng ý hay không đồng ý yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn hay có yêu cầu phản tố, Tòa án đã tiến hành xác minh tại Ủy ban
nhân dân xã Thuận An, huyện Đắk Mil nơi ông L có đăng ký hộ khẩu thì được
công an xã thông tin ông L có đăng ký hộ khẩu tại địa phương tại thời điểm
Toà án Đắk Mil tiến hành xác minh ông Phạm Thanh L không có mặt tại địa
phương, đi đâu không thông báo với địa phương nên địa phương không biết
ông L đi đâu. Toà án đã đăng thông báo về việc giải quyết vụ án để ông L đến
Toà án làm việc theo trình tự thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, bị đơn ông L vẫn
không đến Toà án để làm việc. Vì vậy, Tòa án không tiến hành lấy lời khai,
công khai chứng cứ và không hòa giải được vụ án nên quyết định đưa vụ án ra
xét xử theo thủ tục chung.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk
Nông trình bày quan điểm giải quyết vụ án: Về việc chấp hành pháp luật của
Thẩm phán, Thư ký từ khi thụ lý giải quyết vụ án đến khi Hội đồng xét xử
(HĐXX) đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng. Nguyên đơn đã thực hiện đầy
đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 234 Bộ luật
tố tụng Dân sự (BLTTDS). Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ
tố tụng quy định tại Điều 70, Điều 72 của BLTTDS.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng quy định Điều
463, Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015 chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn,
buộc bị đơn trả lại cho nguyên đơn số tiền 150.000.000 đồng tiền gốc, tiền lãi
trong hạn, tiền lãi quá hạn đến ngày xét xử theo mức lãi suất 20%/năm, trừ đi
số tiền lãi bị đơn đã trả là 6.750.000 đồng và tiếp tục trả lãi phát sinh cho đến
khi thanh toán xong nợ.
Về án phí: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2006 bị đơn phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm
theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn có hộ khẩu thường trú và trú
tại Thôn Thuận N, xã Thuận A, huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông. Do đó, Tòa
án nhân dân huyện Đăk Mil thụ lý, giải quyết là đúng quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS.
[2] Về quan hệ tranh chấp: Tại phiên tòa, sau khi làm rõ nội dung tranh
chấp người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn yêu cầu Hội đồng xét xử
4
(HĐXX) giải quyết, buộc ông L có nghĩa vụ thanh toán cho ông Trần Phước
T, bà Bùi Thị Kiều X số tiền gốc 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu
đồng) lãi trong hạn tính từ ngày 05/10/2022 đến ngày 05/10/2023 mức lãi là
20%/năm là 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng), tiền lãi quá hạn tính từ
ngày 06/10/2023 mức lãi 20%/năm đến ngày xét xử là 31.000.000 đồng, trừ đi
số tiền bị đơn đã trả là 6.750.000 đồng (sáu triệu, bảy trăm năm mươi nghìn
đồng). Vì vậy, HĐXX xác định đây là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”
được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về sự vắng mặt của bị đơn: Quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông L
không đến Tòa án làm việc để trình bày ý kiến đồng ý hay không đồng ý yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn hay có yêu cầu phản tố, Tòa án đã tiến hành
xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Thuận An, huyện Đắk Mil nơi ông L có
đăng ký hộ khẩu thì được công an xã Thuận An thông tin ông L có đăng ký hộ
khẩu tại địa phương tại thời điểm Toà án nhân dân huyện Đắk Mil tiến hành
xác minh ông Phạm Thanh L không có mặt tại địa phương, đi đâu không
thông báo với địa phương nên địa phương không biết ông L đi đâu. Toà án đã
đăng thông báo về việc giải quyết vụ án, niêm yết công khải các thủ tục tố
tụng để ông L đến Toà án làm việc theo trình tự thủ tục tố tụng nhưng ông L
vẫn không đến Tòa án làm việc. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng
mặt đương sự là đúng quy định tại Điều 227, Điều 228 BLTTDS.
[4] Về thời hiệu khởi kiện: Ngày 05/10/2022 ông T, bà X có cho ông L
vay 150.000.000 đồng có viết giấy vay tiền, đến ngày 27/02/2024 ông T, bà X
khởi kiện ông L ra Tòa án để yêu cầu trả tiền vay là vẫn còn trong thời hiệu
khởi kiện theo Điều 184 BLTTDS; Điều 429 của Bộ luật Dân sự năm
2015(viết tắt BLDS).
[5] Về nội dung vụ án:
[5.1] Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các tài liệu chứng cứ đã được Hội đồng
xét xử xem xét nhận thấy:
Theo giấy vay tiền ngày 05/10/2022, ông Trần Phước T có cho ông
Phạm Thanh L vay số tiền 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu
đồng), thời hạn vay là 12 tháng, lãi suất các bên thoả thận bằng lời nói là
4,5%/tháng (tương đương 6.750.000 đồng/tháng), ông L có thế chấp 01 giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CE099235 nhưng chưa làm thủ tục đăng ký
thế chấp theo quy định. Đến tháng 3/2023, hai bên chốt lãi thời gian vay là 5
tháng 26 ngày, do ông L trả lãi của 01 tháng nên chỉ tính thời gian vay là 4
tháng 26 ngày, do ông L trả lãi của 01 tháng nên chỉ tính thời gian vay là 4
tháng 26 ngày với số tiền lãi được tính là 32.850.000 đồng. Hai bên thống
nhất chuyển lãi cộng vốn vay: 150.000.000 đồng + 30.000.000 đồng =
180.000.000 đồng và tính lãi bắt đầu từ tháng 4/2023. Ông L còn nợ lại số tiền
2.850.000 đồng. Về lãi suất và thời hạn vay được các bên thực hiện như thoả
thuận vay ngày 05/10/2023. Ông T, bà X yêu cầu Toà án buộc ông L phải trả
số tiền gốc 180.000.000 đồng và tiền lãi từ ngày 01/4/2023 đến ngày
5
05/10/2023 (Lãi suất 10/năm, thời gian 6 tháng 4 ngày) là 9.200.000 đồng.
Tiền lãi chậm trả từ ngày 06/10/2023 tạm tính đến ngày 23/02/2024 (lãi suất
chậm trả 10%/năm, thời gian 4 tháng 18 ngày) là 6.900.000 đồng. Không có
yêu cầu đối với tài sản thế chấp là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CE
099235.
Xét nội dụng khởi kiện của nguyên đơn ông T, bà X yêu cầu Tòa án buộc
Lâm phải trả số tiền nợ gốc là 180.000.000 đồng, HĐXX xét thấy ngày
05/10/2022 ông Phạm Thanh L ký xác nhận trong giấy vay tiền với số tiền
150.000.000 đồng, thời gian vay 01 năm (tức từ ngày 05/10/2022 đến ngày
05/10/2023) nhưng đến tháng 3/2023 hai bên tính toán lại số tiền và ghi lại
giấy nợ là “chốt lãi đến hết tháng 3/2023: 32.850.000 đồng, chuyển lãi cộng
vốn vay 150.000.000 + 30.000.000 = 180.000.000 tính bắt đầu từ tháng 4, số
lãi còn lại 2.850.000, thanh toán lãi tháng 3 Lâm. Phạm Thanh L tôi đã đọc
và đồng ý” có chữ ký của ông L do quá trình làm việc ông L không đến Tàa
án để làm việc nên nguyên đơn yêu cầu giám định chữ ký của ông Phạm
Thanh L trên giấy vay nợ và chữ ký mẫu thu thập, Toà án đã tiến hành trưng
cầu giám định chữ viết “ Tôi đã đọc và đồng ý” tại dòng chữ viết thứ 11 tính
từ trên xuống của tài liệu cần giám định (ký hiệu A1) so với chữ viết của ông
Phạm Thanh L tài liệu mẫu (ký hiệu M1, M2) có phải do cùng một người viết
ra hay không? Tại kết luận giám định thể hiện: chữ viết “tôi đã đọc và đồng ý”
tại dòng chữ viết thứ 11 tính từ trên xuống trên tài liệu giám định (ký hiệu A1)
so với chữ viết của ông Phạm Thanh L trên tài liệu mẫu (ký hiệu M1, M2) do
cùng một người viết ra. Chữ ký, chữ viết mang tên Phạm Thanh L tại dòng
chữ viết thứ 09,10 tính từ trên xuống trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A1)
và chữ ký, chữ viết mang tên Phạm Thanh L dưới mục: Bên vay trên xuống
trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A2) so với chữ ký, chữ viết của Phạm
Thanh L trên tài liệu mẫu (ký hiệu M1, M2) do cùng một người ký, viết ra. Do
vậy chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp cho Tòa án là theo “Giấy vay tiền”
ngày 05/10/2022 và ngày 01/4/2023 có ký nhận của người vay tiền là Phạm
Thanh L là hoàn toàn có thật. Như vậy theo giấy chốt lại lãi đến hết tháng 3
thì mức lãi suất hai bên thoả thuận là 4,5%/tháng (54%/năm) vượt quá quy
định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự (20%/năm). Tuy nhiên, tại
phiên toà đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn thay đổi một phần yêu cầu
khởi kiện, yêu cầu bị đơn trả cho nguyên đơn 150.000.000 đồng tiền gốc, lãi
trong hạn tính từ ngày 05/10/2022 đến ngày 05/10/2023 mức lãi suất
20%/năm là 30.000.000 đồng, tiền lãi quá hạn tính từ ngày 06/10/2023 với
mức lãi 20%/ năm đến ngày xét xử sơ thẩm là 31.000.000 đồng, trừ đi số tiền
bị đơn đã trả là 6.750.000 đồng. Tổng cộng là 204.250.000 đồng và tiền lãi
phát sinh cho đến khi thanh toán xong nợ là có căn cứ nên cần chấp nhận.
HĐXX xét thấy nội dung giấy vay tiền thể hiện giữa các bên có thỏa thuận cụ
thể về thời hạn trả nợ theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân
sự quy định: “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình
tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên
đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”. Như vậy,
6
việc bị đơn có vay tiền của nguyên đơn là có thật. Việc vay tiền giữa hai bên
là hoàn toàn tự nguyện, không có sự ép buộc nào, đáp ứng đủ điều kiện được
quy định tại Điều 463 Bộ luật dân sự (BLDS) quy định “Hợp đồng vay tài sản
là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay;
khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo
đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp
luật có quy định”. Đến hạn trả nợ bị đơn không trả cho nguyên đơn khoản tiền
nào cả gốc và lãi nên bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ dân sự theo khoản 1 Điều
351 của BLDS “1. Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách
nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ
không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ
hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ”.
[6] Xét quan điểm của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật của người
tiến hành tố tụng là đúng quy định của pháp luật người tham gia tố tụng nguyên
đơn thực hiện đúng theo quy định pháp luật bị đơn không chấp hành đúng quy
định của pháp luật. Về nội dung đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của nguyên
đơn buộc bị đơn phải trả lại cho nguyên đơn số tiền 150.000.000 đồng tiền gốc và
tiền lãi trong hạn,lãi quá hạn đến ngày xét xử theo mức lãi suất 20%/năm, trừ đi số
tiền lãi bị đơn đã trả là 6.750.000 đồng và tiếp tục trả lãi phát sinh cho đến khi
thanh toán xong nợ. Về án phí áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm
theo quy định của pháp luật là phù hợp nên chấp nhận.
[7] Từ những phân tích nêu trên, HĐXX xét thấy cần chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn ông T, bà X buộc Lâm phải trả cho ông T, bà X số
tiền gốc 150.000.000 đồng (một trăm năm mươi triệu đồng), nguyên đơn yêu
cầu tính lãi trong hạn từ ngày 05/10/2022 đến ngày 05/10/2023 mức lãi suất
20%/năm với số tiền lãi là 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng), lãi quá hạn
tính từ ngày 05/10/2023 với mức lãi 20% với số tiền 31.000.000 đồng (Ba
mươi mốt triệu đồng), trừ đi số tiền bị đơn đã trả là 6.750.000 đồng (sáu triệu,
bảy trăm năm mươi nghìn đồng). Tổng cộng là 204.250.000 đồng (hai trăm
linh bốn triệu, hai trăm năm mươi nghìn đồng).
Đối với 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CE 099235 mà ông
Phạm Thanh L đưa cho ông T, bà X làm tin ghi trong giấy vay tiền ngày
05/10/2022, ông T, bà X không yêu cầu nên Toà án không xem xét, giải
quyết.
[8] Về chi phí tố tụng:
Thủ tục đăng thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng 7.500.000
đồng (bảy triệu năm trăm nghìn đồng) ông Trần Phước T, bà Bùi Thị Kiều X
phải chịu theo khoản 2 Điều 180 của Bộ luật tố tụng Dân sự.
Thủ tục chịu chi phí giám định: Do kết quả giám định chứng minh yêu
cầu của ông T, bà X là có căn cứ nên bị đơn ông Phạm Thanh L phải chịu
10.600.000 đồng (mười triệu sáu trăm nghìn đồng) tiền chi phí giám định theo
khoản 1 Điều 161 của Bộ luật tố tụng Dân sự, ông Tài bà Xuân đã nộp tạm
7
ứng số tiền trên nên ông L phải trả lại số tiền 10.600.000 đồng (mười triệu sáu
trăm nghìn đồng) cho ông T, bà X.
[9] Về án phí Dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp
nhận nên bị đơn ông Phạm Thanh L phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ
thẩm đối với yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận theo quy định tại Điều
147 của BLTTDS, khoản 2 Điều 26 Nghị Quyết số: 326/2016/UBTVQH14,
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án là: 204.250.000
đồng x 5% = 10.212.500 đồng (Mười triệu, hai trăm mười hai nghìn, năm
trăm đồng). Hoàn trả lại cho ông Trần Phước T, bà Bùi Thị Kiều X số tiền
tạm ứng án phí đã nộp là 4.902.500 đồng (Bốn triệu, chín trăm linh hai nghìn,
năm trăm đồng) theo biên lai thu tiền số 0005836 ngày 24/4/2024 tại Chi cục
Thi hành án Dân sự huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 26; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều
39; Điều 91; Khoản 3 Điều 144; Điều 147; khoản 1 Điều 161; khoản 2 Điều
180; Điều 227; Điều 228; khoản 1 Điều 244; Điều 271, Điều 273 của Bộ luật
tố tụng dân sự.
Áp dụng Điều 280; Điều 357; Điều 429; Điều 463; Điều 466; Khoản 1
Điều 468 của Bộ luật dân sự; Khoản 2 Điều 26 Nghị Quyết số
326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội
quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Phước T, bà
Bùi Thị Kiều X.
2. Buộc ông Phạm Thanh L phải trả cho ông Trần Phước T, bà Bùi Thị
Kiều X tổng số tiền là 204.250.000 đồng (hai trăm linh bốn triệu, hai trăm
năm mươi nghìn đồng), trong đó số tiền gốc 150.000.000 đồng (một trăm năm
mươi triệu đồng), lãi trong hạn là 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng), lãi
quá hạn là 31.000.000 đồng (Ba mươi mốt triệu đồng), trừ đi số tiền bị đơn đã
trả là 6.750.000 đồng (sáu triệu, bảy trăm năm mươi nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường
hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể
từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án), cho đến khi thi hành án xong,
tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều
357; khoản 2 Điều 468 của BLDS, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

8
3. Về chi phí tố tụng: Thủ tục đăng thông báo trên phương tiện thông tin
đại chúng 7.500.000 đồng (bảy triệu, năm trăm nghìn đồng) ông Trần Phước
T, bà Bùi Thị Kiều X phải chịu theo khoản 2 Điều 180 của Bộ luật tố tụng
Dân sự. Thủ tục chịu chi phí giám định: Do kết quả giám định chứng minh
yêu cầu của ông T, bà X là có căn cứ nên bị đơn ông Phạm Thanh L phải chịu
10.600.000 đồng (mười triệu sáu trăm nghìn đồng) tiền chi phí giám định theo
khoản 1 Điều 161 của Bộ luật tố tụng Dân sự, ông Tài bà Xuân đã nộp tạm
ứng số tiền trên nên ông L phải trả lại số tiền 10.600.000 đồng (mười triệu,
sáu trăm nghìn đồng) cho ông T, bà X.
4. Về án phí Dân sự sơ thẩm: Ông Phạm Thanh L phải nộp 10.212.500
đồng (Mười triệu, hai trăm mười hai nghìn, năm trăm đồng) án phí dân sự sơ
thẩm. Hoàn trả lại cho ông Trần Phước T, bà Bùi Thị Kiều X số tiền tạm ứng
án phí đã nộp là 4.902.500 đồng (Bốn triệu, chín trăm linh hai nghìn, năm
trăm đồng) theo biên lai thu tiền số 0005836 ngày 24/4/2024 tại Chi cục Thi
hành án Dân sự huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có
quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
6. Về hướng dẫn Thi hành án: Trường hợp bản án, Quyết định được thi
hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành
án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án,
quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành
án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án Dân sự. Thời
hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án
dân sự.
Nơi nhận :
- TAND tỉnh Đắk Nông;
- VKSND huyện Đăk Mil (02 bản);
- Chi cục THADS huyện Đăk Mil;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu Vp.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Thị Hồng Huệ
9
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Bản án số 222/2025/DS-PT ngày 01/04/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Bản án số 198/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Bản án số 195/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Bản án số 207/2025/DS-PT ngày 26/03/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Bản án số 177/2025/DS-PT ngày 21/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm